MỤc lục error: Reference source not found danh mục các bảng biểU 3 danh mục các hình 4


Hình 1.1. Sự phân bố các làng nghề Việt Nam theo khu vực



tải về 1.02 Mb.
trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.02 Mb.
#30786
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Hình 1.1. Sự phân bố các làng nghề Việt Nam theo khu vực


* Tình hình sản xuất của các làng nghề

- Nguyên liệu cho sản xuất:

Nguyên vật liệu cho các làng nghề chủ yếu được khai thác ở các địa phương trong nước. Nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, phong phú nông sản và thực vật, đồng thời có nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng trong đó có các loại vật liệu xây dựng. Do đó, hầu hết các nguồn nguyên liệu vẫn lấy từ trực tiếp từ tự nhiên.

Do sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất, việc khai thác và cung ứng các nguyên liệu tại chỗ hay các vùng khác trong nước đang dần bị hạn chế. Ví dụ, theo thống kê, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) mỗi năm tiêu thụ khoảng 70.000 tấn than, gần 100.000 tấn đất nguyên liệu; Các làng nghề chế biến gỗ, mây tre đan trong những năm qua đòi hỏi cung cấp một khối lượng nguyên liệu rất lớn, đặc biệt là các loại gỗ quý dùng cho sản xuất đồ gỗ ga dụng và gỗ mỹ nghệ. Nhiều nguyên liệu chúng ta đã phải nhập từ một số nước khác.

Sự khai thác bừa bãi, không có kế hoạch đã làm cạn kiệt tài nguyên và gây ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Việc sơ chế các nguyên liệu chủ yếu do các hộ, các cơ sở sản xuất tự làm với kỹ thuật thủ công hoặc các máy móc thiết bị tự chế lạc hậu. Do đó, chưa khai thác hết hiệu quả của các nguyên liệu, gây lãng phí tài nguyên.

- Công nghệ, thiết bị và cơ sở hạ tầng sản xuất

Hầu hết các cơ sở sản xuất nghề nông thôn, nhất là ở khu vực các hộ tư nhân vẫn còn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc cải tiến một phần. Trình độ công nghệ còn lạc hậu, cơ khí hóa thấp, các thiết bị phần lớn đã cũ, sử dụng lại của các cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, an toàn và vệ sinh môi trường. Trình độ công nghệ thủ công và bán cơ khí vẫn chiếm tỷ lệ hơn 60% ở các làng nghề.

Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới, nhiều làng nghề đã áp dụng công nghệ mới, thay thế máy móc mới, hiện đại. Ví dụ, làng gốm Bát Tràng đã dùng đã dần dần đưa công nghệ nung gốm sứ bằng lò tuy nen (dùng ga và điện) thay cho lò hộp và lò bầu (dùng than và củi), nhào luyện đất bằng máy thay cho bằng tay thủ công, dùng bàn xoay bằng mô tơ điện thay cho bàn xoay bằng tay...; làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ Bắc Ninh hiện nay đã đầu tư 11 máy xẻ ngang, 300 máy cắt dọc, 100 máy vanh, 500 máy khoan bàn, 500 máy phun sơn… phục vụ cho sản xuất, nhờ đó mà năng suất và chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao rõ rệt…

Bảng 1.1. Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề hiện nay


Trình độ kỹ thuật


Chế biến nông – lâm – thủy sản

Thủ công mỹ nghệ và vật liệu xây dựng

Các ngành dịch vụ

Các ngành khác

Thủ công bán cơ khí (%)

61.51

70.69

43.90

59.44

Cơ khí (%)

38.49

29.31

56.10

40.56

Tự động hóa (%)

0

0

0

0
Nguồn: Đặng Kim Chi, 2005

Song nhìn chung, phần lớn công nghệ và kỹ thuật áp dụng cho sản xuất trong các làng nghề nông thôn còn lạc hậu, tính cổ truyền chưa được chọn lọc và đầu tư khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm còn thấp, do đó chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường và giảm sức cạnh tranh.

Hơn nữa, các làng nghề hiện nay nhìn chung đều gặp khó khăn về mặt bằng cho sản xuất. Tình trạng phổ biến nhất hiện nay là việc sử dụng luôn nhà ở làm nơi sản xuất. Các cơ sở sản xuất lớn thì thường chỉ có lán che lợp fibrô xi măng, rơm rạ, lá mía, căng bạt… mang tính chất tạm bợ. Các bãi tập kết nguyên liệu, kể cả các bãi, kho chứa hàng gần khu dân cư, tạm bợ, không đúng tiêu chuẩn môi trường. (ví dụ như làng nghề tái chế nhựa Minh Khai, Hưng Yên; làng nghề tái chế chì Chỉ Đạo, Hưng Yên…).

Về nhà xưởng, các làng nghề chỉ có số ít (10 – 30%) các nhà xưởng kiên cố, còn lại là bán kiên cố và tạm bợ. Tỷ lệ đường giao thông tốt trong các làng nghề đa số chỉ chiếm trên dưới 20%. Hệ thống cấp nước sạch chưa đáp ứng được cả cho sinh hoạt và cho sản xuất. Chỉ có 60% số hộ nông dân dùng nước sạch theo các hình thức nước giếng khoan, nước mưa, nước giếng khơi, còn lại là dùng nước mặt ao hồ, sông, suối [Đặng Kim Chi, 2005]. Do khai thác bừa bãi nên nguồn nước bị cạn kiệt. Nước thải hầu như ít được xử lý nên gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt là trong những năm gần đây, quy mô sản xuất của nhiều làng nghề tăng lên, áp dụng nhiều biện pháp công nghệ có sử dụng hóa chất, thiết bị và nhiêu liệu… đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sống.

Như với các làng nghề của Hà Nội, những năm gần đây có sự hỗ trợ Ngân sách của nhà nước và sự đóng góp của nhân dân, cơ sở hạ tầng làng nghề đã có nhiều cải thiện. Hệ thống đường giao thông rải nhựa có 10%, bê tông đạt 40%. Tuy nhiên, còn 50% vẫn là đường cấp phối, mặt đường còn hẹp, sử dụng bừa bãi. Nguyên vật liệu và phế thải đồ tràn cả ra đường, đường xá thường xuyên bị lầy lội khi mưa do hệ thống thoát nước chưa tốt, bụi mù mịt khu trời nắng… Đây cũng là tình trạng chung của nhiều làng nghề Việt Nam hiện nay. Như vậy vừa gây mất vệ sinh, vừa bụi bẩn, ồn ào xung quanh, vừa không an toàn cho sản xuất, tạo điều kiện phát tán ô nhiễm môi trường nhiều và nhanh hơn.

- Đặc điểm về lao động và tổ chức sản xuất

Trong những năm gần đây, hoạt động sản xuất của làng nghề đang có nhiều bước tiến mới, nhất là trong thời đại hiện đại hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay. Các làng nghề đã thu hút một lực lượng lao khá đông đảo, chiếm gần 30% lao động nông thôn (hơn 10 triệu lao động).

Hiện nay, mỗi cơ sở chuyên làm nghề bình quân tạo việc làm ổn định cho 27 lao động thường xuyên, 8 – 10 lao động thời vụ. Mỗi hộ chuyên nghề tạo việc làm cho 4 – 6 lao động thường xuyên, 2 – 5 lao động thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu ren, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 – 250 lao động.

Nhiều làng nghề đã thu hút hơn 60% lao động trong vùng và nhiều lao động từ các vùng khác đến. Ví dụ làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) đã giải quyết việc làm cho gần 2.430 lao động của xã và từ 5000 – 6000 lao động từ các vùng khác đến; hay làng nghề Đồng Kỵ (Bắc Ninh), cũng tạo việc làm cho hơn 4500 lao động tại chỗ và khoảng 1500 lao động từ vùng lân cận… [Đặng Kim Chi, 2005].

Do hạn chế về công nghệ và kỹ thuật sản xuất nên các làng nghề vẫn sử dụng chủ yếu là các lao động thủ công ở hầu hết các công đoạn, kể cả những công đoạn nặng nhọc và độc hại nhất. Mặt khác, nhiều sản phẩm có đặc thù đòi hỏi trình độ kỹ thuật và tính mỹ thuật cao, tay nghề khéo léo… chủ yếu là ở các làng nghề truyền thống, sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Trong các làng nghề truyền thống, vai trò của các nghệ nhân rất quan trọng, được coi là nòng cốt của quá trình sản xuất và sáng tạo ra nghệ thuật.

Chất lượng lao động và trình độ chuyên môn ở các làng nghề nhìn chung còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nghề chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Với người lao động trực tiếp, thành phần đã tốt nghiệp phổ thông ở các cơ sở sản xuất và các hộ chuyên chiếm hơn 70%; còn đối với các hộ kiêm và các hộ thuần nông, lao động nghề chiếm từ 40 đến 70% mới tốt nghiệp cấp I và II, tỷ lệ hết cấp III chưa đến 20%.

Đối với các chủ hộ và chủ doanh nghiệp, nhìn chung trình độ học vấn, chuyên môn còn rất hạn chế. Có tới 1,3 – 1,6% trong số họ không biết chữ, trình độ học vấn bình quân mới đạt lớp 7 – 8/12. Tỷ lệ chưa qua đào tạo kiến thức quản lý chuyên môn ở các chủ hộ chiếm 51,5 – 69,89%, đối với các chủ doanh nghiệp chiếm hơn 43% [Trần Minh Yến, 2003].

Đây là một trong những hạn chế có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường trong hoạt động của các làng nghề.

Trong lịch sử phát triển làng nghề các giai đoạn qua thì hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến nhất là hình thức hộ gia đình. Cho đến nay, cùng với đó, một số hình thức sản xuất khác đã ra đời và phát triển phù hợp với xu hướng kinh tế mới. Các hình thức tổ chức sản xuất của các làng nghề chủ yếu gồm: Tổ chức sản xuất Hợp tác xã; doanh nghiệp tư nhân; hộ gia đình; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần. Các hình thức này cùng tồn tại, tác động lẫn nhau trong điều kiện kinh tế mới của nền kinh tế thị trường.

Song, hiện tại, hộ gia đình vẫn là hình thức tổ chức sản xuất phổ biến nhất trong các làng nghề Việt Nam.

- Thị trường công nghệ mang một đặc tính riêng của các làng nghề. Các thợ thủ công có khả năng tạo ra các công cụ sản xuất từ đơn giản đến phức tạp. Quá trình chuyên môn hóa sản xuất là động lực cho ra đời các làng nghề chuyên chế tạo công cụ sản xuất cung ứng cho các làng nghề. Ví dụ, có nơi chuyên sản xuất các loại máy móc (máy cắt, tráng bún miến, khuôn đúc hoa văn, máy nhào luyện đất, máy dệt…) cho các làng nghề. Hiện nay, do tác dụng của cách mạng Khoa học Kỹ thuật, thị trường công nghệ đã dần chuyển giao công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất. Tuy nhiên, hiệu quả đạt được còn nhiều hạn chế, do điều kiện kinh tế xã hội của nước ta, nên nhiều công nghệ chủ yếu sử dụng lại công nghệ cũ của các nước khác, các hộ sản xuất sử dụng công nghệ cũ của các xưởng sản xuất lớn hơn gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến an toàn lao động.

- Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Trước đây, về cơ bản thị trường này nhỏ hẹp, tiêu thụ tại chỗ (các vùng nông thôn, các làng nghề) do đó giá thành cũng thấp. Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, cơ cấu kinh tế và quan hệ hệ sản xuất ở nông thôn cũng dần thay đổi, điều này đã tác động mạnh mẽ đến tình hình sản xuất và kinh doanh của các làng nghề, chúng dần thích ứng, đáp ứng các nhu cầu của một nền kinh tế mới. Sản xuất hộ gia đình được khuyến khích và chiếm ưu thế đã tạo điều điều cho việc sử dụng lao động, tự do chọn nguyên liệu và sản phẩm, tăng gia sản xuất, lựa chọn thị trường và tiêu thụ sản phẩm. Nhiều mặt hàng từ các làng nghề đã được nhiều thị trường trong nước chấp nhận và vươn tới các thị trường nước ngoài, mang lại nguồn thu đáng kể cho quốc gia, đặc biệt phải kể đến là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ (mây tre đan, hàng dệt, thêu ren, gốm…), đồ gỗ gia dụng, gỗ mỹ nghệ… Hiện nay, thị trường xuất khẩu các mặt hàng truyền thống của Việt Nam mở rộng sang khoảng hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapo, thậm chí cả các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, EU… Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu đạt 562 triệu USD, trong đó cao nhất là các mặt hàng gỗ gia dụng và gỗ mỹ nghệ.

- Giá trị sản lượng các làng nghề

Trong thời gian qua, các làng nghề Việt Nam đã có nhiều bước tiến mới trong quá trình phát triển. Các làng nghề đã tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tính đến năm 2000, tổng giá trị sản lượng của các làng nghề trong cả nước đạt khoảng 40.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời gian này qua khảo sát đạt từ 7 – 9%/năm. Cơ cấu các ngành nghề cũng đa dạng hơn, có sự chuyển dịch đáng kể, tăng tỷ trọng các ngành chế biến lương thực, thực phẩm và cơ khí, giảm tỷ trọng các ngành sản xuất vật liệu. Các sản phẩm đã và đang dần bám sát nhu cầu và thị hiếu của thị trường. Nhiều làng nghề mới được thành lập, nhiều làng nghề cũ đã đầu tư cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề… Do đó giá trị sản lượng cũng như chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên, dần xâm nhập các thị trường khó tính trên thế giới.

Một số tỉnh điển hình với giá trị sản lượng của các làng nghề cao như: Năm 2000 giá trị hàng hóa các làng nghề tỉnh Nam Định đạt 224 tỷ đồng, Bắc Ninh đạt 210 tỷ đồng, Hải Dương đạt 637 tỷ đồng, Hà Tây đạt tới 1045 tỷ đồng… [Đặng Kim Chi, 2005].

Theo báo cáo của Hiệp hội làng nghề Việt Nam (5/2009): Giá trị sản xuất CN-TTCN của làng nghề trong vòng chục năm nay tăng từ 21-25% /năm. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong những năm qua liên tục tăng: từ 235 triệu USD năm 2001, lên 600 triệu USD năm 2006 và hơn 800 triệu USD năm 2008 và mục tiêu đề ra sẽ đạt 1,5 tỷ USD năm 2010. Các thị trường chủ yếu mà chúng ta hướng tới hiện nay như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Xingapo, Hồng Kông, Trung Quốc… Thực tế cho thấy các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU là các thị trường có nhiều tiềm năng cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. [Vietcraftb2b.com, 2009]



* Một số thách thức chủ yếu đối với các làng nghề hiện nay [Tạp chí công nghiệp, 25/12/2008]

Sự phát triển làng nghề và các làng nghề truyền thống đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trong giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ nông thôn, góp phần giải quyết việc làm cho nhiều người lao động. Sản xuất tại các làng nghề đã tạo ra nhiều mặt hàng có giá trị kinh tế cao, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng mỗi năm; nhiều cơ sở sản xuất tại một số làng nghề đã bước đầu khẳng định được uy tín chất lượng và thương hiệu hàng hoá của mình đối với khách hàng trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, hiện nay các làng nghề đang đứng trước nhiều khó khăn, đó là phát triển kiểu phong trào, chưa có quy hoạch; quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, các thiết bị cũ chắp vá, thiếu đồng bộ, trình độ tay nghề lao động không đồng đều. Đặc biệt, các làng nghề truyền thống còn có một điểm yếu quan trọng dẫn đến bị thua thiệt khi cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước là chưa có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm của mình. Các khó khăn trong xây dựng và phát triển làng nghề ở Việt Nam có thể nêu ngắn gọn, điển hình như:

Thứ nhất là nội lực của các làng nghề nói chung còn yếu, thể hiện:

- Mặt bằng sản xuất của nhiều làng nghề còn chật hẹp, không thể mở rộng và phát triển sản xuất tiếp được. Đa số các cơ sở sản xuất nằm ngay trong khu dân cư, thậm chí là chung với nhà ở.

- Cơ sở hạ tầng ở các làng nghề tuy có khá hơn so với cơ sở hạ tầng ở các làng nông thôn khác, đặc biệt là điều kiện giao thông và điện. Nhưng nhìn chung, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho phát triển làng nghề vẫn còn yếu kém như: đường trong các làng nghề nhìn chung còn hẹp, chủ yếu là trải đá và bê tông chưa phục vụ tốt cho vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm.

- Thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ, thiếu vốn và kỹ thuật là những vấn đề phổ biến nhất với các làng nghề. Vốn sản xuất kinh doanh vừa nhỏ, vừa thiếu, "80% làng nghề thiếu vốn. Do thủ tục vay còn phức tạp, chỉ có dưới 10% số người sản xuất có thể sử dụng hệ thống tài chính của Nhà nước" (JICA); các nhà sản xuất thường vay của tư nhân.

- Người lao động sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề tuy dồi dào, nhưng còn thiếu nhân lực quản lý và lao động kỹ thuật, theo JICA, chỉ có 24,2% trong tổng số lao động tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề được đào tạo chính thức.

Nếu không có chính sách khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước và không có sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất trong làng nghề, liên kết với doanh nghiệp lớn thì các cơ sở sản xuất nhỏ, phân tán của các làng nghề rất khó có thể nâng cao nội lực của mình.



Thứ hai là khả năng cạnh tranh trên thị trường: Hàng hóa Việt Nam nói chung có khả năng cạnh tranh thấp, trong đó có cả các hàng hóa của làng nghề (Theo điều tra, đánh giá của tổ chức JICA, phần lớn có sức cạnh tranh trung bình và yếu). Hạn chế này xuất phát từ nội lực sản xuất còn thấp và các khâu bảo vệ môi trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kém hiệu quả, dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao, sức cạnh tranh yếu kém.

Ba là, phát triển các làng nghề hiện đang làm gia tăng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hầu hết các làng nghề Việt Nam hiện nay đã và đang bị ô nhiễm ở cả ba dạng: ô nhiễm nước, ô nhiễm rác thải và khí thải.

Trước những khó khăn đó, đòi hỏi cần có những chính sách phát triền các làng nghề phù hợp, sao cho tận dụng được những lợi thế của đất nước trong quá trình phát triển, vượt qua những thử thách của hội nhập và đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, hiệu quả.

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do cách thức tổ chức và quản lý sản xuất của các làng nghề hiện nay chưa thật sự hiệu quả. Đa số các làng nghề sản xuất với hình thức nhỏ lẻ, thiếu sự hỗ trợ về vốn, công nghệ, cũng như những thông tin về thị trường… Nhằm giúp cải thiện tình trạng này thì việc quy hoạch không gian sản xuất gắn với bảo vệ môi trường là một trong những giải pháp đang thu được hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, hiện nay việc quy hoạch các làng nghề còn hạn chế về số lượng cũng như thành tựu do thiếu sự đồng bộ.

* Hiện trạng quy hoạch hiện có:

Theo đánh giá cụ thể của một số nhà nghiên cứu về diện tích sử dụng, về hạ tầng cơ sở tại các khu quy hoạch thông qua các hoạt động cấp nước, thoát nước, cấp điện, hệ thống đường đi cũng như các hệ thống xử lý môi trường làng nghề của Việt Nam hiện nay hầu như chưa được quan tâm. Nhìn chung, hiện trạng quy hoạch các làng nghề nước ta diễn ra còn manh mún, chưa có kế hoạch cụ thể ở cấp tỉnh, thành phố.

Hiện nay, một mô hình quy hoạch khác đang được triển khai là: Chính quyền địa phương và các hộ sản xuất trong làng nghề cùng xem xét phương án quy hoạch đưa khu vực sản xuất nghề ra khỏi nơi sinh hoạt của gia đình. Địa phương sẽ quy hoạch khu đất riêng thuộc địa bàn của xã. Các hộ gia đình sẽ được cho thuê đất chuyển chuyển xưởng sản xuất ra ngoài. Hạ tầng cơ sở sẽ do địa phương và hộ nghề cùng góp vốn xây dựng. Điển hình của mô hình này là khu quy hoạch làng sản xuất giấy ở Phong Khê – Bắc Ninh. Tuy nhiên mô hình này mới chỉ được áp dụng trên cơ sở tự nguyện của các hộ sản xuất.

Bảng 1.2. Số lượng các làng nghề có quy hoạch không gian môi trường

tại một số tỉnh, thành phố

TT

Tên tỉnh, thành

Số lượng các làng nghề hiện có

Số làng nghề đã có quy hoạch đến năm 2003

Số làng nghề dự kiến sẽ quy hoạch đến năm 2010

1

Hà Nội

48

14

40

2

Bắc Ninh

59

55

11

3

Hà Tây

280

63

150

4

Hưng Yên

48

1

10

5

Thái Bình

187

11

22

6

Thanh Hóa

127

2

-

7

Đà Nẵng

10

0

1

8

Quảng Nam

18

12

17

Nguồn: Đặng Kim Chi, 2005

f. Xu hướng phát triển bền vững.

Muốn đi đúng hướng bản chất và mục tiêu của phát triển bền vững trước hết chúng ta cần nắm được khái niệm về phát triển cũng như mối quan hệ giữa tự nhiên, kinh tế với con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của loài người. Xã hội loài người không ngừng phát triển qua các nền văn minh và các chế độ xã hội.

Phát triển kinh tế xã hội là “quá trình nâng cao điều kiện sống vật chất và tinh thần của người dân bằng phát triển lực lượng sản xuất, thay đổi quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa”. Nhưng, quá trình này lại là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm giảm chất lượng của môi trường. Nếu phát triển không gắn với bảo vệ môi trường thì phát triển sẽ dần suy thoái. Còn nếu không có phát triển kinh tế thì bảo vệ môi trường sẽ thất bại. Như vậy, giữa con người, phát triển và môi trường có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Xã hội loài người muốn tồn tại và phồn thịnh thì việc tiến tới sự phát triển bền vững là xu thế tất yếu. “Phát triển bền vững là sự phát triển sử dụng tài nguyên thiên nhiên, điều kiện môi trường hiện có để thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ con người đang sống nhưng phải đảm bảo cho các thế hệ tương lai các điều kiện tài nguyên và môi trường cần thiết để họ có thể sống tốt hơn ngày hôm nay” [WCED, 1987]. Sự bền vững về phát triển của một xã hội được đánh giá bằng các chỉ tiêu nhất định trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội; tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Các chỉ tiêu này lại có sự khác nhau ở các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau. Nhưng nhìn chung, để có được sự phát triển bền vững thì phải có được sự cân đối, hài hòa giữa cả 3 mục tiêu: kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là điều không dễ gì đối với việc phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia hay của cộng đồng nói chung. [Trương Quang Hải]

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Trong những thập niên gần đây, quá trình CNH - HĐH và hội nhập kinh tế thế giới đã mang lại cho kinh tế nước ta một bộ mặt có nhiều khởi sắc, qui mô và cơ cấu kinh tế có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, khối lượng vật chất tạo ra cũng ngày càng nhiều, đời sống chất lượng cuộc sống của người dân tăng đáng kể. Song, đi kèm đó là sự suy giảm rất rõ rệt về qui mô, chất lượng tài nguyên thiên nhiên, là sự suy thoái đáng lo ngại về chất lượng môi trường. Diện tích rừng tự nhiên mất đi gần một nửa, các loài động thực vật quý hiếm dần biến mất hay bị đe dọa nghiêm trọng, ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất đang có nguy cơ tăng nhanh ở nhiều nơi.

Đối với các làng nghề cũng không phải là ngoại lệ. Sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn đã đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH nông thôn, tạo ra công ăn việc làm cho nông dân, nâng cao thu nhập, hàng hóa do các làng nghề tạo ra có thể phục vụ nhu cầu tại chỗ và thậm chí xuất khẩu với giá trị cao. Song, bộ mặt của nông thôn có làng nghề hiện nay đã “thay đổi” theo nhiều nghĩa. Trong đó có cả sự thay đổi về chất lượng môi trường theo hướng tiêu cực. Theo các nghiên cứu cho đến nay, hầu hết các làng nghề Việt Nam đã có hiện tượng ô nhiễm môi trường. Trong đó, ô nhiễm môi trường nước gần như 100% đã xảy ra ở tất cả các làng nghề.

Các hoạt động nghề như đã trình bày, chúng có vai trò không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung. Để khắc phục khó khăn về mặt môi trường trong hệ thống các khó khăn chung thì xu hướng “phát triển bền vững” được coi là hợp lý và phù hợp với thời đại. Muốn giải quyết được theo xu hướng này, cần nắm được nguyên nhân của các vấn đề khó khăn nói chung và nguyên nhân, hậu quả của việc ô nhiễm môi trường nói riêng trong hoàn cảnh cụ thể của từng làng nghề để có được các giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu ô nhiễm và nâng cao hiệu quả kinh tế.



1.1.3. Khái quát về ô nhiễm môi trường làng nghề Việt Nam hiện nay

V


ấn đề môi trường mà các làng nghề đang phải đối mặt không chỉ giới hạn ở trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến người dân ở vùng lân cận. Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008 với chủ đề "Môi trường làng nghề Việt Nam", Hiện nay “hầu hết các làng nghề ở Việt Nam đều bị ô nhiễm môi trường (trừ các làng nghề không sản xuất hoặc dùng các nguyên liêu không gây ô nhiễm như thêu, may...). Chất lượng môi trường tại hầu hết các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn khiến người lao động phải tiếp xúc với các nguy cơ gây hại cho sức khỏe, trong đó 95% là từ bụi; 85,9% từ nhiệt và 59,6% từ hóa chất. Kết quả khảo sát 52 làng nghề cho thấy, 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng ở cả 3 dạng; 27% ô nhiễm vừa và 27% ô nhiễm nhẹ”. [www.isge.monre.gov.vn]

Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề xẩy ra ở mấy loại phổ biến sau đây:

- Ô nhiễm nước: ở Việt Nam, các làng nghề chưa có hệ thống xử lý nước thải công nghiệp, nước thải được đổ trực tiếp ra hệ thống kênh rạch chung hoặc ra sông. Nguyên nhân gây ô nhiễm nước chủ yếu là quá trình xử lý công nghiệp như: chế biến lương thực thực phẩm, mây tre, dệt, in, nung nấu kim loại, tẩy giấy và nhuộm… Thường thì nước thải ra bị nhiễm màu nặng và gây ra hiện tượng đổi màu đối với dòng sông nhận nước thải, có mùi rất khó chịu. Hơn nữa là sự vượt quá TCCP đối với các hàm lượng BOD, COD, SS, và coliform, các kim loại nặng… ở cả nước mặt và nước ngầm, làm chết các sinh vật thủy sinh và chứa các mầm bệnh nguy hại cho con người.

- Ô nhiễm không khí gây bụi, ồn và nóng do sử dụng than và củi chủ yếu trong sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất gốm sứ.

- Ô nhiễm chất thải rắn do tái chế nguyên liệu (giấy, nhựa, kim loại…) hoặc do bã thải của các loại thực phẩm (sắn, dong), các loại rác thải thông thường: nhựa, túi nilon, giấy, hộp, vỏ lon, kim loại và các loại rác thải khác thường được đổ ra bất kỳ dòng nước hoặc khu đất trống nào. Làm cho nước ngầm và đất bị ô nhiễm các chất hóa học độc hại, ảnh hưởng tới sức khỏe của con người.

Tại Báo Nhân dân ngày 23/6/2005, GS.TS. Đặng Kim Chi đã cảnh báo "100% mẫu nước thải ở các làng nghề được khảo sát có thông số vượt tiêu chuẩn cho phép. Môi trường không khí bị ô nhiễm có tính cục bộ tại nơi trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) và ô nhiễm do sử dụng nhiên liệu than củi. Tỷ lệ người dân làng nghề mắc bệnh cao hơn các làng thuần nông, thường gặp ở các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da. Nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề hiện nay đang bị ô nhiễm nặng; nhiều ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí từ làng nghề".

Hà Nội là một trong những thành phố có nhiều làng nghề nhất cả nước. Sau khi mở rộng (2008), Hà Nội có tổng cộng 1.275 làng nghề, trong đó có 226 làng nghề được UBND TP công nhận theo các tiêu chí làng nghề, với nhiều loại hình sản xuất khác nhau, từ chế biến lương thực, thực phẩm; chăn nuôi, giết mổ; dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da đến sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá; tái chế phế liệu; thủ công mỹ nghệ... Trong số này, làng nghề thủ công mỹ nghệ chiếm 53% với 135 làng nghề, tiếp đó là làng nghề dệt nhuộm đồ da chiếm 23% với 59 làng nghề, làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm chiếm 16,9% với 43 làng nghề...Hiện nay, phần lớn lượng nước thải từ các làng nghề này được xả thẳng ra sông Nhuệ, sông Đáy mà chưa qua xử lý khiến các con sông này đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Chưa kể đến một lượng rác thải, bã thải lớn từ các làng nghề không thể thu gom và xử lý kịp, nhiều làng nghề rác thải đổ bừa bãi ven đường đi và các khu đất trống [www.vst.vista.gov.vn, 2008].

Tình trạng ô nhiễm môi trường như trên đã ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng đến sức khỏe của cộng đồng, nhất là những người tham gia sản xuất, sinh sống tại các làng nghề và các vùng lân cận.

Báo cáo môi trường Quốc gia năm 2008 cho thấy, tại nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắc bệnh (đặc biệt là nhóm người trong độ tuổi lao động) đang có xu hướng gia tăng. Tuổi thọ trung bình của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm, thấp hơn 10 năm so với làng không làm nghề. Ở các làng tái chế kim loại, tỷ lệ người mắc bệnh ung thư, thần kinh rất phổ biến, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do sự phát thải khí độc, nhiệt cao và bụi kim loại từ các cơ sở sản xuất.

Tại các làng sản xuất kim loại, tỷ lệ người mắc các bệnh liên quan đến thần kinh, hô hấp, ngoài da, điếc và ung thư chiếm tới 60% dân số. Tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, bệnh phụ khoa chiếm chủ yếu (13 – 38%), bệnh về đường tiêu hóa (8 – 30%), bệnh viêm da (4,5 - 23%), bệnh đường hô hấp (6 - 18%), bệnh đau mắt (9 – 15%). Tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp ở làng nghề Dương Liễu 70%, làng bún Phú Đô là 50% [Nguyễn Thị Liên Hương, 2006].

Một trong những nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm kể trên là do các cơ sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, phát triển tự phát, không đủ vốn và không có công nghệ xử lý chất thải. Bên cạnh đó, ý thức của chính người dân làm nghề cũng chưa tự giác trong việc thu gom, xử lý chất thải. Nếu không có các giải pháp ngăn chặn kịp thời thì tổn thất đối với toàn xã hội sẽ ngày càng lớn, vượt xa giá trị kinh tế mà các làng nghề đem lại như hiện nay.

1.1. 4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

a. Một số quan điểm nghiên cứu chính.

- Quan điểm hệ thống:

Các hợp phần tự nhiên cũng như kinh tế xã hội vốn là một thể thống nhất không thể tách rời. Môi trường sống của một cộng đồng là một khoảng không gian bao quanh tất cả các hợp phần tự nhiên cũng như kinh tế xã hội nơi mà họ đang cư trú. Hơn thế nữa, các địa bàn nghiên cứu cũng có mối quan hệ mật thiết với các vùng lãnh thổ xung quanh nó, thậm chí là không liền kề về mặt địa lí nhưng có các mối quan hệ về kinh tế, xã hội. Hay nói cách khác, vùng nghiên cứu vừa là một hệ thống kín nhưng lại vừa là một hệ thống mở, chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau trong quá trình trao đổi vật chất và năng lượng. Bởi vậy, khi nghiên cứu về môi trường của vùng đó nhất thiết phải đặt các đối tượng nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất dựa trên quan điểm hệ thống. Mỗi một khu vực nhỏ trong địa bàn lại có chức năng kinh tế - xã hội riêng, khi nghiên cứu từng phạm vi nhỏ cũng cần xem xét kỹ chúng trong mối quan hệ với các tiểu vùng khác về mọi mặt.



- Quan điểm tổng hợp:

Để đánh giá được hiện trạng ô nhiễm cũng như định hướng các giải pháp cải thiện môi trường của làng nghề Dương Liễu thì cần có cái nhìn tổng quan từ nguyên nhân đến thực trạng và xu hướng biến đổi của vấn đề. Muốn vậy, người nghiên cứu phải nắm bắt được những thông tin về tất cả các khía cạnh có liên quan, bao gồm cả các yếu tố tự nhiên cũng như kinh tế xã hội trong khu vực, bởi lẽ chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, và cùng ảnh hưởng tới thực trạng cũng như xu hướng biến đổi của môi trường tại làng nghề. Do đó, việc phân tích, đánh giá tổng hợp đối với vấn đề là hết sức cần thiết.



- Quan điểm tiếp cận địa lí:

Việc đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường của khu vực cần chú ý tới tính chất và mức độ theo các thời kỳ khác nhau. Sự ô nhiễm không được xử lý kịp thời sẽ gây tác động cộng dồn và gây sức ép ngày càng lớn đối với khả năng hóa giải của môi trường theo từng năm. Hơn nữa, mức độ ô nhiễm cũng có sự khác biệt theo các mùa, các thời kỳ trong năm do đặc thù của sản xuất, thời tiết… Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu cũng cần có những thông tin phải truy hồi quá khứ hay sự báo tương lai. Do vậy, khi nghiên cứu cần chú ý tới tính chất địa lí của đối tượng theo thời gian và theo không gian để có những đánh giá và dự báo đúng đắn.



- Quan điểm phát triển bền vững:

Quá trình CNH - HĐH và phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới hiện nay đang đứng trước thách thức lớn về vấn đề môi trường sinh thái, nếu không giải quyết kịp thời vấn đề này thì sẽ không thể hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cần cân đối giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng các nguồn lực kinh tế. Cụ thể là việc sử dụng tài nguyên phải nằm trong phạm vi chịu tải của chúng để chúng có thể khôi phục về số lượng và chất lượng theo quy luật của tự nhiên. Các dạng tài nguyên không tái tạo cần được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Nếu vượt quá “ngưỡng” cho phép thì khả năng tự làm sạch, tự phục hồi của tự nhiên sẽ không còn nữa, sẽ dẫn đến sự mất cân bằng hệ sinh thái, tạo điều kiện thúc đẩy sự hủy hoại môi sinh cộng đồng. Do đó, khi nghiêu cứu, đánh giá tác động môi trường hay quy hoạch bảo vệ môi trường và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội , nhất thiết phải gắn với mục tiêu vì sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tuy nhiên có đặt trong điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi ngành mà có những tiêu chí phù hợp. Đối với các làng nghề Hà Nội hiện nay, vấn đề phát triển bền vững nền kinh tế cần có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích sinh thái; hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu văn hóa – xã hội.


b. Tóm tắt các quy trình và phương pháp nghiên cứu

* Tóm tắt quy trình nghiên cứu:

- Bước 1: Xác định mục tiêu và nội dung nghiên cứu

- Bước 2: Tổng quan các vấn đề có liên quan đến đề tài

- Bước 3: Phân tích hiện trạng sản xuất CBNSTP của làng nghề Dương Liễu và các nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường.

- Bước 4: Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường (do nước thải và rác thải) của làng nghề.

- Bước 5: Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm, hướng tới sự phát triển bền vững cho làng nghề



* Các phương pháp nghiên cứu chính:

- Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu. Đây là một trong những phương pháp tiền đề, cơ bản đối với bất cứ nghiên cứu nào. Các tài liệu cần thu thập gồm các đề tài nghiên cứu và các thông tin liên quan tới khu vực nghiên cứu. Việc thu thập đầy đủ các số liệu không chỉ là cơ sở cho việc tiến hành nghiên cứu được thuận lợi mà còn giúp người nghiên cứu định hướng rõ ràng những nội dung cần làm rõ về đề tài. Công việc này được tiến hành trong giai đoạn đầu tiên của luận văn và có thể được bổ sung trong suốt quá trình nghiên cứu.

- Phương pháp phân tích hệ thống: Đây là phương pháp chung cho nhiều ngành khoa học. Mỗi hệ thống tự nhiên và kinh tế xã hội đều bao gồm nhiều bộ phận cấu thành, chúng có mối liên hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau. Học viên đã sử dụng phương pháp này để phân tích các mối quan hệ giữa các hoạt động kinh tế xã hội với sự biến đổi của môi trường, với đời sống con người xung quanh nơi sản xuất.

- Phương pháp thực địa: Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong hầu hết các nghiên cứu khoa học, vì nó giúp thị sát tình hình thực tế, có cái nhìn khách quan khi tiến hành nghiên cứu. Đồng thời bổ sung được những nội dung, những thông tin mà các nghiên cứu trên tài liệu có thể chưa phản ánh được hết. Ngay cả sau khi đã đưa ra kết quả vẫn cần đến khâu thực địa, khảo sát thực tế để kiểm chứng những kết quả đó. Học viên đã tiến hành đi thực địa 6 lần nhằm thu thập các thông tin, lấy mẫu phân tích và phỏng vấn các hộ sản xuất.

- Phương pháp phỏng vấn nhanh: Phương pháp này giúp thu thập, cập nhật thêm những thông tin chưa có tài liệu thống kê, hoặc muốn lấy ý kiến từ cộng đồng hoặc các đối tượng có liên quan. Học viên đã sử dụng phương pháp này để thu thập các thông tin liên quan đến sản xuất và vấn đề môi trường của xã Dương Liễu. Sau khi phỏng vấn cần tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin đã thu được.

- Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Việc mô hình hóa các dữ liệu bằng các biểu đồ, sơ đồ giúp các nội dung trình bày mang tính trực quan hơn, thể hiện rõ hơn mối liên hệ giữa các yếu tố được trình bày. Phương pháp bản đồ được sử dụng để thể hiện một số nội dung về mặt không gian như sự phân bố sản xuất, lộ trình của nước thải, phân bố các mức độ ô nhiễm…

- Phương pháp phân tích các thành phần môi trường: Ở đây, học viên đã nhờ đến các biện pháp đo và phân tích các mẫu nước, các mẫu khí từ các nguồn đáng tin cậy nhằm thu thập kết quả về chất lượng các thành phần môi trường của làng nghề Dương Liễu. Số các mẫu khí tiến hành đo trực tiếp là 5 mẫu. Số mẫu nước lấy và gửi đi phân tích gồm 9 mẫu.




tải về 1.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương