MỤc lục danh mục bảng V danh mục hình VII danh mục bảN ĐỒ VIII



tải về 3.31 Mb.
trang4/40
Chuyển đổi dữ liệu18.08.2016
Kích3.31 Mb.
#21988
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   40

1.2.Mục tiêu quy hoạch


Quy hoạch chi tiết nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú đến năm 2020 nhằm khai thác diện tích tiềm năng phát triển nghề nuôi thủy sản theo hướng ổn định và bền vững.

1.3.Phạm vi, nội dung, phương pháp và sản phẩm

      1. Phạm vi thực hiện


* Không gian:

  • Quy hoạch trên vùng đất tiềm năng có khả năng thích hợp cho phát triển NTTS trên địa bàn huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú tỉnh Bến Tre.

  • Bố trí PA quy hoạch đến xã của các huyện trong vùng quy hoạch.

* Thời gian:

  • Thời gian: lấy mốc 2010 là mốc đánh giá hiện trạng; các chỉ tiêu quy hoạch tính cho thời kỳ 2011 - 2020, gồm các giai đoạn 2011 - 2015 và 2016 - 2020.
      1. Nội dung và phương pháp nghiên cứu


* Cách tiếp cận: Sử dụng phương pháp phân tích hệ thống, bao gồm các bước: nhận định vấn đề; xác định, thiết kế và rà soát những phương án có thể thực hiện; dự báo bối cảnh tương lai; xây dựng và sử dụng các mô hình để dự báo các kịch bản khác nhau có thể xảy ra; so sánh và xếp hạng các phương án; phổ biến kết quả.

* Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tổng hợp các phương pháp: kế thừa các kết quả nghiên cứu, các quy hoạch đã được công bố, phối hợp liên ngành, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích thống kê, phỏng vấn, hội thảo lấy ý kiến…

* Kỹ thuật sử dụng: Xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm Excel và SPSS; Thiết kế bản đồ bằng phần mềm MapInfo.

Bố cục nội dung báo cáo, ngoài mở đầu và kết luận, gồm có 4 phần chính:



  • Phần thứ nhất: Đánh giá về điều kiện tự nhiên, nguồn lực phát triển, các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế thủy sản vùng QH.

  • Phần thứ hai: Đánh giá thực trạng phát triển NTTS vùng QH.

  • Phần thứ ba: Một số dự báo liên quan đến quy hoạch phát triển NTTS trên địa bàn huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú đến năm 2020.

  • Phần thư tư: Quy hoạch phát triển NTTS thời kỳ 2011 – 2020.
      1. Sản phẩm của dự án


* Báo cáo chính:

  • Báo cáo “Quy hoạch chi tiết nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú đến năm 2020.”

  • Báo cáo tóm tắt.

* Báo cáo chuyên đề:

  • Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch đã được duyệt 2003 - 2010 trên địa bàn huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú.

  • Đánh giá hiện trạng môi trường và tác động qua lại của môi trường bên trong và ngoài vùng quy hoạch.

  • Hiện trạng và quy hoạch hệ thống thủy lợi, giao thông, điện trong vùng quy hoạch.

  • Bộ đĩa CD (10 bộ đĩa) chứa đầy đủ các báo cáo chính, chuyên đề, bản đồ, cơ sở dữ liệu của dự án.


PHẦN II

ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN VÙNG QUY HOẠCH




    1. Điều kiện tự nhiên của vùng quy hoạch

      1. Vị trí địa lý


Tỉnh Bến Tre nằm ở cực đông của Đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 3 cù lao (cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh) trải đều trên 4 nhánh sông lớn của hệ thống sông Mekong là: sông Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Phía Bắc tỉnh giáp Tiền Giang, phía Tây - Tây Nam giáp Vĩnh Long, phía Nam giáp Trà Vinh và phía Đông giáp biển Đông. Về tọa độ địa lý, tỉnh Bến Tre nằm trong giới hạn từ 9°48’ đến 10°20’ vĩ độ Bắc, từ 105°57’ đến 106°48’ kinh độ Đông.

Về hành chính tỉnh Bến Tre có 9 đơn vị trực thuộc gồm: TP. Bến Tre là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh, các huyện: Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Giồng Trôm và ba huyện vùng ven biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú.

Tổng diện tích tự nhiên ba huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú là 120.390,9 ha (năm 2009), chiếm 51% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, có đường bờ biển kéo dài trên 65 km. Tiềm năng NTTS các huyện ven biển khá lớn, tổng diện tích NTTS là 36.770,5 ha (năm 2009), thích hợp cho nhiều đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như cá, tôm, cua, nghêu, sò,…

      1. Đặc điểm khí hậu, thời tiết


Nằm trong khu vực có chế độ nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, khí hậu Bến Tre mang tính chất nhiệt đới gió mùa nóng ẩm vùng vĩ độ thấp.

Bến Tre có nền nhiệt độ trong nhiều năm dao động từ 24,1 – 29,3ºC, trung bình là 27,1ºC. Trong năm, nhiệt độ cao nhất thường rơi vào tháng 4 và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất. Chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng không quá 5ºC, nền nhiệt ổn định thích hợp cho NTTS.

Nguồn nhiệt lượng nhận được trong ngày cao và ổn định. Vào mùa khô số giờ nắng trung bình đạt từ 8 – 9 giờ/ngày, mùa mưa trung bình từ 5 – 7 giờ/ngày. Trung bình năm có khoảng 2.114 giờ nắng. Các tháng mùa khô có số giờ nắng dao động từ 118 – 290 giờ/tháng, mùa mưa số giờ nắng dao động từ 99 – 251 giờ/tháng.

Độ ẩm không khí trung bình tháng trong nhiều năm dao động 77 – 90%, trung bình năm là 83,5%. Độ ẩm thấp nhất thường vào các tháng chuyển mùa (mùa khô sang mùa mưa và ngược lại); vào mùa mưa độ ẩm tương đối cao, tháng 9, 10 có độ ẩm lớn nhất. Chênh lệch về độ ẩm tương đối trung bình giữa tháng ẩm nhất và tháng ít ẩm nhất từ 8 – 10%.

Vào các tháng mùa khô, nắng nhiều, độ ẩm không khí thấp, do đó lượng bốc hơi cao, trị số ngày đêm đạt đến 6 mm. Vào những tháng mùa mưa, chỉ số đạt khoảng từ 2,5 – 3,5 mm trong một ngày đêm. Tháng 9, độ bốc hơi nhỏ, đạt từ 2 – 3 mm trong một ngày đêm. Nhìn chung, lượng bốc hơi tương đối lớn vào những tháng mùa khô.

Trong mùa mưa, gió thịnh hành là gió Tây Nam đến Tây Tây Nam, tốc độ trung bình cấp 3 – 4. Từ tháng 5 đến tháng 9 sang các tháng 10 và 11 của mùa mưa, thì gió chuyển tiếp yếu gồm có cả gió Đông Bắc đến Đông Nam, tốc độ thường ở mức cấp 2. Sang tháng 12, đầu mùa khô, gió chuyển từ Bắc đến Đông Bắc, tốc độ cấp 2. Đến tháng 1 và 2 gió thịnh hành ở cấp 3 – 4 theo hướng Đông Bắc đến Đông Nam, để rồi cuối mùa khô vào các tháng 3 và 4, gió thịnh hành ở cấp 3 – 4, chủ yếu hướng Đông đến Đông Nam.

Mùa mưa ở vùng cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 11. Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1.250 – 1.454 mm (ở Bình Đại là 1.264 mm, ở Ba Tri là 1.371,5 mm, ở Thạnh Phú là 1.454 mm). Lượng mưa cao tập trung vào mùa mưa (65,2 – 97,7%). Mưa bắt đầu từ ngày 30/5 đến 16/6 ở Bình Đại, và từ ngày 4/5 đến 18/5 ở Ba Tri, ở Thạnh Phú từ tháng 5. Mưa kết thúc từ ngày 16/10 đến ngày 9/11 ở Bình Đại và từ ngày 13/10 đến ngày 30/10 ở Ba Tri và vào tháng 10 ở Thạnh Phú.

Bến Tre nằm ngoài vùng chịu ảnh hưởng chính của bão, vào cuối mùa mưa (tháng 9 đến tháng 11) cũng bị ảnh hưởng của các cơn bão cuối mùa, phần lớn các trận bão ít khi gây thiệt hại đáng kể.


      1. Đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng


2.1.3.1. Đặc điểm địa hình

Bảng 2.1. Diện tích tỉnh Bến Tre phân theo cao độ



TT

Cấp cao độ (m)

Diện tích (ha)

Tỷ lệ (%)

1

< 0,25

107

0,05

2

0,25 - 0,50

8.549

3,69

3

0,50 - 0,75

46.493

20,08

4

0,75 - 1,00

106.512

46,01

5

1,00 - 1,25

14.071

6,08

6

1,25 - 1,50

7.795

3,37

7

1,50 - 1,75

7.049

3,04

8

1,75 - 2,00

11.745

5,07

9

>2,00

1.336

0,58

10

Sông kênh

27.845

12,03

Tổng

231.501

100,00

(Nguồn: Báo cáo QH Thủy lợi Bình Đại - Ba Tri - Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đến năm 2020)

Quá trình thành tạo địa chất của vùng cửa sông ven biển ở Bến Tre có tuổi địa chất khá non trẻ khoảng 2000 năm. Khu vực này được bồi đắp theo phương thức giồng phá làm cho đất ngày càng lấn dần ra biển và hình thành các giồng cát ở ven biển. Các giồng cát này thường có cao trình 3 – 5 m, chiều dài mỗi giồng rất khác nhau. Đây là nơi quần cư và canh tác của nhân dân trong vùng.

Cùng với lưu lượng nước lớn và truyền tải tổng lượng phù sa khổng lồ, dòng nước sông gặp thủy triều từ biển Đông đổ vào tạo ra quá trình bồi lắng phù sa ở vùng cửa sông hình thành các đảo ở cửa sông và các doi cát ven bờ ôm lấy một diện tích ngập nông và tạo nên các phá. Vùng Trảng Lầy ở Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú đã được hình thành theo cơ chế này. Riêng khu vực ven biển phía cửa sông Cổ Chiên vẫn tiếp tục được bồi đắp nhanh nhờ phù sa từ cửa sông Cổ Chiên.

Vùng ven biển tỉnh Bến Tre là vùng đất đang được bồi tụ. Đặc biệt là phần diện tích bãi bồi ven biển đang được bồi cao thêm và đang lấn dần ra biển. Bờ biển cũng có đặc trưng là không ổn định, đặc biệt là các quá trình hoạt động xói lở và bồi tụ. Các vùng bị xói lở kéo dài trên 5 km. Những khu vực bị xói lở là do ảnh hưởng của các quá trình tự nhiên: dòng hải lưu, thuỷ triều, gió chướng và hoạt động của sóng. Quá trình bồi tụ và xói lở diễn ra khá mạnh trong những thập kỷ vừa qua. Mức độ xói lở lên đến 5 m/năm.

Khi triều xuống, mực nước biển rút ra xa từ 700 – 800 m, lộ ra bờ biển khá bằng phẳng được cấu thành từ cát, bột sét, mùn bã thực vật và xác vỏ của các loài giáp xác. Những khu vực ngập khoảng 1 m nước khi triều xuống cũng được nhân dân trong vùng sử dụng để nuôi nghêu (xã Thới Thuận, Thạnh Phong).

Khu vực xói lở nhanh nhất diễn ra bắt đầu từ Cồn Lợi Trên tới Cồn Bửng với chiều dài hơn 5 km, tốc độ xói lở là 20 – 30 m/năm. Đặc biệt là khu vực cửa rạch Tiểu Dừa, diện tích đất bị mất hàng năm do xói lở khoảng 15 ha/năm. Sóng và gió lớn kết hợp với dòng thủy triều gây xói lở bờ biển tạo ra những bãi cát ngập triều thấp ở ven biển và đẩy cát tràn vào đất liền, gây tổn thất cho các hoạt động canh tác nông-lâm và ngư nghiệp ven bờ biển. Đồng thời những hoạt động địa mạo cũng tạo nên những bờ cát thấp đứt quảng ở ven biển. Đó là những vùng bưng sau giồng ở ven các cửa sông.

Các khu vực bồi tụ được hình thành với tốc độ nhanh ở phía cửa sông như Cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông và cửa Cổ Chiên. Dòng sông mang theo các vật liệu phù sa mịn chảy vào các vùng bưng sau giồng đã được hình thành nhờ các đê cát thấp tạo nên các bưng được bồi tụ với lớp phù sa có bề dày khác nhau. Đây là nơi sinh sống thích hợp cho các loài thủy sinh vật và cây rừng ngập mặn. Khu vực được bồi tụ diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ Bình Thắng đến Thới Thuận, từ Tân Thuỷ đến An Thủy, từ Cồn Bửng đến rạch Khâu Băng, và khu vực từ rạch Cừ tới rạch Vàm Giồng. Tốc độ bồi tụ từ 90 - 100 ha/năm.

Địa hình của toàn vùng cửa sông ven biển Bến Tre còn bị chia cắt bởi hệ thống sông rạch khá dày đặc.



2.1.3.2. Đặc điểm thổ nhưỡng

Có 5 nhóm đất chủ yếu ở vùng ven biển ba huyện tỉnh Bến Tre.



(1) Nhóm đất phù sa

Có diện tích là 17.151,59 ha, thuộc khu vực có nguồn nước ngọt chủ yếu ở huyện Bình Đại và Ba Tri. Đây là nhóm đất thuận lợi nhất cho nông nghiệp, có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến nặng, đã được sử dụng toàn bộ diện tích để trồng lúa và các loại cây lâu năm. Do đất được phù sa hàng năm bồi đắp nên màu mỡ, thông thoáng tốt. Đây là nhóm đất tốt nhưng có điểm hạn chế là trong đất có nhiều sắt và nhiều loại có tầng xác bã hữu cơ bên dưới, nếu khai thác sử dụng không hợp lý sẽ dẫn đến hiện tượng kết vón trong đất, cây bị ngộ độc sắt và dễ phát sinh phèn trong đất.



(2) Nhóm đất phèn

Có diện tích 7.434,13 ha, thường gặp ở địa hình thấp, khó tiêu và nhiễm mặn chủ yếu nằm ở các xã An Phú Trung, Mỹ Hòa (huyện Ba Tri), Phú Vang, Phú Long, Thạnh Trị (huyện Bình Đại), Hòa Lợi, An Thạnh (huyện Thạnh Phú). Nhóm đất phèn bao gồm 3 loại đất là đất phèn hoạt động, đất phèn tiềm tàng và đất phèn nhiễm nặng. Nhìn chung, loại đất này rất chua, giàu hữu cơ nhưng phần lớn đã bị tích lũy trong đất, tốc độ phân giải rất chậm nên cây trồng khó sử dụng.



(3) Nhóm đất cát

Chủ yếu là đất giồng, chiếm diện tích 12.179 ha. Loại đất này được hình thành từ quá trình tác động của các dòng sông và sóng biển trong quá trình lấn biển vùng cửa sông. Tỷ lệ sắt khá cao. Tuy nhiên, tầng mặt ít chua và có ít hữu cơ hơn tầng dưới.

Đất cát giồng phân bố ven bờ biển thành dãy hình vòng cung, có tích tụ nước ngọt trong các giồng cát vào mùa khô. Loại đất này phân bố nơi có địa hình cao 2 – 4 m, đất tầng dưới mặn, nằm ở các khu vực giồng Cà, cồn Giăng, cồn Nghêu của xã Thừa Đức, cồn Chài Mười, cồn Kẽm, cồn Bà Từ của xã Thới Thuận, cồn Nhàn của xã Bảo Thạnh, cồn Hố của xã An Thủy, cồn Lớn, giồng Khâu Băng, giồng Cồn Lớn của Thạnh Phong. Đây là nơi tập trung dân cư, cũng là các khu vực phát triển nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt) cung cấp thực phẩm cho dân cư trong vùng, cũng là nơi được phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản (đường giao thông, trạm y tế, trường học…).

Đất cát vùng cửa sông ven biển hầu hết có màu vàng, vàng xám, ẩm. Loại đất này có thành phần cơ giới là cát pha thịt nhẹ, nghèo dinh dưỡng. Giồng cát được hình thành từ sự phân rã của thạch anh và một số khoáng vật khác.



(4) Nhóm đất mặn

Có 96.739 ha chiếm 43,11 % gồm có 4 loại đất mặn: Mặn ít theo thời gian, đất mặn trung bình theo thời gian, đất mặn nhiều theo thời gian và đất mặn thường xuyên dưới rừng ngập mặn phân bố ở toàn vùng cửa sông ven biển của 3 huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Đất ngập mặn có hàm lượng mùn trong đất ở mức trung bình. Thành phần cơ giới biến động khá lớn từ cát pha đến sét pha và sét nặng.

Đất mặn dưới rừng ngập mặn: đây là loại đất phổ biến trong khu vực. Loại đất này thường phân bố thành dãy song song với đường bờ biển, có địa hình trũng thấp thường xuyên ngập khi triều lên. Đây là loại đất phù sa mới được bồi, đất chưa thành thục. Tầng sinh phèn ở độ sâu > 50 cm. Phần lớn diện tích loại đất này đã được khai phá để NTTS.

(5) Đất bãi bồi ven biển

Diện tích loại đất này thay đổi thường xuyên và phụ thuộc vào lượng phù sa mà sông Mekong đổ ra hàng năm. Đất bãi bồi phân bố nơi có địa hình thấp, thường xuyên ngập triều, khi triều rút thì các bãi bồi này mới xuất hiện. Đây là loại đất cát pha bùn chạy dài theo bờ biển, chưa có thực vật phát triển, đôi chỗ có lác đác loài mắm làm tiên phong. Có vài bãi bồi đã được khoanh vùng để khai thác nghêu giống và để nuôi nghêu.


      1. Hệ thống sông rạch, chế độ thủy văn


2.1.4.1. Hệ thống sông rạch tỉnh Bến Tre

Toàn tỉnh Bến Tre nhìn chung mạng lưới sông ngòi phủ đều khắp các huyện thị góp phần thuận lợi cho giao thông thủy trong tỉnh và các vùng lân cận. Trong đó có 4 nhánh sông lớn thuộc hệ thống sông Mekong (sông Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên) là nguồn cung cấp nước chính cho mọi hoạt động của tỉnh.

Sông Mỹ Tho là tên gọi của đoạn sông Tiền, dài 90 km dọc theo chiều dài phía Bắc của tỉnh Bến Tre đổ ra biển qua cửa Đại và cửa Tiểu (Tiền Giang). Lòng sông khá rộng 1.500 – 2.000 m, độ sâu từ 12 – 15 m.

Sông Ba Lai dài trên 55 km, khu vực cửa biển rộng trên 1 km, đầu nguồn bị bồi tụ nên hẹp dần và lòng sông cạn, hiện đã có đập ngăn sông Ba Lai.

Sông Hàm Luông là con sông lớn chảy trọn vẹn trong địa giới tỉnh Bến Tre, sông dài 72 km, rộng 1.200 – 1.500 m, vùng cửa sông giáp biển rộng đến 3.000 m, long sông sâu 12 – 15 m.

Sông Cổ Chiên nằm ở phía Nam tỉnh, chiều dài khoảng 80 km, là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Bến Tre với tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Khu vực cửa sông Cổ Chiên có 2 nhánh rạch lớn là rạch Băng Cung và rạch Eo Lói.

Ngoài các sông chính ra, trên địa phận tỉnh còn có các kênh rạch khác nối liền với các sông, biển như: rạch Cái Mơn, Mỏ Cày, Bến Tre, Ba Tri, Vũng Luông, Sóc Sài, Voi Đước, Hồ Cỏ, Cồn Bửng, Khâu Băng, Đồng Xuân,…

2.1.4.2. Chế độ thủy văn tỉnh Bến Tre

(1) Thủy văn nội đồng

Dòng chảy các sông ở tỉnh Bến Tre được cung cấp bởi nguồn nước ngọt từ hệ thống sông Mekong qua nhánh sông Tiền đổ về hằng năm. Ngoài ra, dòng chảy các sông rạch còn chịu chi phối bởi thủy triều biển Đông theo các cửa sông xâm nhập sâu vào trong đất liền làm cho hình thái dòng chảy khá phức tạp.



Dòng chảy mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau): sông Tiền được phân phối khoảng 52% lượng nước từ thượng nguồn về. Lượng nước này được phân phối cho các sông chảy qua Bến Tre như sau: sông Mỹ Tho có 1.598 m3/s (trong đó Cửa Tiểu là 236,8 m3/s, Cửa Đại là 473,6 m3/giây, cửa Ba Lai là 59 m3/s và cửa Hàm Luông là 828 m3/s); sông Cổ Chiên có 1.480 m3/s (trong đó cửa Cổ Chiên là 710,4 m3/s và cửa Cung Hầu là 769,6 m3/s).

Dòng chảy mùa lũ: vào mùa lũ, lượng nước ngọt bên phía sông Tiền chiếm xấp xỉ 52% tổng lượng nước của cả sông Tiền và sông Hậu. Lượng nước này được chia ra như sau: sông Mỹ Tho có 6.480 m3/s (trong đó Cửa Tiểu là 960 m3/s, Cửa Đại là 1.920 m3/s, cửa Ba Lai là 240 m3/s và cửa Hàm Luông là 3.360 m3/s); sông Cổ Chiên có 6.000 m3/s (trong đó cửa Cổ Chiên là 2.880 m3/s và cửa Cung Hầu là 3.120 m3/s).

Với lượng nước này, nếu thượng nguồn có những công trình điều tiết, trữ nước mùa lũ, xả nước mùa khô thì lượng nước mùa khô tăng lên có thể đẩy mặn xuống hạ lưu xa hơn, mực nước trong sông cao giúp ổn định cho giao thông thủy và đảm bảo cung cấp nước ngọt cho cả đời sống và sản xuất.



(2) Thủy triều

Thủy triều vùng ven bờ Bến Tre có đặc trưng bán nhật triều không đều. Mỗi năm có đến 290 ngày là bán nhật triều không đều, nằm trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8 và từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau. Ngoài ra trong năm, ngày nhật triều cũng có xuất hiện nhưng không nhiều, khoảng 9 – 12 ngày.

Hầu hết các ngày đều có 2 lần nước lên, 2 lần nước xuống. Chênh lệch giữa đỉnh và chân triều những ngày triều lớn có thể từ 2,5 – 3,5 m. Chênh lệch giữa đỉnh và chân triều những ngày triều kém thường dưới hoặc xấp xỉ 1 m.

Khi vào trong kênh rạch, nội đồng, thủy triều diễn biến phức tạp phụ thuộc vào vị trí địa lý và mưa lũ. Trong mùa khô, ở các vùng kênh rạch nằm trong phạm vi cách cửa sông giáp biển 4 – 6 km, thời gian triều lên trong ngày khoảng 6 giờ, triều xuống khoảng 4 giờ, biên độ triều từ 100 – 160 cm, cường xuất triều lên xuống 20 – 30 cm/giờ. Trong mùa lũ, vùng kênh rạch nội đồng ven biển, hàng ngày có 12 – 14 giờ triều lên và 15 giờ triều xuống, biên độ triều dọc hai sông Đại và Cổ Chiên là 200 – 250 cm.



(3) Xâm nhập mặn

Tỉnh Bến Tre có địa hình khá bằng phẳng, nằm dưới mực nước biển trung bình. Các con sông chịu tác động mạnh của chế độ thuỷ triều biển Đông. Nhiều sông và kênh rạch có độ rộng khá lớn, một số cửa sông rộng từ 2 đến 3 km, do đó nước sông bị nhiễm mặn nghiêm trọng và trong mùa khô, mặn xâm nhập gần như hầu khắp diện tích trong tỉnh, gây nên tình trạng thiếu nước ngọt trên diện rộng.

Mặn quan hệ mật thiết với chế độ thuỷ triều. Chân và đỉnh mặn thường xuất hiện sau chân và đỉnh triều 1 đến 2 giờ. Càng xa biển, chênh lệch này càng lớn. Ngoài việc biến đổi theo mùa, mặn còn phụ thuộc vào lượng nước ngọt từ thượng nguồn đổ về. Mùa lũ, lượng nước ngọt lớn, mặn bị đẩy ra xa. Tuy vậy, những vùng giáp biển, độ mặn không lúc nào nhỏ hơn dưới 2‰. Độ mặn lớn nhất thường xuất hiện vào tháng 4, tháng có lượng nước ngọt ít nhất.

      1. Các tai biến thiên nhiên


(1) Mưa bão

Từ năm 2001 đến 2005, tỉnh Bến Tre nói chung và các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú nói riêng ít bị ảnh hưởng bởi bão và áp thấp nhiệt đới. Thế nhưng, trong cuối tháng 12/2006, tình hình áp thấp nhiệt đới có những biến động lớn và hình thành nên bão số 9 (bão Durian) đã gây thiệt hại nặng nề về của cải vật chất đến toàn tỉnh, mà thiệt hại nặng nề nhất là tại 3 huyện vùng ven biển với mức thiệt hại như sau:



  • Tại huyện Thạnh Phú: chỉ trong buổi sáng cùng ngày, toàn bộ hệ thống điện của huyện bị mất hoàn toàn. Có 1.096 ngôi nhà bị tốc mái, 285 ngôi nhà bị sập.

  • Tại huyện Ba Tri: bão số 9 đã làm sập hoàn toàn 4.338 nhà chính, tốc mái hư hỏng 16.403 nhà chính. Có 56 trường học bị ảnh hưởng, trong đó: sập 16 phòng học, tốc mái 215 phòng, hư hỏng nhiều dụng cụ dạy và học khác. 42 trụ sở làm việc, 17 trạm xá và 2 cơ sở văn hóa bị hư hỏng nặng. Làm 2 người chết, 99 người bị thương, chìm 10 chiếc tàu. Định mức thiệt hại toàn huyện trên 282,67 tỷ đồng.

  • Tại huyện Bình Đại: là huyện bị thiệt hại nặng nề nhất trong tỉnh Bến Tre. Toàn huyện có 7 người chết do nhà sập, cây đè; 60 người bị thương; sập hoàn toàn 2.753 căn nhà và tốc mái 24.534 căn. Toàn huyện mất điện và hệ thống thông tin liên lạc ngừng hoạt động. Trong đó, xã Thạnh Trị là một trong những điểm bị bão số 9 tàn phá nhiều nhất. Toàn bộ xã hơn 2.000 căn nhà đều bị đổ, hư hỏng nặng và tốc mái.

(2) Lũ và triều cường

Hàng năm, vào mùa mưa, những trận mưa lớn kết hợp với triều cường, lũ trên thượng nguồn đổ về gây ngập lụt cục bộ, sạt lở đê bao, làm hư hỏng các cơ sở hạ tầng, thiệt hại trực tiếp cho các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp, du lịch,… Các huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú là nơi hứng chịu nặng nề nhất do nằm ven biển và cuối nguồn các sông.

Các năm qua tuy áp thấp nhiệt đới, bão không ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh nhưng cũng gián tiếp gây ra những trận mưa lớn, kết hợp triều cường, lũ thượng nguồn đổ về, gây ngập lụt cục bộ, sạt lở đê bao, hư hỏng đường giao thông, thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và nhiều công trình khác.

Trong năm 2006, do ảnh hưởng của gió mạnh và triều cường đã gây thiệt hại trực tiếp đến lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, diêm nghiệp và NTTS của tỉnh, đặc biệt là huyện ven biển Ba Tri. Có 4 xã thuộc huyện Ba Tri bị thiệt hại bao gồm: Bảo Thạnh, Bảo Thuận, Tân Thủy, An Thủy do triều cường đã làm hư hại hoa màu, vỡ ngư trường, phần lớn là các hộ nuôi tôm quảng canh (tràn hồ tôm), không thu hoạch được muối. Tổng số thiệt hại lên đến 6,617 tỷ đồng.



(3) Sạt lở và bồi tụ

Quá trình bồi tụ và sạt lở diễn ra ở khu vực cửa sông và ven biển khá mạnh mẽ.



Khu vực cửa sông:

Ở vùng cửa sông Bến Tre, quá trình bồi tụ chiếm ưu thế đặc biệt là khu vực cửa Ba Lai (bờ phải của Thạnh Phước đến ấp Bảo Thuận 3 km và khu vực bờ trái từ cửa rạch Vũng Luông đến xóm Tiên 1 km), cửa Cổ Chiên (tích tụ cồn cát từ cù lao Long Hòa thuộc tỉnh Trà Vinh về phía Đông Nam 5 km).

Xâm thực các cửa sông ở Bến Tre (cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiện) diễn ra với quy mô nhỏ chủ yếu liên quan đến hoạt động thủy triều, sóng và do các tích tụ giữa lòng sông làm lệch dòng chảy.

Khu vực ven biển:

Đối với khu vực ven biển quá trình bồi tụ chiếm ưu thế. Tài liệu nghiên cứu trong 21 năm từ 1968 đến 1989 cho thấy bồi tụ chiếm tới 61,1707 km2 trong khi đó xâm thực là 12,2632 km2. Như vậy, trong 21 năm lấn biển là 48,9 km2, tốc độ bình quân/năm là 2,33 km2.

Bồi tụ thành dãy hẹp ở phía Bắc và phía Nam Cửa Đại. Bồi tụ mạnh mẽ vùng cửa Ba Lai, phía Nam cửa Hàm Luông đến phía Bắc cửa Cổ Chiên bồi tụ liên tục, lớn nhất là khu sân nghêu – phía Đông Cồn Lớn (diện tích từ Vàm Hồ đến cửa Cổ Chiên).

Xâm thực chỉ thấy diện tích nhỏ phía Tây Cồn Lớn, phía Bắc và phía Nam cửa Cổ Chiên.



(4) Xâm nhập mặn

Hàng năm vào mùa khô, mặn theo dòng triều xâm nhập sâu vào các sông chính trong vùng, làm thiệt hại ít nhiều đến sản xuất và đời sống. Do ảnh hưởng từ triều nên một ngày cũng thường xuất hiện 2 đỉnh mặn và 2 chân mặn. Trị số đỉnh mặn và chân mặn thường xuất hiện sau đỉnh triều và chân triều từ 1 – 3 giờ. Giá trị độ mặn trong sông càng về thượng nguồn càng giảm.

Hiện nay, ranh mặn 4‰ xâm nhập các sông chính lên tới 60 km. Trên sông cửa Đại đã lên đến Tân Thạnh – Phú Túc (Châu Thành); trên sông Hàm Luông lên đến Tiên Thủy (Châu Thành); trên sông Cổ Chiên lên đến Nhuận Phú Tân – Khánh Thạnh Tân (Mỏ Cày Bắc). Ranh mặn 1‰ gần như xâm nhập toàn tỉnh.

Thiệt hại do xâm nhập mặn và hạn hán gây ra từ năm 1995 – 2008 là 672,325 tỷ đồng và 132.823 hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt, 360 ha NTTS bị giảm năng suất và 5.289 tấn tôm bị chết.



(5) Nước biển dâng do biến đổi khí hậu

Những năm gần đây hiện tượng nước dâng trong mùa mưa bão đã gây thiệt hại rất nghiêm trọng, làm ngập úng rộng trên diện tích lớn đất nông nghiệp (vườn cây ăn trái, hoa màu, ruộng lúa, NTTS,…); những vùng đất trũng, thấp; các cồn, đất ven sông bị sạt lở do dòng chảy xâm thực; gây ngập, hư hỏng các công trình giao thông, thủy lợi, đê bao,…

Hiện tượng nước dâng chủ yếu do triều cường gây ra, thường xuất hiện từ khoảng giữa mùa mưa đến cuối năm. Với diễn tiến của biến đổi khí hậu, Bến Tre là tỉnh nằm giữa lưu vực và cuối dòng chảy sông Mekong sẽ là tỉnh mất nhiều đất khi nước biển dâng lên kết hợp với triều cường, mưa lũ.

      1. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên


(1) Tài nguyên đất

  • Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Bến Tre

Tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh Bến Tre tính đến ngày 01/01/2009 là 236.019,82 ha. Trong đó đất nông nghiệp có 181.406,04 ha, chiếm tỷ lệ lớn nhất 76,86% trong tổng diện tích tự nhiên; kế đến là đất phi nông nghiệp có 54.510,33 ha, chiếm 23,10% tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng chiếm diện tích nhỏ khoảng 103,45 ha (0,04% trong tổng diện tích tự nhiên).

Huyện Bình Đại có tổng diện tích tự nhiên là 40.458,05 ha, chiếm 17,14% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh (tính đến ngày 01/01/2009). Đất nông nghiệp toàn huyện có 32.114,88 ha, chiếm 79,38 % trong tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp có 8.294,92 ha, chiếm 20,50 % tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng chiếm diện tích lớn nhất trong quỹ đất chưa sử dụng toàn tỉnh khoảng 48,25 ha.

Huyện Ba Tri có tổng diện tích tự nhiên là 35.581,75 ha, chiếm 15,08% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh (tính đến ngày 01/01/2009). Đất nông nghiệp toàn huyện có 28.320,24 ha, chiếm 79,59 % trong tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp có 7.261,51 ha, chiếm 20,41 % tổng diện tích tự nhiên.

Huyện Thạnh Phú có tổng diện tích tự nhiên là 44.351,06 ha, chiếm 18,79% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh (tính đến ngày 01/01/2009). Đất nông nghiệp toàn huyện có 34.266,67 ha, chiếm 77,26 % trong tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp có 10.064,28 ha, chiếm 22,69 % tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng khoảng 20,11 ha.



Bảng 2.2. Hiện trạng sử dụng đất tính đến ngày 01/01/2009

(Đơn vị: ha)

TT

Danh mục

Toàn tỉnh

Bình Đại

Ba Tri

Thạnh Phú

 

Tổng diện tích tự nhiên

236.019,82

40.458,05

35.581,75

44.351,06

I

Đất nông nghiệp

181.406,04

32.114,88

28.320,24

34.266,67

1

Đất sản xuất nông nghiệp

136.038,63

13.612,59

21.424,72

14.939,54

A

Đất trồng cây hàng năm

49.985,20

5.793,01

17.582,44

10.465,00

B

Đất trồng cây lâu năm

86.053,44

7.819,58

3.842,28

4.474,54

2

Đất lâm nghiệp có rừng

6.430,67

1.217,69

625,86

4.587,12

A

Đất rừng sản xuất

369,00

369,00

 

 

B

Đất rừng phòng hộ

6.061,67

848,69

625,86

4.587,12

C

Đất rừng đặc dụng

 

 

 

 

3

Đất NTTS

37.078,01

17.016,52

5.014,32

14.739,70

4

Đất làm muối

1.514,34

266,41

1.247,93

 

5

Đất nông nghiệp khác

344,38

1,67

7,41

0,31

II

Đất phi nông nghiệp

54.510,33

8.294,92

7.261,51

10.064,28

III

Đất chưa sử dụng

103,45

48,25

 

20,11




Đất có mặt nước ven biển (quan sát)

2.344,33

 

2.344,33

 

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre)

Xét toàn tỉnh, hiện trạng đất NTTS ba huyện ven biển có tổng diện tích lớn nhất, chiếm 99,17 % trong cơ cấu đất NTTS toàn tỉnh. Trong đó, huyện Bình Đại có diện tích NTTS là 17.016,52 ha chiếm 45,89 %; huyện Thạnh Phú có 14.739,70 ha chiếm 39,75 %; huyện Ba Tri có 5.014,32 ha chiếm 13,52 %.

Trong cơ cấu đất nông nghiệp theo từng huyện cũng cho thấy tầm quan trọng của quỹ đất NTTS. Tỷ lệ đất NTTS trong cơ cấu đất nông nghiệp theo từng huyện lần lượt là: huyện Bình Đại chiếm 52,99%, huyện Thạnh Phú chiếm 43,01%, huyện Ba Tri chiếm 17,71%. Theo định hướng phát triển trong tương lai cho thấy diện tích này còn tăng lên nữa do sự chuyển đổi những diện tích trồng lúa, cây trồng kém hiệu quả chuyển qua NTTS cũng như tốc độ lấn biển của các bãi bồi NTS ven biển các huyện hiện nay.



(2) Tài nguyên nước mặt và nước ngầm

Tài nguyên nước ngầm và nước mặt của Bến Tre khá phong phú, nhưng trên 3/4 diện tích toàn tỉnh bị nhiễm mặn từ 2 - 3 tháng đến quanh năm và có khuynh hướng ngày càng sâu và kéo dài hơn; tài nguyên nước ngọt hạn chế, các vỉa nước ngầm ngọt có chất lượng đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt tập trung chủ yếu tại vùng Bắc huyện Châu Thành. Hơn nữa, do tình trạng khai thác bừa bãi và xâm lấn mặn nên các tầng nước ngầm đang có nguy cơ bị ô nhiễm, đe dọa đến khả năng cung cấp nguồn nước ngọt trong tương lai.



  • Tài nguyên nước ngầm

Kết quả thăm dò địa chất thuỷ văn về nước giồng cát, nước ngầm tầng nông và nước ngầm tầng sâu cho thấy ở Bến Tre có các tầng nước như sau:

- Nguồn nước giồng cát: Trữ lượng khoảng 12 triệu m3, có thể khai thác khoảng 844 m3/ngày/km2. Nước có độ cứng cao, nhiễm mặn, nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn nên khả năng đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt rất hạn chế, chỉ tạm đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt ở nông thôn trong điều kiện thiếu nước ngọt, nhưng về mặt vi sinh còn nhiều vấn đề phải xử lý.

- Nguồn nước ngầm tầng nông (sâu dưới 100m): Gồm có 2 tầng nước: Tầng 1 có độ sâu 30 – 50 m phân bổ trải rộng khắp tỉnh với bề dày tầng chứa nước dưới 10 m, trữ lượng khoảng 154,16 triệu m3, nước có độ cứng cao, độ mặn dao động 454 - 654 mg/lít đạt tiêu chuẩn vi sinh; khu vực nước nhạt hơn tập trung ở phía Bắc huyện Chợ Lách, Châu Thành, một phần huyện Thạnh Phú và Ba Tri (xã An Thủy). Tầng 2 có độ sâu từ 60 – 90 m với bề dày tầng nước trên 10 m; nước có độ cứng cao, độ mặn dao động lớn, đạt tiêu chuẩn vi sinh, trữ lượng nước ngọt ở tầng này tương đối phong phú, phân bổ ở khu vực Châu Thành - Chợ Lách với trữ lượng 587 triệu m3, trữ lượng khai thác có thể đạt 529 m3/ngày, Ba Tri - Thạnh Phú có trữ lượng 455 triệu m3 và có thể khai thác 534 m3/ngày.

- Nước ngầm tầng sâu (trên 100 m): Gồm 2 phức hệ chứa nước: Phức hệ pleiocene có nhiều lớp đan xen đến tầng sâu 395 m, trong đó quan trọng nhất là tầng chứa nước 290 – 350 m, chất lượng nước tốt. Diện tích phân bổ nước ngọt tầng này tập trung trong khoảng 112 km2 từ Thị xã về phía bắc phà Rạch Miễu. Trữ lượng tiềm năng là 74.368 m3/ngày-đêm, trữ lượng khai thác công nghiệp 10.500 m3/ngày-đêm. Phức hệ chứa nước miocene ở độ sâu trên 400 m, có nhiều tầng chứa nước. Tuy nhiên quan trọng nhất là tầng 410 – 440 m, nước có chất lượng tốt phân bổ từ Thị xã lên phía Bắc huyện Châu Thành với diện tích 150 km2, trữ lượng tiềm năng 26.507 m3/ngày-đêm.

Nhìn chung, nguồn nước ngầm ở ba huyện biển hầu hết đều bị nhiễm mặn, một số khu vực gặp khó khăn trong việc khai thác nước ngầm, đặc biệt là mùa khô khi mặn xâm thực sâu vào đất liền. Nguồn nước cấp chủ yếu cho các hoạt động sản xuất là từ hệ thống nước mặt các sông ngòi.


  • Tài nguyên nước mặt

Tỉnh Bến Tre có hệ thống sông rạch phát triển với 4 nhánh sông lớn của hệ thống sông Cửu Long với tổng chiều dài khoảng 300km. Ngoài ra còn hệ thống kênh rạch nối các sông lớn với nhau thành mạng lưới sông rạch chằng chịt với tổng chiều dài hơn 2.367 km. Tổng lưu lượng nước các sông thuộc hệ thống sông Tiền lên đến 30 tỷ m3/năm trong đó mùa lũ chiếm 80%.

- Sông Mỹ Tho (sông Tiền): lưu lượng mùa lũ khoảng 6.480 m3/s, mùa khô 1.598 m3/s.

- Sông Ba Lai do bồi phía thượng nguồn nên lưu lượng mùa lũ chỉ có 240 m3/s, mùa khô 59 m3/s.

- Sông Hàm Luông là con sông lớn nằm trọn vẹn trong địa giới tỉnh Bến Tre, lòng sông rộng và sâu, lưu lượng lớn nhất so với các sông khác. Lưu lượng mùa lũ khoảng 3.360 m3/s, mùa khô 828 m3/s.

- Sông Cổ Chiên lưu lượng mùa lũ khoảng 6.000 m3/s, mùa khô khoảng 1.480 m3/s.

Với nguồn nước dồi dào và phong phú như trên là một trong những tiềm năng lớn để phát triển NTTS của tỉnh.



(3) Cơ sở thức ăn tự nhiên và nguồn lợi thủy sản

Ba huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú với đặc trưng nằm ở vùng cửa sông ven biển nên có sự đa dạng về mặt sinh thái. Là một trong những hệ sinh thái mang tính đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới có tài nguyên sinh học và đa dạng sinh học rất phong phú và được xem là một hệ sinh thái có năng suất sinh học cao nhất ở các hệ sinh thái ven biển Đông Nam Việt Nam, từ các loài thuỷ hải sản cho đến các sinh vật phù du với kích thước nhỏ bé. Nguồn lợi cá tại khu vực này rất phong phú bao gồm cả cá biển và cá nước ngọt từ hệ thống sông Mekong.

Thủy sinh vật vùng cửa sông ven biển mang tính chất thích nghi cao bởi nơi đây là vùng giao thoa giữa nước ngọt từ nội địa, nước mặn từ biển và tạo nên vùng nước lợ rất đặc trưng. Loại hình sinh cảnh vùng bờ và biển nông ven bờ, mà đặc trưng là rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn vừa cung cấp thức ăn trực tiếp (mùn bã, lá, trái rụng,…) vừa gián tiếp qua các động vật ăn mùn bã làm mồi cho các loài cá lớn và một số động vật ăn thịt khác, là bãi đẻ của hầu hết các loài động vật đáy và cá.


  • Cơ sở thức ăn tự nhiên

Theo Nguyễn Huy Bá, 2008, “Nghiên cứu đánh giá đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật ở vùng cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre. Xây dựng các giả pháp quản lý, sử dụng hợp lý”. Qua hai đợt khảo sát các thủy vực trong tỉnh vào tháng 12/2005 và 6/2006 đã ghi nhận được 217 loài thuộc 6 lớp, 5 ngành thực vật phiêu sinh. Trong đó ưu thế nhất về số loài là tảo silic (Bacillariophyceae, 137 loài), kế đến là tảo lam (Cyanophyceae, 30 loài), tảo lục (Chlorophyceae, 19 loài), tảo mắt (Euglenophyceae, 14 loài), tảo giáp (Dinophyceae, 4 loài) và thấp nhất là tảo vàng ánh (Chrysophyceae, 2 loài). Số loài tảo silic, tảo lục và tảo mắt chiếm một tỷ lệ cao trong quần xã thực vật phiêu sinh, khoảng 80%. Hầu hết những loài này là thức ăn của tôm cá và nhiều loài thủy sản khác.

Thành phần loài: hầu hết các loài tảo phản ánh tính chất môi trường nước ngọt, lợ. Có 87 loài tảo đặc trưng cho sự nhiễm bẩn, 21 loài gây mùi và vị cho nước, 7 loài chỉ thị môi trường nước sạch, có 101 loài tảo có khả năng xử lý nước thải, cải thiện môi trường nước. Đa số các loài tảo là thức ăn cho tôm, cá, cho thấy nguồn thức ăn tự nhiên rất thuận lợi cho việc phát triển nguồn lợi thủy sản trong vùng.

Số lượng thực vật phiêu sinh trên toàn vùng khảo sát biến thiên từ 308 – 24.200 cá thể/lít vào tháng 12/2005. Vào tháng 6/2006, từ 504 – 4.230.000 cá thể/lít. Việc phân tích cũng chỉ ra môi trường nước khu vực khảo sát có thể được chia thành các vùng sau:

- Vùng thuộc Băng Cung, rạch Cả Bảy, Khâu Băng, Eo Lôi, Vàm Rồng và cảng cá An Thủy (Thạnh Phú): môi trường nước lợ mặn, nước chảy, hàm lượng chất dinh dưỡng từ thấp đến trung bình, quần xã thực vật phiêu sinh có phần ổn định.

- Vùng thuộc rạch Bắc Kỳ, Vàm Bảo Thuận (Ba Tri), rạch Mương Me, Vàm Thới Thuận, Bãi Sò Thới Thuận, và Bình Thắng (Bình Đại): môi trường nước lợ mặn, nước chảy, hàm lượng chất dinh dưỡng trung bình và quần xã thực vật phiêu sinh kém ổn định.

- Vùng thuộc vàm Bảo Thạnh (Ba Tri), Cửa Ba Lai và Vũng Luông (Bình Đại): môi trường nước lợ mặn, nước chảy, giàu dinh dưỡng và quần xã thực vật phiêu sinh biến động lớn theo mùa.



Về phiêu sinh động vật: xác định được 92 loài thuộc 8 nhóm. Trong đó, ưu thế nhất là các loài thuộc nhóm Copepoda (với 31 loài), kế đến là nhóm Protozoa (với 25 loài), Rotatoria (17 loài), CladoceraOstracoda có cùng số loài (6 loài), Crustacea (4 loài) và Cnidaria (1 loài). Trong đó nhóm chân chèo Copepoda có mặt ở hầu hết các điểm từ vùng cửa sông đến các sông rạch trong nội địa. Hầu hết các loài phiêu sinh động vật là nguồn thức ăn tự nhiên giàu dinh dưỡng cho các loài tôm cá.

  • Nguồn lợi thủy sản

Bảng 2.3. Ước tính trữ lượng thủy sản nói chung và các nhóm loài chủ yếu ở vùng nước ven bờ tỉnh Bến Tre

Nhóm loài thủy sản

Trữ lượng (tấn)

Sản lượng trung bình (kg/giờ)

Tôm

2.298

3,8

Mực

1.270

2,1

Cua, ghẹ

908

1,5

Trữ lượng tôm, mực, cua, ghẹ

4.476




Cá Mối

1.710

2,3

Cá Chỉ Vàng

1.510

2

Cá Nục

1.208

1,5

Cá Đù

1.268

1,6

Cá Ngân

602

0,5

Cá Hố

602

0,5

Cá Liệt

1.752

2,4

Cá Lượng

502

0,5

Cá Trác

1.208

1,5

Cá Nhồng

510

0,35

Cá Bạc Má

1.208

0,9

Cá Chét

510

0,3

Cá Bơn Lưỡi Trâu

844

1

Cá Phèn

482

0,6

Cá Tạp

904

1

Trữ lượng cá

14.668




(Nguồn: Điều tra quy hoạch khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ và xa bờ tỉnh Bến Tre năm 2002)

Thành phần loài cá ở sông và ven biển tỉnh Bến Tre có 120 loài cá thuộc 28 họ, nằm trong 15 bộ cá. Bộ cá vược chiếm ưu thế cả về họ (21 họ) lẫn về loài (54 loài), họ cá Khế Carangidae 9 loài, họ cá Đù Sciaenidae 8 loài, họ cá Liệt Leiognathidae 6 loài…Bộ cá Bơn Pleuronectiformes có 14 loài phân bố trong 3 họ, họ cá Bơn Cát Cynoglossidae chiếm 8 loài, họ cá Bơn Vĩ Bothidae 4 loài, họ cá Bơn Sọc Soleidae 2 loài. Bộ cá Trích Clupeiforms có 13 loài, họ cá Trích Cluipeidae 6 loài, họ cá Trỏng Engraulidae 6 loài.

Thành phần loài cá vùng cửa sông ven biển Bến Tre phản ánh tính chất đa dạng về loài, đa dạng về sinh thái, nhưng số lượng từng loài không lớn. Trong đó, những họ cá có vai trò quan trọng cho nghề cá vùng cửa sông ven biển là cá Khế Carangidae, cá Hồng Lutianidae, cá Mối Synodontidae, cá Đù Sciaenidae, cá Phèn Mullidae, cá Trích Clupeidae, cá Trỏng Engraulidae, họ cá Liệt Leiognathidae, cá Bống Trắng Gobiidae, cá Bơn Cát Cynoglossidae, cá Bơn Vĩ Bothidae, cá Căng Theraponidae, cá Móm Gerridae, cá Đục Sillaginidae,…

Thành phần loài cá trong mùa mưa phong phú hơn so với mùa khô: mùa mưa có 18/28 họ, 81/120 loài (chiếm 67,5‰ tổng số loài); trong khi mùa khô có 16 họ/51 họ chỉ 56/120 loài (chiếm 46,67‰ tổng số loài). Có thể chia ra các nhóm cá:


  • Nhóm cá nước lợ: thường là những loài có kích thước nhỏ như cá Kèo (Oxyurichthys tentacularis), cá Bống Cát (Glossogobius giuris). Các loại cá đáy ở vùng cửa sông hoặc trong các đầm là đối tượng đánh bắt của các nghề cá thủ công ven biển như nghề đóng đáy. Số lượng cá này chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong toàn bộ sản lượng cá đánh bắt hàng năm trong tỉnh.

  • Nhóm cá biển di cư: gồm có loại cá sống nổi thuộc họ cá Trích , loại sống ở đáy ăn động vật đáy như cá đối (Liga), cá bống dài (Oxyurichthys papuensis).

Nhóm cá biển và cá nước lợ phần lớn thuộc bộ Perciformes, Clupeiformes, Aulopiformes, Scorpaeniformes, Pleuronectiformes, Anguilliformes.

  • Nhóm cá nước ngọt: gồm cá mè vinh (Puntius gonionotus), cá mè dảnh, cá trê vàng (Clarias macrocephalus)…

  • Nhóm cá sống trên đồng ruộng: đại diện là cá lóc (Channa striata), cá rô (Oreochromis), cá trê (Clarias), cá sặc (Trichogaster).

Các loại tôm: trên địa bàn tỉnh đã nhận diện được 20 loài, trong đó tôm biển có 12 loài (thuộc 5 họ) và 8 loài tôm nước ngọt (thuộc 2 họ). Về tôm nước lợ mặn, thì tôm tự nhiên hiện diện phổ biến nhất là tôm thẻ (Penaeus merguiensis), tôm sú (Penaeus monodon), ở nước ngọt là con tôm càng xanh.

Các loài cua: có 2 loài biển có kích thước lớn và giá trị kinh tế cao là cua Bùn Scylla paramamosain cua Xanh Scylla serrata, phân bố chủ yếu ở khu vực nước lợ ven biển, trong các khu rừng ngập mặn, các đầm nuôi tôm QCCT…

Ngoài ra, nguồn lợi nhuyễn thể gồm các loài như Nghêu (Meretrix), Sò (Andara), vẹm (Mytilus), hàu (Ostrea), tu hài (Lutraria), phi (Sanguinolaria), ngán (Cyclina), vọp (Cyrena), vạng (Mactra), don (Glaucomya), dắt (Aliodis), ngó (Dosinia ), ốc mút (Cerithidium), ốc đĩa (Nerita). Chúng sống trong đáy bùn cát hoặc cát sỏi, bám trên đá ở vùng trung và hạ triều, thường tập trung thành từng bãi. Đây là các đối tượng loài có giá trị thực phẩm, được khai thác thường ngày, một số loài có giá trị xuất khẩu. Hiện nay, một số loài như Nghêu (Meretrix lyrata ), Sò huyết (Andara granosa),… được nuôi bán tự nhiên ở các vùng bãi triều cửa sông, ven biển của tỉnh đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.

Diện tích một số bãi nghêu thuộc vùng ven biển Bến Tre:

+ Bãi nghêu ở HTX Đồng Tâm thuộc xã Thừa Đức, Bình Đại có diện tích là 800 ha, trong đó nghêu giống tập trung 30 ha chiếm 3,75% tổng diện tích. Diện tích nghêu bố mẹ là 27 ha nằm rải rác triền các bãi triều vùng cửa sông.

+ Bãi nghêu ở HTX Rạng Đông thuộc xã Thới Thuận, Bình Đại có diện tích là 846,7 ha, trong đó nghêu giống tập trung 44 ha chiếm 5,2% tổng diện tích. Diện tích nghêu bố mẹ là 138 ha tập trung chủ yếu ngoài cửa sông Ba Lai, lòng lạch và triền các bãi nghêu.

+ Bãi nghêu ở HTX Đoàn Kết thuộc xã Thạnh Phong, Thạnh Phú có diện tích là 160 ha, trong đó nghêu giống tập trung 38 ha chiếm 23,75% tổng diện tích. Diện tích nghêu bố mẹ từ 82 - 100 ha.

+ Bãi nghêu ở HTX Thạnh Lợi thuộc xã Thạnh Hải, Thạnh Phú có diện tích là 177 ha, trong đó nghêu giống tập trung 7 ha chiếm 3,95% tổng diện tích. Diện tích nghêu bố mẹ là 12 ha.



(4) Tài nguyên rừng ngập mặn vùng ven biển tỉnh Bến Tre

Với diện tích tự nhiên 236.020 ha, từ lâu ở Bến Tre đã hình thành và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên rất độc đáo, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn. Diện tích rừng ngập mặn của tỉnh có khoảng 3.759 ha, độ chê phủ gần 1,59% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, độ che phủ trong vùng quy hoạch lâm nghiệp 47,97%, 3,45% diện tích tự nhiên 3 huyện ven biển.

Rừng ngập mặn có vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, giữ cân bằng môi trường sinh thái trong khu vực ĐBSCL nói chung và Bến Tre nói riêng. Rừng ngập mặn còn là môi trường sống, nơi trú ẩn, là bãi đẻ cho nhiều loài động vật thủy sản quan trọng cũng như các loài chim, bò sát, lưỡng cư khác.

Rừng ngập mặn vùng cửa sông ven biển của tỉnh đang bị đe doạ bởi sự suy giảm về diện tích và cấu trúc thảm thực vật, chỉ có 145 loài với 56 họ còn lại trong khu hệ thực vật đặc trưng cho hệ thực vật của rừng mưa nhiệt đới. Loài đặc trưng cho rừng ngập mặn ở vùng cửa sông ven biển là Mắm biển, Mắm trắng, Bần chua, Bần đắng, Giá và Sú ổi.

Đối với hệ động vật, thành phần và số lượng cá thể của các lớp động vật có xương sống trên cạn tương đối nghèo. Lớp chim còn lại số lượng nhiều nhất với 80 loài thuộc 11 bộ, 35 họ; lớp bò sát với 15 loài bò sát thuộc 10 họ; lớp lưỡng thê có 5 loài thuộc 3 họ và 1 bộ. Bên cạnh đó thành phần thủy sinh vật có 226 loài thuộc 7 lớp, 5 ngành thực vật phiêu sinh; 105 loài động vật phiêu sinh thuộc 8 nhóm; khu hệ cá có 117 loài cá thuộc 28 họ, nằm trong 15 bộ; ngoài ra còn một số loài thuộc nhóm nhuyễn thể, giáp xác khác.

Kết quả thống kê trên đã cho thấy rừng ngập mặn khu vực ven biển tỉnh Bến Tre có mức độ đa dạng sinh học rất cao. Tuy nhiên đa dạng sinh học đang có nguy cơ bị giảm sút. Động vật rừng đang có xu hướng giảm cả về số loài cũng như sinh lượng, nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng. Sự giảm sút về số lượng các loài của khu hệ động vật phản ánh tình trạng khai thác, săn bắt các loài động vật quá mức và bừa bãi. Thêm vào đó các hoạt động phá rừng, các trảng cỏ đã làm mất nơi cư trú của các loài động vật. Diện tích rừng bị thu hẹp, thảm thực vật hầu như không còn loài quý hiếm. Do đó, diện tích rừng còn lại cần được khoanh vùng và bảo vệ, đây là biện pháp duy nhất để bảo tồn tính đa dạng hiện có của rừng ở vùng cửa sông ven biển Bến Tre.

Những năm gần đây, công tác bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển được các tỉnh trong khu vực quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, những tác động tiềm ẩn vẫn đang tiếp tục đe dọa hệ sinh thái rừng ngập mặn ở ĐBSCL nói chung và Bến Tre nói riêng. Tình hình đó đòi hỏi phải có các giải pháp hữu hiệu trong quy hoạch các khu bảo tồn đất ngập nước ven biển, trong tổ chức khai thác tài nguyên gắn liền với phát triển hệ sinh thái đặc thù này để bảo vệ và phát triển bền vững khu hệ sinh thái này.


      1. Đánh giá điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến vùng quy hoạch


Tổng diện tích tự nhiên ba huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú là 120.390,9 ha (năm 2009), chiếm 51% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Trong đó, đất NTTS trên địa bàn ba huyện khá lớn, chiếm 99,17 % trong cơ cấu đất NTTS toàn tỉnh. Ngoài ra, với sự hình thành và phát triển các nhánh sông lớn (sông cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên) thuộc hệ thống sông Mekong thông ra biển Đông, có đường bờ biển kéo dài trên 65 km đã làm mở rộng diện tích mặt nước, bãi bồi NTTS cho các huyện.

Bến Tre là tỉnh ven biển thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có nhiệt lượng dồi dào, ổn định quanh năm thuận lợi cho sự phát triển tự nhiên của các loài thủy sinh. Tỉnh có diện tích rừng ngập mặn rộng lớn là nơi cung cấp thức ăn, bãi đẻ cho các loài thủy sinh vật vùng cửa sông ven biển, đồng thời cũng là nơi vô cùng lý tưởng để ương nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cá. Dọc các con sông lớn là các cù lao, bãi bồi có thể nuôi nghêu, sò huyết, cua và thủy sản nước lợ, nước ngọt (tôm càng xanh).

Nguồn lợi thủy sản của ba huyện được hình thành bởi hệ sinh thái sông Mekong và hệ sinh thái vùng biển nhiệt đới nên có tính đa dạng sinh học cao. Nguồn lợi cá biển rất phong phú (cá Mối, cá Chỉ Vàng, cá Nục, cá Liệt, cá Đù, cá Trác,…) với trữ lượng khoảng 14.668 tấn, trữ lượng tôm, mực, cua, ghẹ là 4.476 tấn. Nguồn lợi nhuyễn thể như nghêu, sò huyết xuất hiện tự nhiên ở các vùng bãi triều cửa sông, ven biển cho sản lượng thu hoạch hàng năm tương đối lớn.

Trên địa bàn tỉnh, các loài động vật thủy sinh được nuôi chủ yếu như cá, tôm sú, tôm càng xanh, nhuyễn thể, ba ba và cua. Trong đó, các mô hình NTTS nước ngọt của tỉnh gồm: nuôi cá ao, mương vườn; nuôi cá xen canh với ruộng lúa; nuôi tôm càng xanh kết hợp trồng lúa. Các mô hình NTTS vùng ven biển như: nuôi tôm sú công nghiệp và bán công nghiệp, nuôi tôm sú quảng canh cải tiến luân canh lúa, nuôi quảng canh truyền thống trong diện tích mặt nước tự nhiên và trong đất rừng, nuôi tôm biển ao, mương quảng canh có thả thêm giống, mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi tôm bạc đất, nuôi cá rô phi đơn tính, nuôi chuyên canh cua…



Sự xâm nhập mặn thông qua hệ thống kênh rạch và sự ngọt hóa nội đồng bằng hệ thống cống, đập đóng vai trò quan trọng trong việc phân vùng nuôi thủy sản nước mặt, lợ và ngọt khác nhau. Nhưng các hệ thống này cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng tù đọng các chất ô nhiễm trong môi trường nước. Vào mùa lũ, lượng nước sông Mekong đổ về nhiều mang theo một lượng phù sa rất lớn làm cho độ trong và độ mặn trong nước giảm, ảnh hưởng tới NTTS. Bên cạnh đó cũng mang đến rủi ro cho các ao nuôi nếu không được đầu tư hệ thống hạ tầng cơ sở vững chắc. Vấn đề môi trường nước ven biển và dịch bệnh trong quá trình nuôi cũng là vấn đề cần cảnh báo trong những năm tới.


    1. tải về 3.31 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   40




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương