MỤc lục error: Reference source not found danh mục các bảng biểU 3 danh mục các hình 4


Chương 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG



tải về 1.02 Mb.
trang3/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.02 Mb.
#30786
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Chương 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG

MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ DƯƠNG LIỄU

2.1. Khái quát làng nghề Dương Liễu.

2.1.1. Vị trí địa lí

Xã Dương Liễu nằm ở phía Tây Bắc của huyện Hoài Đức, TP Hà Nội:



- Phía Bắc giáp với xã Minh Khai.

- Phía Nam giáp với xã Cát Quế.

- Phía Đông giáp với xã Đức Giang.

- Phía Tây và Tây Bắc giáp với huyện Phúc Thọ.

Dương Liễu cách nội thành Hà Nội khoảng 25 km về phía Đông Bắc. Giao thông ở đây chủ yếu là tuyến đê tả ngạn sông Đáy, thông với quốc lộ 32 ( Hà Nội- Sơn Tây).

Với vị trí là cửa ngõ của trung tâm thủ đô, đặc biệt từ khi Hà Tây sát nhập với Hà Nội, làng nghề CBNSTP xã Dương Liễu có rất nhiều lợi thế về thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như thu hút những chính sách đầu tư của Nhà nước về vốn, công nghệ trong thời gian tới…




2.1.2. Đặc điểm tự nhiên

a. Địa hình, địa chất

Địa hình xã Dương Liễu không bằng phẳng, thấp dần từ bờ đê (đê sông Đáy) xuống cánh đồng với hướng chủ đạo là Tây Bắc - Đông Nam, chia thành miền trong đê và ngoài đê, nay được gọi là miền đồng và miền bãi. Địa hình bằng phẳng là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở cho sản xuất, cư trú.

Được bồi đắp bởi phù sa của lưu vực sông Đáy và sông Nhuệ nên khu vực rất thuận lợi cho trồng lúa và các hoa màu, là các nguyên liệu chính của làng nghề. Song, nền đất này lại dễ thấm nước, làm cho nguồn nước thải của làng nghề dễ thâm nhập vào nguồn nước ngầm hơn, gây khó khăn cho công tác quản lý môi trường làng nghề.

b. Khí hậu, Thủy văn.

* Khí hậu.

Dương Liễu mang đặc điểm chung của khí hậu Đồng bằng Bắc Bộ thể hiện tính chất nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều. Mùa mưa trùng với thời kì gió Đông Nam kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô trùng với thời kì gió Đông Bắc kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 24°C. Các tháng có nắng, ít mưa, thuận lợi cho chế biến nông sản là tháng 5, 6, 10, 11, 12.

Biên độ dao động nhiệt giữa tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất là 13°- 14°. Tổng lượng nhiệt đạt 8400- 8600°C. Lượng mưa trung bình năm là 1600- 1800mm.

Hai hướng gió chủ đạo là Đông Bắc và Đông Nam, thuận lợi cho chế biến nông sản đặc biệt là công đoạn phơi và làm khô sản phẩm.

Đặc điển khí hậu này khá thuận lợi cho sản xuất chế biến nông sản và phát triển trồng lúa, cây rau màu cũng như việc phơi sấy sản phẩm.

* Thủy văn:

Dương Liễu nằm ven sông Đáy nên rất thuận lợi cho việc tưới tiêu nông nghiệp và điều hòa khí hậu địa phương. Hệ thống ao hồ chiếm 10% diện tích đất tự nhiên và là nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất. Ngoài ra còn có hệ thống mương kênh trong xã làm nhiệm vụ cấp thoát nước cho nông nghiệp.



c. Thổ nhưỡng, thực vật

Đất của xã chủ yếu là đất phù sa, thuận lợi cho trồng lúa và cây rau màu. Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình và nặng.

Đất đai có nguồn gốc phù sa sông Hồng được phân ra hai loại đất chính:

- Đất phù sa được bồi đắp hàng năm phân bố ở ngoài đê sông Đáy.

- Đất phù sa không được bồi đắp hàng năm, phân bố ở phía trong đê sông Đáy.

Thảm thực vật tự nhiên của xã rất nghèo nàn. Các loại cây chủ yếu là cây trồng như: lúa, hoa màu, cây ăn quả phân bố chủ yếu ở khu vực miền đồng và miền bãi, một phần ít rải rác trong khu dân cư. Những năm gần đây, cùng với việc đô thị hóa nông thôn, cây xanh cũng dần biến mất. Thiếu vắng vai trò điều hòa của thảm thực vật càng làm tăng thêm những ảnh hưởng của việc ô nhiễm môi trường.



2.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội.

a. Dân số, Lao động và Mức sống.

Dân số của xã Dương Liễu là 12.015 người với 2798 hộ (2008) sống phân bố ở 14 cụm dân cư gọi là xóm, trong đó có 4 xóm vùng bãi và 10 xóm vùng đồng. Tính đến thời điểm 30/6/2008 toàn xã có khoảng 1800 hộ tham gia vào một công đoạn hay cả quá trình sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp ( CN- TTCN).

Hàng năm ngành CN- TTCN, thương mại và dịch vụ ở địa phương đã tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân và thu hút đáng kể lao động từ các địa phương khác tới tham gia. Toàn xã có khoảng 6500 lao động và khoảng 300- 500 lao động từ bên ngoài đến làm thuê.

Nhờ sản xuất chế biến nông sản kết hợp với nông nghiệp, dịch vụ mức thu nhập bình quân đầu người của xã ngày càng cao đạt 9,5 triệu đồng/người/ năm. Hiện nay xã chỉ còn 61 hộ nghèo chiếm 2,23%, giảm 14 hộ so với năm 2006 (theo báo cáo cả năm 2007). Đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Các dịch vụ cho dân sinh ngày càng được tăng theo mức sống.


b. Cơ cấu kinh tế.

Tổng thu nhập kinh tế năm 2008 đạt 120 tỷ đồng tăng 110% so với kế hoạch, tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 11,7 % trong đó:

- Ngành nông nghiệp đạt 19,6 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 16,3%

- Ngành CN- TTCN đạt 68,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 57%

- Ngành thương mại- dịch vụ đạt 32 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 26,7%.

* Nông nghiệp:

Đất nông nghiệp bình quân đầu người của xã chỉ khoảng 245,5 m²/người. Năm 2008 xã chỉ đạo gieo trồng 272,46 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó:

- Diện tích lúa: 94,5 ha

- Diện tích màu: 87,96 ha

- Diện tích cây ăn quả: 80 ha

- Diện tích nuôi trồng thủy sản: 10 ha.

Năng suất lúa trung bình đạt 11,65 tấn/ ha, tăng 1,15 tấn/ ha so với năm 2007. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 1099,2 tấn. Kết quả ngành chăn nuôi tính đến hết 30/10/ 2008: toàn xã có 325 con trâu bò, 10 500 con lợn, 8479 gia cầm. Ngành chăn nuôi luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở mức 50- 54% ( Số liệu báo cáo tổng kết cuối năm 2008).

* Sản xuất công nghiệp- TTCN- Thương mại, Dịch vụ:

Trong năm 2008, sản xuất công nghiệp - TTCN và Dịch vụ thương mại đã đạt và vượt kế hoạch. Tổng thu nhập ước đạt hơn 100 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 83,7% trong cơ cấu kinh tế, trong đó CBNSTP chiếm vị trí chủ đạo:

- Tính đến năm 2008, CBNSTP chiếm hơn 70% cơ cấu thu nhập toàn xã (kể cả các dịch vụ có liên quan)

- Giải quyết việc làm cho hơn 4500 lao động trong xã và nhiều lao động từ vùng khác đến.

- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 34% (1999) " 16,3 % (2008)

- Nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân: Thu nhập bình quân đạt 10 – 11 triệu/người/năm.

Tính đến hết tháng 12/ 2008, toàn xã có 48 công ty TNHH và cổ phần (có tới 38 công ty hoạt động trong lĩnh vực CBNSTP), hơn 20 doanh nghiệp tư nhân, khoảng 500 hộ gia đình sản xuất kinh doanh với quy mô vừa, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, thương mại dịch vụ.

Ngành TTCN tiếp tục tăng trưởng do có sự đổi mới, đầu tư về khoa học kỹ thuật và công nghệ, đổi mới sản phẩm. Ngoài các ngành phát triển như bánh kẹo, chế biến nông sản xuất hiện thêm các ngành mới, sản phẩm mới như sản xuất rượu, thêu ren…

Ngành thương mại dịch vụ bao gồm:

+ Dịch vụ cung cấp nguyên liệu cho chế biến nông sản.

+ Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.

+ Dịch vụ cung ứng các sản phẩm hàng hóa phục vụ cho đời sống nhân dân.

Tuy là ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp của chỉ số giá tiêu dùng nhưng do có sự chủ động về nguồn vốn đầu tư, tích trữ nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nên vẫn đảm bảo lợi nhuận theo kế hoạch, mục tiêu đề ra. Các khu vực dịch vụ như chợ tiêu dùng, chợ hoa quả và chợ nông sản hoạt động ổn định, có hiệu quả, thu hút khách hàng. Các mặt hàng tinh bột, miến dong và các sản phẩm truyền thống thị trường tiêu thụ tương đối ổn định.

c. Văn hóa xã hội.

* Giáo dục:

Xã có một trường trung học cơ sở, hai trường tiểu học và một trường mầm non khang trang sạch đẹp tạo điều kiện tốt cho các em học tập.



Bảng 2.1. Số người đi học năm 2007

Cấp học

Mầm non

Tiểu học

Trung học

Số người đi học

415

922

831

Tổng

2168

Nguồn: UBND xã Dương Liễu năm 2007

Năm học 2007, học sinh thi đỗ vào các trường đại học là 51 em, vào cao đẳng là 28 em.



* Y tế:

Xã có một trạm y tế với 3 y sỹ, 2 dãy nhà cấp 4 cung cấp đầy đủ giường bệnh cho bệnh nhân và trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh.

Năm 2007 trạm đã khám cho 13 652 lượt người, quản lý tốt mạng lưới y tế thôn, đảm bảo phục vụ tốt sức khỏe cho nhân dân.

Theo thẩm định 10- chuẩn quốc gia, trạm y tế Dương Liễu đạt 93,7 điểm, đạt chuẩn y tế quốc gia năm 2007.



* Văn hóa:

Được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, HĐND- UBND xã Dương Liễu, ban chỉ đạo nếp sống văn hóa, văn nghệ các đoàn thể đã đề ra phương hướng hoạt động và thực hiện các mục tiêu để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Có thể nói rằng, Dương Liễu là xã nông thôn đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về kinh tế và xã hội trong những năm gần đây. Dù có lợi thế của vùng đồng bằng cho phát triển nông nghiệp, nhưng với diện tích không lớn (hơn 400 ha), dân số lên tới hơn 12 nghìn người (2008), việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã Dương Liễu sang hướng đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (mà nghề chính là CBNSTP) là một hướng đi đúng đắn. Bởi lẽ Dương Liễu có lợi thế về lao động, về nguyên liệu, lại thuộc vùng đồng bằng sông Hồng với lịch sử phát triển lâu đời về nghề tiểu thủ công nghiệp, hơn nữa lại có thị trường tiêu thụ lớn là Thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận. Các nghề CBNSTP đã có mặt khá lâu ở Dương Liễu và ngày càng phát triển, mở rộng cả về quy mô và sản phẩm cũng như thị trường tiêu thụ.

2.2. Hiện trạng sản xuất của làng nghề.

Là xã nằm trong vùng trọng điểm chế biến nông sản của Hà Nội, Dương Liễu đã được công nhận là làng nghề từ năm 2001.

Thực tế, từ những năm 1960 của thế kỷ 20 ở đây đã manh nha nghề làm miến dong riềng, làm kẹo mạch nha, mang tính thủ công, nhỏ lẻ. Sản phẩm làm chỉ đủ cung cấp cho đôi xí nghiệp chuyên sản xuất bánh kẹo gia công; miến rong chỉ đủ cung cấp cho cánh lái buôn trong huyện. Đến nay ở Dương Liễu đã có hơn 40% số hộ chuyên nghề chế biến nông sản, dải trên khắp 14 xóm toàn xã, tổng các hộ hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các dịch vụ liên quan đến nghề CBNS chiếm hơn 70%. Sản phẩm của làng nghề ngày một đa dạng, phong phú: tinh bột sắn và tinh bột dong… cung cấp cho các công ty dược, các nhà máy bánh kẹo; làm mạch nha, miến, bún khô… không chỉ cung cấp cho các thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước khác như Lào, Campuchia, Trung Quốc, Nga, Ba Lan…Ngoài ra mấy năm gần đây, xuất hiện một số ngành nghề mới như: dệt, làm bánh kẹo, sản xuất giường ghế đan, màng mỏng, thêu…

2.2.1. Nguyên liệu chủ yếu cung cấp cho làng nghề

Do đặc thù của nghề chế biến nông sản nên nguyên liệu sản xuất chính vẫn tập trung vào một số nông sản như: củ sắn, củ dong riềng, đỗ xanh, lạc, vừng. Các ngành sản xuất bánh kẹo, mạch nha lại sử dụng sản phẩm tinh bột sắn, tinh bột dong, vừng, lạc sơ chế, đỗ xanh bóc vỏ… Nước dùng cho sản xuất chủ yếu là nước giếng khoan, nước ở các hồ đã qua bể lọc.

Các nguyên liệu sắn củ, dong củ cho hoạt động của làng nghề chủ yếu được mua từ các vùng khác về, như Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc…Vừng, lạc, đỗ xanh… chủ yếu mua từ các tỉnh lân cận thuộc đồng bằng sông Hồng và một phần không nhiều là từ nông nghiệp của xã.

Tuy nhiên, sản lượng tinh bột sắn, dong do làng nghề sản xuất ra không đủ cung cấp cho các ngành công nghiệp nhẹ nên vùng vẫn phải nhập khẩu tinh bột, chủ yếu là tinh bột dong từ Trung Quốc.



Bảng 2.2. Biểu thống kê một số nguyên liệu sản xuất chính 2008

TT

Nguyên liệu chính

Số lượng (tấn)

1

Củ sắn

140.000

2

Củ dong

60.000

3

Đỗ xanh bóc tách

6.250

4

Vừng lạc sơ chế

1.200

5

Tinh bột gạo, sắn, dong, bột mỳ

150.000

Nguồn: UBND xã Dương Liễu, 2008

2.2.2. Công nghệ sản xuất

Trong những năm gần đây tốc độ đầu tư để đổi mới công nghệ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm diễn ra khá nhanh ở hầu hết các lĩnh vực của ngành sản xuất. Tuy nhiên quá trình đầu tư đổi mới khoa học còn mang tính chắp vá thiếu đồng bộ, công nghệ sản xuất chỉ tập trung đổi mới ở một số khâu, một số quy trình nhằm giảm bớt sức lao động, tạo ra năng suất cao (như máy khuấy trộn, máy bóc tách vỏ nông sản, máy hấp tráng miến, máy cắt miến…). Mặt khác do hạn chế về mặt bằng sản xuất và nguồn vốn nên đầu tư công nghệ cho sản xuất còn nhỏ lẻ mang tính công đoạn, nhìn chung còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình hiện nay.

Đặc biệt, hiện làng nghề hầu như chưa có sự đầu tư công nghệ cho vấn đề giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Lượng nước thải và bã thải hàng năm rất lớn nhưng không qua xử lý mà thải trực tiếp vào các kênh mương rồi đổ vào sông Đáy, sông Nhuệ, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

2.2.3. Nguồn lao động

Hiện nay chế biến nông sản là ngành thu hút nhiều lao động nhất ở Dương Liễu, với hơn 40% số hộ làm nghề chế biến nông sản, phân bố khắp 14 xóm toàn xã.



Bảng 2.3. Cơ cấu lao động theo ngành của làng nghề 2008

STT

Ngành

Số hộ

Số lao động

1

Nông nghiệp

740

1.499

2

CN – TTCN (cả hộ kiêm)

1.273

4.550

3

Thương mại- Dịch vụ

785

1.457

4

Tổng cộng

2.798

7.506

Nguồn: UBND xã Dương Liễu, 2008

Ngoài hơn 4000 lao động chuyên và kiêm trong các hoạt động sản xuất CBNSTP, hàng năm, nhất là vào vụ chính làng nghề còn thuê hàng trăm lao động từ nơi khác đến.

Từ năm 2002 đến nay, xã tiếp tục khôi phục lại nghề thêu tay truyền thống, và nghề may công nghiệp, duy trì khoảng 50 lao động do HTX nông nghiệp quản lý. Bước đầu thu nhập của mỗi lao động trung bình là hơn 800.000 đến 1 triệu đồng/người/tháng.

Hoạt động sản xuất của làng nghề đã tạo việc làm cho nhiều lao động của xã. Riêng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thu hút hơn 4000 lao động trong vùng, kể cả lao động chuyên và lao động phụ thêm giờ. Đồng thời cũng thu hút đáng kể lao động từ các địa phương khác đến.



2.2.4. Sản phẩm và trị trường

Dương Liễu là địa phương có truyền thống lâu đời trong nghề chế biến các sản phẩm nông sản, có lực lượng lao động dồi dào và có kinh nghiệm trong nhiều năm sản xuất. Sản phẩm chính của làng nghề này là: tinh bột sắn, tinh bột dong, mạch nha phục vụ cho các công ty dược, sản xuất miến dong, bún khô, phở khô, công nghiệp nhẹ (hồ vải, keo dán, giấy, bánh kẹo…). Cùng với sự phát triển của cả nước, các sản phẩm của làng nghề như miến dong, bún khô, đỗ xanh bóc tách… không chỉ có mặt ở các địa phương trong cả nước mà còn xuất khẩu sang một số thị trường khác như Lào, Campuchia, Trung Quốc, Nga, Ba Lan…



Bảng 2.4. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của làng nghề

STT

Các sản phẩm chủ yếu

2005

2008

1

Tinh bột sắn

60.000

70.000

2

Tinh bột dong

17.000

20.000

3

Bánh kẹo các loại

4.000

18.000

4

Đỗ xanh bóc vỏ

4.500

5.000

5

Vừng lạc sơ chế

1.000

10.000

6

Miến dong

4.500

7.500

7

Bún phở khô

2.000

3.000

8

Mạch nha

15.000

10.000

9

Tổng

108.000

133.000

Nguồn: UBND xã Dương Liễu, 2007

Hiện nay, khối lượng sản phẩm đã lên hơn 130.000 tấn với giá trị gần 300 tỷ đồng/năm. Tổng thu nhập hàng năm của xã hiện nay đạt gần 120 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người khoảng 9,5 triệu đồng/người/năm. Từ đó đời sống của người dân không ngừng được cải thiện.



2.2.5. Phân bố sản xuất

Trong các nghề CBNSTP ở Dương Liễu hiện nay chiếm tỷ trọng cao nhất về khối lượng sản phẩm cũng như số hộ sản xuất vẫn là sản xuất tinh bột sắn và dong (67% về sản lượng và hơn 50% về số hộ sản xuất). Ở tất cả các xóm đều có các hộ tham gia sản xuất tinh bột, trong đó làm bột thô tập trung ở các xóm như: Đoàn Kết, Gia, Me Táo, Đồng Phú, Đình Đàu, Hợp Nhất..., quy mô sản xuất của các hộ khá lớn, có nhiều hộ sản xuất khoảng 3 – 4 tấn nguyên liệu/ngày; làm bột tinh chủ yếu ở các xóm Mới, Đồng Phú, Me Táo, Quê.; Làm miến dong chiếm phần lớn ở xóm Gia, Chùa Đồng, Chàng Trũng, hiện nay đang mở rộng ra nhiều xóm với quy mô khoảng 5 tạ/ngày/hộ. Các nghề khác như sơ chế đỗ xanh, làm mạch nha, bánh kẹo… cũng rải rác ở các xóm.

Trong 14 xóm ở làng nghề thì có một số xóm có mật độ sản xuất CBNSTP khá lớn như: Thống Nhất, Gia, Mới, Đoàn Kết, Chàng Trũng, Chàng Chợ… (từ 50 – 70 % số hộ tham gia CBNSTP), đặc biệt ở xóm Đồng và Hợp Nhất có từ 80 – 90 % số hộ sản xuất CBNSTP. Hòa Hợp là xóm có tỷ lệ các hộ sản xuất nông nghiệp lớn nhất, nhưng hiện nay cũng đã có nhiều hộ chuyển sang CBNSTP, chủ yếu là sản xuất bột sắn thô.

Do điều kiện đất đai chật hẹp và chưa có quy hoạch sản xuất hợp lý nên hiện nay làng nghề đang thiếu cơ sở vật chất cho sản xuất. Nơi sản xuất chính phần lớn chung với nơi ở, sinh hoạt. Còn khu vực cho phơi các sản phẩm được tập trung hầu hết ở cánh đồng và ven các tuyến đường bê tông, đường đê, trên các khoảng đất trống.

Nhìn chung, làng nghề Dương Liễu trong những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng khá nhanh (7,7%/năm), mang lại cho xã một nguồn thu nhập lớn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế rõ rệt (giảm tỷ trọng nông nghiệp từ hơn 20% năm 2000 xuống còn 16% năm 2008, dự tính đến năm 2015 sẽ còn khoảng 12%); nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Song với thực trạng sản xuất còn mang tính tự phát, phân tán, thiếu cơ sở vật chất, thiếu vốn, khoa học kỹ thuật, chưa chú trọng đúng mức tới các yếu tố môi trường và sức khỏe cộng đồng… nên Dương Liễu hiện nay đang đứng trước tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nếu không giải quyết kịp thời, sự phát triển của làng nghề sẽ gặp nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sức khỏe của cộng đồng dân cư.
2.3. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới môi trường của làng nghề.

2.3.1. Các nguồn gây ô nhiễm từ sản xuất.

a. Đặc thù sản xuất.

Các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp chủ yếu của Dương Liễu bao gồm: Sản xuất tinh bột (sắn, dong); sản xuất mạch nha; sơ chế vừng, lạc, đỗ xanh; làm miến, bún khô, làm bánh kẹo. Hiện nay có thêm một số nghề mới như thêu ren, làm gạch, tuy nhiên ản lượng chưa nhiều.

Do đặc thù là làng nghề chế biến nông sản nên đặc điểm chung về nguyên liệu đầu là các sản phẩm từ ngành trồng trọt. Bao gồm: sắn củ, dong củ, vừng, lạc, đỗ xanh, khoai, ngô và một số các phụ phẩm khác.

Mặt khác, sản xuất phi nông nghiệp ở đây vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, phân tán. Hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu là theo hộ gia đình, cơ sở sản xuất đặt tại khu nhà ở, chưa có hệ thống phân loại nước thải sản xuất và nước thải sinh hoạt.



b. Nguyên nhân gây ô nhiễm từ sản xuất nghề.

Các hoạt động CBNSTP chính bao gồm: việc rửa, bóc, tách vỏ nguyên liệu; nghiền, xay các loại củ (dong, sắn, đỗ); ngâm, ủ, lọc bột dong, sắn; phơi sấy sản phẩm; vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm… Bởi vậy, đối với chất thải rắn chủ yếu là các loại bã sắn, bã dong; vỏ (sắn, dong, đỗ, khoai) kèm với đất cát; xỉ than. Đối với nước thải, đặc trưng là có hàm lượng hữu cơ cao, thể hiện qua lượng BOD, COD trong nước thải lớn hơn hàng chục lần, hàng trăm lần so với TCCP.

Ở làng nghề Dương Liễu, công nghệ khoa học ứng dụng trong sản xuất chủ yếu chỉ dừng lại ở việc nâng cao năng suất, giảm thiểu lao động nhưng còn mang tính chắp vá, nhỏ lẻ, theo từng công đoạn (như máy rửa, bóc vỏ nguyên liệu; máy khuấy trộn bột; máy cắt, tráng miến) mà chưa có sự đầu tư đồng bộ. Hơn nữa chủ yếu là các máy móc được mua lại, đã dùng lâu năm không cải tạo. Cả làng chưa có bất cứ sự đầu tư máy móc nào nhằm giảm thiểu chất thải, bảo vệ môi trường. Do đó, hiệu suất của nguyên liệu không cao, đồng nghĩa là khối lượng thải lớn, lại không được xử lý trước khi thải vào môi trường nên gây ô nhiễm là điều tất yếu.

Hơn nữa, do thiếu mặt bằng cho sản xuất nên toàn bộ việc phơi các sản phẩm (bột sắn, dong, miến) được tập trung ở cánh đồng, ven đường đi, các bãi đất trống; hàng trăm tấn nguyên liệu (chủ yếu là củ sắn, củ dong được chất đống ở khu vực chợ nông sản, ven các đường đi)… làm mất vệ sinh môi trường, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.




tải về 1.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương