MỤc lục error: Reference source not found danh mục các bảng biểU 3 danh mục các hình 4



tải về 1.02 Mb.
trang11/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.02 Mb.
#30786
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

- Đề xuất theo kết quả nghiên cứu, khảo sát

Số quỹ này so với tổng thu nhập từ CBNSTP chiếm khoảng 1,5%. Với thực trạng môi trường của Dương Liễu như hiện nay, ngoài việc thu được khoản quỹ cho công tác cải thiện môi trường thì việc sử dụng nguồn quỹ đó như thế nào cho hiệu quả là điều mà lãnh đạo xã cũng như người sản xuất đang rất quan tâm. Có thể đưa ra kiến nghị định hướng việc sử dụng quỹ như sau:

- Chi cho tổ VSMT: Khoảng 270 triệu đồng/năm/15 người: Nhiệm vụ thu gom rác thải, khơi thông cống rãnh thường xuyên.

- Bộ phận quản lý môi trường: Khoảng 50 triệu đồng/năm/3- 5 người: Chịu trách nhiệm về vấn đề môi trường của làng nghề, quản lý hoạt động của tổ VSMT, lên các kế hoạch, chương trình cải thiện môi trường gắn với sự tham gia của cộng đồng.

- Tu sửa kênh mương, bãi rác, bụng chứa nước thải: 200 triệu/năm. Chủ trương, kế hoạch do lãnh đạo xã và bộ phận quản lý môi trường chịu trách nhiệm, các ban ngành khác cùng nhân dân sẽ phối hợp hoạt động.

- Đầu tư các thiết bị cho thu gom chất thải, cho công tác VSMT: 20 - 30 triệu đồng/năm.

- Chi phí cho công tác giáo dục môi trường cho cộng đồng: 50 triệu đồng/năm

- Thưởng cho các hộ có những biện pháp hiệu quả trong việc giảm lượng thải, tận thu phụ phẩm, phát huy hiệu quả sản xuất: Theo bình xét của bộ phận quản lý và của cộng đồng làng nghề: 50 triệu đồng/20 hộ/năm.

- Còn lại tập hợp vào quỹ VSMT để chi cho các khoản phát sinh, hoặc có thể cho một số hộ sản xuất vay theo chế độ ưu đãi của làng nghề với mục đích hợp lý (như đầu tư công nghệ xử lý chất thải, công nghệ trồng nấm bằng bã tinh bột,…).

Bên cạnh đó, các cấp ngành có liên quan cần nghiên cứu để đề ra những chế tài chặt chẽ hơn trong việc thực thi quy chế VSMT, đối với những trường hợp cố tình không nộp phí theo quy định thì phải dùng những biện pháp xử lý theo đúng pháp luật (có thể ngừng cung cấp điện hoặc xử phạt hành chính... tùy theo mức độ vi phạm).

* Cần nâng cao vai trò và tích cực phối hợp sự tham gia của cộng đồng trong vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề:

Cộng đồng làng nghề là những người trực tiếp tham gia sản xuất, cũng là tác nhân cơ bản nhất gây ô nhiễm môi trường, đồng thời lại là những người phải gánh chịu trực tiếp hậu quả của việc ô nhiễm. Do đó, cộng đồng có vai trò quan trọng và quyết định đối với vấn đề nâng cao năng lực sản xuất và bảo vệ môi trường. Có thể nói ở đây đang tồn tại một mâu thuẫn: Đó là giữa nhận thức về hiện trạng môi trường và hành động nhằm bảo vệ môi trường của cộng đồng.

Cách thức để thực hiện giải pháp:

+ Cần nâng cao nhận thức của người dân: Qua khảo sát thấy rằng, người dân nhận biết được môi trường đang ô nhiễm, song lại chưa ý thức được đầy đủ những hậu quả của nó nên chưa có những hành động giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần tích cực giáo dục môi trường cho cộng đồng với nội dung chính:

Môi trường là nơi chúng ta sống và lao động hàng ngày, nếu môi trường bị ô nhiễm sẽ thu hẹp không gian sống của con người; là nguyên nhân lây nhiễm các loại bệnh tật, giảm tuổi thọ của người già, thậm chí có thể gây đột biến gen, dẫn đến nguy cơ tàn tật bẩm sinh cho trẻ sơ sinh nếu môi trường bị nhiễm các chất độc hại…

+ Lên kế hoạch và lồng ghép thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường cho cộng đồng làng nghề, với các nội dung chính gồm:

- Giữ gìn vệ sinh sạch sẽ nơi ở, nơi sản xuất cũng như đường làng, ngõ xóm.

- Thu gom rác đúng nơi quy định của địa phương, không vứt rác bừa bãi ra các nơi công cộng.

- Vận động người dân tham gia các chương trình sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (nạo vét, khơi thông kênh mương, cống rãnh; dọn vệ sinh đường phố định kỳ;…)

- Trong quá trình sản xuất, có kế hoạch tận thu các sản phẩm phụ để tái sản xuất, vừa tăng thu nhập, vừa giảm nguồn thải.

- Người sản xuất cần nâng cao ý thức tôn trọng vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, chú ý tới việc “sản xuất sạch hơn”, vừa nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm, vừa bảo vệ môi trường. Như vậy là tự bảo vệ cho sức khỏe của mình, cộng đồng làng nghề cũng như người tiêu dùng sản phẩm…

+ Việc giáo dục môi trường cho người dân có thể tiến hành đa dạng dưới mọi hình thức:

- Tuyên truyền qua chương trình phát thanh của xã, qua các cuộc thi tìm hiểu về sản xuất và môi trường; có thể lồng ghép với các dịp lễ hội (trung thu, tết nguyên đán…); và nên kết hợp giáo dục cho học sinh ngay tại trường học các cấp của xã qua các buổi học ngoại khóa, các cuộc thi viết, thi thuyết trình;

+ Đội ngũ đi đầu trong chương trình giáo dục này chính là đội ngũ quản lý môi trường, đội ngũ thanh thiếu niên của xã, và phối hợp với tất cả các ban ngành khác. (Hội phụ nữ, cựu chiến binh, hợp tác xã, hội người cao tuổi…).

Muốn có được sự tham gia hiệu quả của cộng đồng thì một trong những điều quan trọng là cần thấu hiểu được những tâm tư, nguyện vọng, những tồn tại trong nhận thức của cộng đồng cũng như những bức xúc của họ để có được kế hoạch hoạt động phù hợp. Muốn vậy, hàng năm nên bộ phận chuyên trách tiến hành khảo sát, điều tra lấy ý kiến trong nhân dân về những điều đã làm được và chưa làm được về việc cải thiện, bảo vệ môi trường gắn với sản xuất.

Qua thực tế, mỗi năm cần tiến hành tổng kết lại toàn bộ các chương trình hoạt động và có chính sách khen thưởng, kỷ luật đối với những đơn vị, cá nhân có thành tích hoặc vi phạm quy chế, đồng thời có những bài học kinh nghiệm nghiêm túc cho năm sau. Những người chịu trách nhiệm nếu hoàn thành tốt hoặc không hoàn thành nhiệm vụ tùy theo mức độ cũng nên có hình thức xử lý phù hợp để nâng cao tinh thần trách nhiệm.



c. Một số giải pháp khác:

* Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề:

Xét về điều kiện thực tế của địa phương: Với quy mô và tốc độ sản xuất như hiện nay, làng nghề đã sử dụng một khối lượng nguyên liệu lớn (gần 250.000 tấn), trong đó lớn nhất là khối lượng sắn củ và dong củ (chiếm 83% tổng số nguyên liệu).

Song, trong tổng số hơn 200.000 tấn sắn củ và dong củ đó địa phương chỉ đóng góp một lượng củ dong rất nhỏ (trồng tại khu vực miền bãi) còn lại là được nhập từ các vùng khác về.

Hàng năm, khối lượng thải của làng nghề là rất lớn, trong đó nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột cũng chiếm 70% - 80%. Hiện nay, trong các hộ sản xuất chưa lồng ghép các hệ thống xử lý thải, đa số nước thải và bã thải được thải ra môi trường (trừ phần bã sắn được tận thu khoảng 70 – 80%). Trong dự kiến quy hoạch khu sản xuất tập trung, do hạn chế về diện tích nên rất khó có thể thiết kế một hệ thống xử lý chất thải với quy mô lớn. Như vậy, xét trong điều kiện thực tế của địa phương đối với nghề sản xuất tinh bột: nguyên liệu phải nhập, thiếu đất để quy hoạch sản xuất bền vững cho hơn 400 hộ làm tinh bột, đầu tư cơ sở hạ tầng cũng tốn kém. Hơn nữa, làng nghề lại có nhiều thế mạnh về sản xuất miến, sơ chế đỗ xanh, làm bánh kẹo, lại có ưu thế về thị trường tiêu thụ… Bởi vậy có thể theo một xu hướng mới là mở rộng sản xuất miến, bún khô chất lượng cao; sơ chế đỗ xanh, vừng, lạc, thực phẩm đóng gói… Còn nghề sản xuất tinh bột sẽ thu hẹp quy mô, chỉ duy trì khoảng 100 – 150 hộ sản xuất với quy mô lớn sẽ đưa vào khu quy hoạch tập trung, nhằm đảm bảo một phần nguyên liệu tinh bột cho các nghề sản xuất khác trong vùng mà vẫn duy trì tải lượng thải trong phạm vi có thể xử lý được của địa phương. Lượng tinh bột còn lại sẽ được nhập từ các vùng khác về (Các vùng như Hòa Bình, Tuyên Quang, Cao Bằng… là những vùng có nguyên liệu dồi dào, lại có diện tích đất rộng rãi, hiện nay cũng đang có xu hướng sản xuất các mặt hàng này với quy mô lớn).

Như vậy, cần có những khảo sát kỹ về điều kiện thực tế, nhu cầu cũng như thế mạnh về thị trường của làng nghề để cân đối, điều chỉnh quá trình sản xuất cho phù hợp, đảm bảo sự phát triển bền vững.

* Các giải pháp kỹ thuật:

Cần nghiên cứu những nét đặc thù về sản phẩm, nguồn thải trong điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của làng nghề để tìm ra những giải pháp kỹ thuật hỗ trợ hiệu quả cho quá trình sản xuất gắn với phát triển bền vững.



+ Giải pháp “sản xuất sạch hơn”

Đối với làng nghề CBNS như Dương Liễu, các sản phẩm không chỉ cần có chất lượng tốt mà còn phải đảm bảo về vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm. Sản xuất sạch hơn đối với làng nghề này gồm một số nội dung chủ yếu như:

- Cải tiến, đổi mới, bảo dưỡng thiết bị định kỳ (máy rửa nguyên liệu, máy sản xuất tinh bột liên hoàn, đồng hồ đo điện…): Tiết kiệm điện nước, thu hồi vỏ nguyên liệu ở dạng khô, nâng cao hiệu xuất nguyên liệu, giảm lượng thải, giảm tiếng ồn…

- Tận thu lại bã thải (bã sắn, bã dong): Có thể tác sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, làm nguyên liệu bể biogas, làm phân bón, trồng nấm… Đối với Dương Liễu, có thể phát huy tốt hai mục đích là làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi hoặc trồng nấm do có thị trường tiêu thụ lớn (cung cấp cho nội thành Hà Nội). Như vậy có thể góp phần đa dạng hóa cơ cấu nông nghiệp.

- Tuần hoàn, tái sử dụng lại nước lọc tinh bột cho khâu rửa củ: Giúp tiết kiệm nước, giảm lượng nước thải phải xử lý, tiết kiệm điện.

+ Giải pháp sử dụng công nghệ xử lý chất thải:

- Nước thải:

Đối với Dương Liễu, nước thải là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường. Bao gồm nước thải sản xuất, nước thải sinh hoạt, nước thải chăn nuôi.

- Xử lý nước thải chăn nuôi: Đối với nước thải chăn nuôi, biện pháp hiệu quả nhất là nên sử dụng bể biogas. Xã cần động viên các hộ này thiết kế bể biogas qua việc phân tích chi phí, lợi ích của giải pháp này vì hiện nay mới chỉ có một vài hộ làm bể với lý do tốn kém, không có diện tích xây cố định. Các xóm chăn nuôi nhiều là Hòa Hợp, Hợp Nhất, Đình Đàu. Riêng Hòa Hợp do có diện tích lớn hơn các xóm khác nên việc xây bể chỉ có khó khăn về vốn. Những hộ có diện tích nhỏ ở Hợp Nhất và Đình Đàu có thể sử dụng túi ủ khí bằng chất dẻo: vừa rẻ, dễ vận hành, thi công đơn giản, đỡ tốn diện tích hơn.

- Xử lý nước thải sản xuất:

Tại khu quy hoạch sản xuất tập trung sẽ xây một hố gas chung có công suất tương ứng với lượng nước thải dự báo.

Trong toàn bộ làng nghề, sẽ đầu tư cải tạo, nâng cấp lại hệ thống cống rãnh thoát nước. Nước thải từ các hộ sản xuất phân tán sẽ theo mương dẫn nước thải chung của làng nghề vào hố gas chung.

Còn tại các hộ sản xuất, tùy theo đặc thù của mỗi nghề sẽ có những bước xử lý sơ bộ: trước hết với những hộ sản xuất tinh bột, nha với quy mô vừa sẽ bắt buộc phải xây một hố gas gia đình nhằm tách các tạp chất thô.

+ Một số chính sách của Nhà nước cũng như các cấp ngành có liên quan:

- Cho người dân vay vốn đầu tư công nghệ nhằm nâng cao năng suất và giảm thiểu chất thải cũng như sử dụng vốn để đầu tư các thiết bị xử lý chất thải sơ bộ.

- Có những chính sách hỗ trợ người sản xuất trong việc quảng bá, tạo thương hiệu sản phẩm trên thị trường.

- Có những bộ phận chuyên trách về kiểm định chất lượng sản phẩm cũng như kiểm định nguồn thải để có những căn cứ cho việc thực hiện các chính sách thưởng – phạt đối với những hộ có thành tích tốt hoặc vi phạm. Đó đồng thời là cơ sở giúp cho các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các chế tài của Luật bảo vệ môi trường.

- Nhà nước và các cấp có thẩm quyền cần nghiên cứu, sâu sát thực tế để ngày càng hoàn thiện hơn bộ Luật BVMT và bộ máy quản lý môi trường từ tất cả các cấp. Các hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm cũng cần được thắt chặt, nghiêm minh hơn, có tính chất răn đe triệt để hơn.

- Ngay tại địa phương, các cơ quan, các ban - hội cũng cần có những người nhiệt huyết hơn, trách nhiệm hơn đối với công tác bảo vệ môi trường của chính làng nghề thông qua các chương trình hoạt động cụ thể, thường xuyên, vì hơn ai hết họ hiểu tường tận các hoạt động diễn ra hàng ngày tại làng nghề và những gì còn tồn đọng. Hoạt động muốn có hiệu quả thì phải tiến hành đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, và hơn nữa là phải kiên trì, bền bỉ thì mới phát huy được tác dụng.

KẾT LUẬN

Sau quá trình nghiên cứu về làng nghề Dương Liễu, học viên có thể đưa ra một số kết luận sau:

1. Dương Liễu là một làng nghề chế biến nông sản thực phẩm điển hình của vùng Đồng bằng sông Hồng, với tổng sản phẩm hàng năm đạt từ 90 đến 130 nghìn tấn, đóng góp hơn 50 tỷ đồng (hơn 50%) trong cơ cấu GDP của xã, giải quyết việc làm cho gần 4000 lao động của địa phương và cả các vùng khác. Trong đó, sản xuất tinh bột sắn, tinh bột dong và miến dong là những nghề có truyền thống lâu năm, có tỷ trọng cao trong cơ cấu sản phẩm (tinh bột sắn: 52%; tinh bột dong: 15%; miến, bún khô: 8%). Hàng năm làng nghề tiêu thụ hết hơn 300.000 tấn nguyên liệu (khoảng 155 nghìn tấn sắn củ; 60 nghìn tấn dong củ; 140 nghìn tấn bột sắn, dong, bột mì;…). Đa số nguyên liệu sản xuất tinh bột (sắn củ, dong củ) được nhập từ các vùng Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang. Nhu cầu bột sắn, bột dong, bột gạo phục vụ cho sản xuất được đáp ứng phần lớn từ chính làng nghề và một phần nhập từ các vùng khác…

2. Do quy mô sản xuất lớn, có xu hướng tăng lên khá nhanh, nên lượng thải của làng nghề cũng ngày càng nhiều. Năm 2008, làng nghề tạo ra 1,8 triệu m3 nước thải; khoảng 167 nghìn tấn bã thải, rác thải, (trung bình khoảng 435 tấn bã thải và hơn 6000 m3 nước thải/ngày đêm). Hơn nữa, với hình thức sản xuất chính là theo quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ, phân tán, thiếu mặt bằng sản xuất, phơi sản phẩm; không có đầu tư cho công nghệ xử lý nước thải và bã thải nên toàn bộ lượng nước thải sản xuất và sinh hoạt được đổ chung về kênh tiêu của vùng rồi thải ra sông Nhuệ và sông Đáy. Về rác thải, chỉ có lượng bã sắn và vỏ đỗ được thu gom khoảng 70 – 80 % làm phụ phẩm còn lại hầu hết thải ra bãi rác và chất đống ven đường đi, các bãi đất quanh làng. Lượng bã dong không được tận thu mà thải trực tiếp cùng nước thải, là đối tượng chính gây ô nhiễm môi trường nước. Việc thu gom và xử lý chất thải của làng nghề hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Cả bãi rác nổi tập kết rác thải và bụng chứa nước thải của Dương Liễu hiện đều đã quá tải và chưa có biện pháp xử lý.

Hiện nay, tổ VSMT của xã vẫn hoạt động với mức chi hơn 200 triệu đồng/năm, song hoạt động chưa hiệu quả, chủ yếu là khơi thông cống rãnh cục bộ, thu gom rác thải mỗi tuần nên không thể giải quyết được vẫn đề ô nhiễm do hàng triệu m3 nước thải và hàng trăm tấn rác thải mỗi năm.

3. Về hiện trạng môi trường: Hiện nay Dương Liễu hầu như đã bị ô nhiễm trên phạm vi toàn xã, chủ yếu là do nước thải và bã thải. Các xóm có mức độ ô nhiễm nặng là xóm Đồng, Đoàn Kết, Hợp Nhất, Đình Đàu và xóm Mới. Do đây là các xóm có diện tích nhỏ nhưng quy mô sản xuất lớn, chiếm hơn 70% sản lượng và chất thải của toàn xã. Mặt khác, khu vực này nằm ở vị trí cuối nguồn tập kết nước thải của xã nên mức độ ô nhiễm lại càng cao. Mùa vụ sản xuất chính khoảng từ tháng 9 âm lịch đến tháng 3 năm sau, đồng thời cũng là thời điểm lượng thải tập trung nhiều nhất, (khoảng 60% lượng thải của cả năm) với hệ thống cống nhỏ, xuống cấp đã không thông thoát kịp, dẫn đến hiện tượng ùn tắc nước thải. Điển hình như xóm Đồng, xóm Mới, Đình Đàu, Hợp Nhất, Gia. Lượng nước thải và bã thải quá nhiều, không được xử lý kịp thời đã ảnh hưởng đến chất lượng nước ngầm cũng như cảnh quan môi trường của xã. Không khí của làng nghề chủ yếu bị ảnh hưởng bởi mùi nước thải và bã thải ở ven các trục đường đi, cống rãnh của xã. Tại một số xóm sản xuất mạch nha, bánh kẹo, do sử dụng than là nhiên liệu đun nấu nên nồng độ CO2, CO khá cao, song do không khí phát tán nên các mẫu đo hầu như chưa vượt quá TCCP. Do sản xuất ở quy mô hộ gia đình khép kín nên mức độ ảnh hưởng của chúng chỉ trong phạm vi các hộ chứ ít phát tán ra ngoài. Vào mùa vụ sản xuất, với tần suất xe cộ chở nguyên liệu, sản phẩm qua lại nhiều (hàng trăm xe/ngày) nên thường có nồng độ bụi cao.

Môi trường bị ô nhiễm đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của cộng đồng làng nghề, và các vùng lân cận. Rất nhiều loại bệnh tật ở làng nghề có liên quan đến các loại hình sản xuất CBNS đã được thống kê như: Bệnh lỵ, tiêu chảy, đau mắt hột, viêm phế quản… Vấn đề đặt ra là cần có những biện pháp phù hợp với thực trạng sản xuất và hiện trạng môi trường của làng nghề nhằm sản xuất hiệu quả gắnvới cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống.

4. Đề xuất một số giải pháp:

- Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của làng nghề, cần thiết phải thực hiện quy hoạch không gian sản xuất gắn với bảo vệ môi trường. Đây là giải pháp tổng hợp, bao gồm việc dự báo xu hướng phát triển kinh tế xã hội, xu hướng biến đổi môi trường, quy hoạch không gian sản xuất, các giải pháp công nghệ và quản lý môi trường.

Đối với làng nghề Dương Liễu, phương án quy hoạch có thể theo hai hướng: quy hoạch tập trung và quy hoạch phân tán. Quy hoạch tập trung các hộ sản xuất tinh bột, miến bún, mạch nha và bánh kẹo có quy mô sản xuất ít nhất từ 0.5 tấn sản phẩm/ngày trở lên. Các hộ sản xuất ít hơn sẽ thuộc diện quy hoạch phân tán gắn với bố trí không gian sản xuất và thu gom chất thải hợp lý, bảo vệ môi trường. Trong quy hoạch cần lưu ý đến cách quản lý chất lượng sản phẩm và môi trường.

- Giải pháp nâng cao năng lực quản lý môi trường của địa phương và gắn với sự tham gia của cộng đồng. Đây là giải pháp quan trọng bởi chỉ có người sản xuất và nơi sản xuất mới là lực lượng quan trọng nhất, hiệu quả nhất đối với việc quản lý sản xuất và môi trường.

- Cần tiến hành đồng thời với những giải pháp trên là việc áp dụng các giải pháp khác như: Giải pháp kinh tế, giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý của Nhà nước…

Tóm lại, việc đẩy mạnh phát triển nghề CBNSTP là hướng đi đúng đắn, phát huy được các tiềm năng của xã Dương Liễu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Tuy nhiên, hiện trạng ô nhiễm môi trường như hiện nay là vấn đề khó khăn lớn nhất đối với việc phát triển bền vững của làng nghề. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần có những giải pháp kịp thời, hiệu quả sao cho sản xuất phải gắn liền với bảo vệ, cải thiện môi trường. Các giải pháp này cần được tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Trong đó, giải pháp quy hoạch không giản sản xuất gắn với bảo vệ môi trường có vai trò quan trọng. Đồng thời, năng lực của đội ngũ quản lý và cộng đồng được coi là hạt nhân chính, quyết định tới sự phát triển bền vững của làng nghề.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu Tiếng Việt



1

Báo cáo môi trường làng nghề Việt Nam năm 2008: Ba xu thế ô nhiễm môi trường làng nghề, www.Thiennhien.net,

2

Bộ Tài nguyên Môi trường, 2009, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2008: Môi trường làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng.

3

Bộ công thương, Các giải pháp phát triển làng nghề Việt Nam thời hội nhập, Tạp chí công nghiệp, 25/12/2008

4

Các giải pháp phát triển làng nghề Việt Nam thời hội nhập, Tạp chí Công nghiệp, 25/12/2008.

5

Đặng Kim Chi, 2005, Làng nghề Việt Nam và môi trường, NXB Khoa học và kỹ thuật.

6

Đặng Kim Chi, 2005, Tài liệu hướng dẫn áp dụng các biện pháp cải thiện môi trường cho làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, NXB Khoa học và kỹ thuật.

7

Đỗ Quang Dũng, 2004, Phát triển làng nghề trong quá trình CNH – HĐH nông thôn ở Hà Tây, NXB

8

Lê Hải, 2006, Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam, tr51-52, số 3.

9

Đỗ Thị Hào, 1987, Làng Đại Bái – Gò đồng Bắc Ninh, Nơi xuất bản: Hội văn nghệ dân gian Việt Nam.

10

Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, 2008, Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

11

Hà Đức Hồ, 2001, Chế biến tinh bột sắn, dong riềng qui mô hộ gia đình, NXB Nông nghiệp.

12

Phạm Ngọc Hồ, Hoàng Xuân Cơ, 2004, Đánh giá tác động môi trường, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

13

Mai Thế Hởn, 1998, Phát triển một số làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đô, NXB Chính trị Quốc gia

14

Nguyễn Thị Hường, 2005, Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm các làng nghề Tiểu thủ công nghiệp, Tạp chí Lý luận Chính trị, tr 58 - 63, số 4

15

Nguyễn Thị Liên Hương, 2006, Nghiên cứu nguy cơ sức khỏe ở các làng nghề tại một số tỉnh phía Bắc và giải pháp can thiệp, Luận án Thạc sĩ Y học, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.

16

Bạch Quốc Khang, Bùi Đình Toái, Nguyễn Thị Thu Quế, 2005, Sổ tay hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển làng nghề sử dụng phương pháp có sự tham gia của cộng đồng, NXB Nông nghiệp.

17

Phạm Thị Linh, 2007, Hiện trạng sức khỏe môi trường làng nghề chế biến thực phẩm Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Tây, Đại học Quốc gia Hà Nội, Báo cáo khoa học.

18

Đặng Đình Long, Đinh Thi Bích Thủy, 2005, Tính cộng đồng và xung đột môi trường tại khu vực làng nghề ở đồng bằng sông Hồng. Thực trạng và xu hướng biến đổi, NXB Nông nghiệp.

19

Ngô Trà Mai, 2008, Nghiên cứu, xác lập cơ sở khoa học cho quy hoạch bảo vệ môi trường một số làng nghề tỉnh Hà Tây, Luận án TS, Đại học Khoa học Tự nhiên.

20

Dương Bá Phượng, 2001, Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, NXB Khoa học xã hội.

21

Nguyễn Thị Kim Thái, (2004), Xử lý bã thải từ công nghiệp chế biến tinh bột bằng phương pháp củ khí trong điều kiện khí hậu Việt Nam, Luận án PTSKH Kinh tế, Đại học Xây dựng.

22

Vũ Quyết Thắng, 2007, Quy hoạch môi trường, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

23

Bùi Thị Tân, 1999, Về hai làng nghề truyền thống Phú Bài và Hiền Lương

24

Lê Đức Thọ, 2008, Nghiên cứu thực trạng môi trường sức khỏe ở làng nghề làm bún Phú Đô, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đề xuất một số giải pháp cần thiết, Luận án TS Y học, Học Viện Quân y

25

Nguyễn Thị Hồng Tú, Nguyễn Thị Liên Hương, Lê Vân Trình, 2005, Những vấn đề về sức khỏe và an toàn trong các làng nghề Việt Nam, NXB Y học.

26

UBND xã Dương Liễu, 2007, 2008, 2009, Báo cáo đầy đủ làng nghề Dương Liễu.

27

UBND huyện Hoài Đức, 2007, Báo cáo môi trường làng nghề Hoài Đức.

28

Phùng Thanh Vân, 2009, Một số vấn đề bức xúc về môi trường làng nghề Hà Tây, Công tác khoa giáo, số 3

29

Bùi Văn Vượng, 1998, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc.

30

Môi trường và phát triển bền vững: Chất lượng môi trường ở hầu hết các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn, www.vst.vista.gov.vn, 2008.

31

Trần Minh Yến, 2003, Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH – HĐH, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Viện Kinh tế học

2. Tài liệu Tiếng Anh:

1

World Bank, 1999, Greening Industry: New roles for communities Market and Goverments.

2

Vo Van Duc, 2000, Craft villages in the context of Rural Industrialization and Modernnization in Vietnam, Vietnam economic Review.

3

Sylvie Fanchette, Nicholas Stedman, 2009, Discovering craft villages in Vietnam: Ten itineraries around Hà Nội, NXB Thế Giới.

4

Vu Hoang Nam, 2008, The role of human capital and social capital in the transportation of village – based industrial cluster: evidence from Northern Vietnam, NXB Tokyo.

5

Vietnam Association of craft villages, 7/4/2007, Craft villages look to the future

6

Vietnam Association of craft villages, 10/12/2007, Festival celebrates handicraft villages.







tải về 1.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương