MỤc lục chưƠng 1: CƠ SỞ LÝ luậN 11


CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG CỦA TÀI NGUYÊN/MÔI TRƯỜNG



tải về 1.63 Mb.
trang6/20
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.63 Mb.
#16415
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20

2.3CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG CỦA TÀI NGUYÊN/MÔI TRƯỜNG

2.3.1Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contigent Valuation Method - CVM)


Khái niệm

Đánh giá ngẫu nhiên (tên gốc là Contingent Valuation – CV) hay Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) là phương pháp được sử dụng để đánh giá hàng hoá chất lượng môi trường không dựa trên giá thị trường, đặc thù cho nhóm giá trị phi sử dụng... Bằng cách xây dựng một thị trường ảo, người ta xác định được hàm cầu về hàng hoá môi trường thông qua sự sẵn lòng chi trả của người dân (WTP) hoặc sự sẵn lòng chấp nhận khi họ mất đi hàng hoá đó (WTA), đặt trong một tình huống giả định. Thị trường thì không có thực, WTP thì không thể biết trước, ta gọi đây là phương pháp “ngẫu nhiên” là vì thế. Một khi tình huống giả thuyết đưa ra đủ tính khách quan, người trả lời đúng với hành động thực của họ thì kết quả của phương pháp là khá chính xác. Các nhà phân tích sau đó có thể tính toán mức sẵn lòng chi trả trung bình của những người được hỏi, nhân với tổng số người hưởng thụ giá trị hay tài sản môi trường thì thu được ước lượng giá trị mà tổng thể dân chi trả cho tài sản đó.



Mục đích

CVM được áp dụng cho rất nhiều yếu tố môi trường như chất lượng không khí, giá trị cảnh quan, giá trị giải trí của bãi biển, bảo tồn các loài động vật hoang dã, hoạt động câu cá và săn bắn, phát thải chất độc hại…



Mô tả

Để thực hiện một CV thành công, ta đi theo các bước như sau:



Bước 1: Xây dựng thị trường giả định

Bước đầu tiên là xây dựng một thị trường giả định cho các dịch vụ môi trường. Các kịch bản lượng giá cần được xác định rõ ràng, giải thích đầy đủ các hàng hoá môi trường được nói đến và bản chất sự thay đổi. Để làm được điều này nên sử dụng các hình ảnh như ảnh chụp hoặc ảnh minh hoạ.

Phải xác định rõ các tổ chức có trách nhiệm cung cấp hàng hoá và khả năng cung cấp hàng hoá của họ. Điều này giúp người được hỏi nhìn thấy được hàng hoá đó được cung cấp trong thực tế như thế nào.

Ví dụ về một kịch bản:

Một toà nhà cổ ở trung tâm thành phố là một mẫu kiến trúc duy nhất từ giai đoạn những năm 1600. Mười năm qua nó đã hư hại nhiều do không được sửa chữa (đưa ra ảnh chụp trước và sau). Nếu không có sự can thiệp toà nhà sẽ càng xuống cấp và sẽ sụp đổ trong vòng 5 năm. Chính quyền địa phương sẽ phải chi trả một khoản tiền để phục hồi nguyên trạng của nó mười năm trước. Khoản tiền này sẽ được huy động bằng cách tăng thuế thu nhập”.

Bước này cũng cần xác định các khoản chi trả là bao nhiêu. Các khoản này thường được chi trả dưới dạng thuế, phí, giá thay đổi hoặc các khoản biếu tặng. Bước này đòi hỏi phải tạo ra kịch bản về phương tiện chi trả hoặc đền bù dưới hai dạng sau:

Kịch bản đóng: Một hệ thống giá trị tiền tệ được xây dựng từ thấp đến cao hoặc từ cao xuống thấp. Với dạng kịch bản này, chúng ta đã ấn định trước một mức giá cho người được hỏi lựa chọn lựa chọn.

Kịch bản mở: Trong kịch bản này không ấn định mức giá trước mà thay vào đó, người được hỏi sẽ đưa ra mức giá bao nhiêu tiền.



Bước 2: Xác định giá

Bước này cần dùng một số kỹ thuật điều tra như: phỏng vấn mặt đối mặt, phỏng vấn qua điện thoại hoặc qua mail. Phóng vấn qua điện thoại ít được ưa thích nhất do khó có thể truyền tải thông tin về hàng hoá qua điện thoại, một phần là do quãng thời gian tham gia phỏng vấn bị hạn chế. Điều tra qua thư cũng thường được sử dụng, tuy nhiên chứa đựng rủi ro không được trả lời hay tỷ lệ trả lời thấp. Phỏng vấn mặt đối mặt với người phỏng vấn được đào tạo bài bản sẽ thu được câu hỏi và câu trả lời tốt nhất.

Mục đích của điều tra là xác định mức sẵn lòng chi trả lớn nhất để cải thiện môi trường (hoặc mức chi trả lớn nhất để ngăn chặn sự suy giảm chất lượng môi trường), ngoài ra là các thông tin về các yếu tố khác ảnh hưởng đến kết quả điều tra như học vấn, thu nhập...

Các câu hỏi có tính liên tục như “Bạn có nghĩ rằng các dịch vụ môi trường sẽ cải thiện chất lượng môi trường cho cộng đồng bạn không?” cũng cần được đưa ra nhằm để hiểu được động lực nào phía sau mỗi người được hỏi. Điều này giúp loại bỏ các câu trả lời “phản đối” (protest bids) hoặc không hợp lý.



Bước 3: Phân tích các dữ liệu

Các thông tin thu thập được sử dụng trong nhiều cách khác nhau cho nhiều mục đích khác nhau. Các đầu ra có thể thu được từ mỗi nghiên cứu CVM là:



WTP hay WTA trung bình

Giá (WTP hay WTA) thu thập được cho phép tính giá trung bình. Giá trung bình này được sử dụng để đánh giá nhanh giá trị của tài nguyên đối với một bộ phận dân cư.

Giá “phản đối” (protest bids) thường được loại khỏi quá trình tính toán. Thay vì cho giá trị của nguồn tài nguyên bằng không thì giá phản đối được đặt bằng không. Ví dụ, một người được hỏi từ chối bất kỳ khoản đền bù nào để mất đi một nguồn tài nguyên nhất định vì họ cho rằng chính phủ phải có trách nhiệm bảo tồn nguồn tài nguyên đó, hoặc đơn giản là anh ta không muốn tham gia vào cuộc phỏng vấn. Như vậy yêu cầu đặt ra là phải nhận dạng và xử lý các số liệu ra khỏi quá trình tính toán.

Giá trung bình sẽ dễ dàng được tính toán hơn nếu sử dụng phương pháp điều tra “kịch bản đóng”, còn nếu sử dụng “kịch bản mở”, ví dụ như câu trả lời Có/Không, thì cần phải sử dụng các kỹ thuật toán học để tính toán xác suất câu trả lời với mỗi một khoản tiền được đưa ra.



Đường giá

Đường giá được xây dựng bằng cách sử dụng hồi quy toán học. Lượng tiền WTP/WTA được coi là biến phụ thuộc, và thông tin về các biến số như thu nhập (I), tuổi (A), trình độ giáo dục (E) được thu thập trong quá trình điều tra được sử dụng như các biến giải thích.

Hàm hồi quy : WTPi = f (Ii, Ei, Ai) trong đó i: người được hỏi thứ i

Đường giá cho phép dự đoán được lượng tiền sẵn lòng chi trả khi có sự thay đổi của các biến độc lập. Ví dụ, “Mức lương cao hơn ảnh hưởng gì đến mức sẵn lòng chi trả cho cung cấp dịch vụ liên quan đến nước?”



Số liệu tổng hợp

Tổng hợp là quá trình chuyển giá trung bình thành giá của một bộ phận dân cư. Quá trình tổng hợp giải quyết xung quanh 3 vấn đề:



  • Một là lựa chọn số dân phù hợp. Nhóm dân cư được hỏi có thể là dân cư địa phương, dân cư một vùng hay dân cư của một nước.

  • Hai là vấn đề chuyển từ giá trị trung bình mẫu sang giá trị trung bình cho dân cư tổng thể. Nếu trung bình mẫu thực sự đại diện cho tổng dân cư thì nhân giá trị đó với số hộ gia đình sẽ ra giá trung bình tổng thể.

  • Thứ ba là chọn một khoảng thời gian nhất định để tổng hợp lợi ích. Việc lựa chọn này phụ thuộc vào bối cảnh áp dụng CVM. Giá trị của dòng lợi ích môi trường qua thời gian thường được chiết khấu về thời điểm hiện tại.

Bước 4: Đánh giá việc áp dụng CVM

Bước này đòi hỏi phải đánh giá việc áp dụng CVM thành công như thế nào. Kết quả điều tra có cho tỷ lệ giá “phản đối” cao không? Có chứng cứ chứng minh người được hỏi hiểu được thị trường giả định không? Người được hỏi hiểu được bao nhiêu về hàng hoá môi trường được nói đến? Giả thiết rằng người được hỏi thể hiện sự sẵn lòng chi trả để bảo tồn loài gấu trúc ở Trung Quốc, thì điều này thiếu tính tin cậy nếu người được hỏi không biết rõ về loài động vật này.

Chất lượng một nghiên cứu CVM phụ thuộc vào chất lượng của cả quá trình tiến hành. Ví dụ như sự chuẩn bị hay tiến hành điều tra. Bảng hỏi là một phần quan trọng trong đánh giá ngẫu nhiên, bởi vì hầu hết các kết luận của nghiên cứu đều dựa trên thông tin lấy được từ những người trả lời bảng phỏng vấn. Chính vì vậy, khi thực hiện bảng hỏi phải tuân theo nhiều yêu cầu ngặt nghèo như làm tuần tự từng bước một (peer review), kiểm tra chéo giữa những người thực hiện (cross checking), điều tra thử (pretest), lấy phản hồi (feedback), từ đó rút kinh nghiệm, chỉnh sửa và đưa ra bảng hỏi chuẩn. Nhưng trước đó, một việc rất quan trọng phải đặt ra là, mục tiêu của điều tra là gì? Xác định được rõ ràng điều này, câu hỏi của chúng ta sẽ tập trung bám sát những ý đã đặt ra, không bị phân tán, nông cạn. Sau khi thu thập xong tất cả thông tin, ta tính trung bình và trung vị của WTP/WTA. Những mức giá nào cao hoặc thấp đột biến có thể bỏ đi được. Còn với những biến số kinh tế xã hội của người trả lời, ta hồi quy với giá sẵn lòng chi trả để xem biến nào ảnh hưởng đến mức giá đó nhất. Sau đó ta có thể lấy mức giá trung bình nhân với tổng dân số ra tổng giá trị kinh tế của khu vực cần đánh giá.
Ưu điểm


  • Nổi trội so với các phương pháp đo lường trực tiếp khác (chi phí thiệt hại, liều lượng - đáp ứng…), CVM đánh giá được cả những giá trị tồn tại (existence value) và giá trị lựa chọn (option value), vì vậy nó được các nhà kinh tế học tương đối ưa thích. CVM không đòi hỏi phải chia vùng hay phân nhóm như TCM (phương pháp chi phí du lịch cũng thiết lập bảng hỏi như CVM) mà nó dựa trên những đánh giá hoàn toàn ngẫu nhiên, của một nhóm đối tượng cũng không mặc định.

  • Người trả lời có thể không đến khu vực cần đánh giá, nhưng họ vẫn có thể đánh giá về chúng theo cảm nhận của mình (khác với TCM đòi hỏi đối tượng phải là khách du lịch đến địa điểm tham quan).

  • Về nguyên tắc, không giống phương pháp gián tiếp, các câu trả lời đối với phương pháp CVM liên quan đến WTP và WTA, nó trực tiếp đo lường các giá trị bằng tiền. Vì vậy, các giá trị này khá chính xác về mặt lý thuyết.


Hạn chế

Thực hiện CVM tưởng chừng không khó, nhưng hai vấn đề lớn sau đây rất dễ mắc phải, gây cản trở cho việc làm một nghiên cứu thành công, đó là:



  • Thứ nhất, về phía người trả lời: khi thực hiện mua bán một món hàng trên thị trường (1kg gạo, 1 thùng mì), người bán sẽ đưa giá thực dựa trên chi phí và lợi nhuận, người mua sẽ trả tiền thật dựa trên nhu cầu và ngân sách. Hàng hoá môi trường vốn đã không hiện hữu trên thị trường, nay lại được đặt trong một tình huống giả định, do người nghiên cứu nghĩ ra, buộc người đọc phải suy nghĩ và tưởng tượng. Có hai trường hợp xảy ra là: Họ không tưởng tưởng hết được những gì sẽ xảy ra trên thị trường thật hoặc họ hiểu được vấn đề và có ý định trả lời sai lệch. Trường hợp đầu, người trả lời không thực hiện những chuyển giao thực nên họ cũng không biết rõ nên đặt giá thế nào cho đúng, họ đưa ra bừa một mức giá mà vì thế, nếu đặt trong hoàn cảnh chuẩn, chưa chắc họ đã có những hành vi tương ứng. Người trả lời chưa chắc đã đủ kiến thức về khoa học tự nhiên và xã hội để hiểu các mức độ tác động của môi trường. Thêm nữa, họ cũng không có ý định phải suy nghĩ quá nhiều cho câu trả lời bởi nó cũng chẳng mang lại hiệu quả trực tiếp nào cho họ. Trong trường hợp sau, người trả lời có một suy nghĩ rằng, nếu họ trả lời đúng như mình nghĩ, mức giá đó có thể sẽ được áp dụng rộng rãi, vì vậy có thể vì động lực cá nhân nào đó, họ trả lời mức cao hoặc thấp hơn, không đúng với đánh giá thực của mình. Nhìn chung, CVM mang nhiều tính giả thuyết.

  • Thứ hai, về phía người hỏi: Từ những khâu như thiết kế bảng hỏi, chọn phương pháp chi trả, đặt kịch bản giả định, chọn kích thước mẫu đến cách tiếp cận người trả lời đều có thể gây ra sai số. Nếu đánh giá quy mô nhỏ, người nghiên cứu có thể tự đi lấy thông tin – tuy nhiên trường hợp này là hiếm vì thường hàng hoá môi trường có quy mô khá lớn và liên quan nhiều người. Khi đó, ta phải đào tạo người điều tra, điều tra thử, chỉnh sửa bảng hỏi, lưu trữ khối lượng văn bản lớn… những việc này đều tiêu tốn khá nhiều nguồn lực. Nhiều khi xong hết khâu thu thập dữ liệu, tính ra được WTP trung bình, tổng WTP, nhưng tổng này lại không phù hợp với thực tế thì ta lại phải xem lại mẫu đã chọn ban đầu.

2.3.2Phương pháp mô hình chọn lựa (Choice Modelling Method)


Mô hình lựa chọn (Choice Modelling - CM) bắt nguồn trong phân tích kết hợp và ban đầu được đưa ra trong tài liệu về giao thông và makerting của Louviere và Hensher (1982, Louviere và Woodworth (1983). Dần dần, mô hình này được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như nghiên cứu về sức khoẻ hay gần đây được sử dụng để lượng giá môi trường.

Khái niệm

CM là một phương pháp lượng giá sự ưa thích được thể hiện (stated preference), phương pháp này bắt nguồn từ phân tích kết hợp. Trong phương pháp CM, người được hỏi sẽ đứng trước nhiều tập hợp lựa chọn, mỗi tập hợp lựa chọn gồm có từ ba phương án sử dụng hàng hóa khác nhau trở nên, mỗi phương án lại là một sự kết hợp nhiều thuộc tính của hàng hóa và mỗi thuộc tính lại có một giá trị được gọi là một mức độ. Từ mỗi tập hợp lựa chọn, người được hỏi sẽ chọn ra phương án mà họ ưa thích. Thường có khoảng 5 đến 8 tập hợp lựa chọn trong một bảng hỏi.



Mục đích

Cũng giống như CVM, CM được sử dụng để đo lường cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng. Hiện nay, phương pháp CM được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của kinh tế tài nguyên và môi trường như lượng giá loài thực vật bản xứ tàn dư, mô hình hoá nhu cầu giải trí đối với môn thể thao mạo hiểm (leo núi đá), lượng giá phương án bảo tồn rừng mưa nhiệt đới, dự đoán mức phí đối với các địa điểm giải trí công cộng, lượng giá các tượng đài, di sản văn hoá…



Mô tả

Phương pháp CM được dựa trên cả thuyết lợi ích ngẫu nhiên (Thurstone 1927, McFadden 1973, Manski 1977) và thuyết đặc tính của giá trị (Lancaster, 1966). Hai lý thuyết này cho phép lượng giá các hàng hoá môi trường dưới dạng các thuộc tính của chúng thông qua việc áp dụng mô hình lựa chọn xác suất để chọn ra cách kết hợp các thuộc tính đó. Bằng cách đặt cho mỗi thuộc tính một mức giá hoặc mức chi phí thì các ước lượng về lợi ích biên sẽ được chuyển thành các ước lượng về tiền tệ đối với mỗi sự thay đổi các mức độ của thuộc tính.

Trong khung lý thuyết của lợi ích ngẫu nhiên, lợi ích gián tiếp của mỗi cá nhân được biễu diễn dưới dạng sau:

Uij = Vij + åij (1)

Uij: lợi ích của cá nhân i khi lựa chọn phương án j

Vij: yếu tố quyết định (biến quan sát hoặc giải thích) lợi ích của cá nhân i khi lựa chọn phương án j

åij : yếu tố ngẫu nhiên (không giải thích) là những ảnh hưởng lên lựa chọn của cá nhân mà không quan sát thấy được.

Do ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên nên rất khó đoán được sự ưa thích của các cá nhân. Các yếu tố ngẫu nhiên này cho phép chúng ta mô hình hoá các lựa chọn dưới dạng xác suất. Khi đó, xác suất mà cá nhân i thích phương án j trong tập hợp phương án hơn so với các n phương án khác được hiểu là xác suất của lợi ích có được từ phương án j lớn hơn xác suất của lợi ích từ các phương án khác. Điều này được thể hiện như sau:

P (i | C) = P[Vij + åij) > (Vin + åin), mọi n Є C] (2)

Trong đó C: tập hợp các phương án

Trong phương pháp CM, thiết kế công cụ điều tra là một bước rất quan trọng. Theo Louviere và các đồng sự (2000), một ứng dụng mô hình lựa chọn điển hình được xác định là có 5 yếu tố:

1, xác định các thuộc tính hàng hoá

2, đặt ra các mức độ của thuộc tính

3, xây dựng kịch bản

4, xác định tập hợp các phương án và thu thập dữ liệu về sự ưa thích

5, tính toán các chỉ số của mô hình

Bennett (1999) lại mô tả thiết kế điều tra gồm các bước sau:

i) thiết lập vấn đề

ii) xác định thiết kế nghiên cứu

iii) xác định các thuộc tính hàng hoá

iv) xác định mức độ các thuộc tính

v) thiết kế bảng hỏi

vi) biên soạn các thiết kế theo kinh nghiệm

vii) phỏng vấn người dân

viii) phân tích dữ liệu

ix) phân tích kết quả

Tuy nhiên thích hợp nhất là áp dụng phương pháp CM theo 3 bước chính, gồm (1) các vấn đề về chính sách, (2) các vấn đề về khung lý thuyết và (3) các vấn đề về thống kê.

(1) Các vấn đề về chính sách tập trung vào việc xác định các vấn đề quan trọng và hoặc các đề xuất về phát triển. Điều quan trọng là phải xây dựng kịch bản như thế nào, phải cân nhắc các vấn đề chính sách đang được quan tâm nhất và trình độ hiểu biết của nhóm người được hỏi. Tiếp đến là phải lựa chọn phương án ban đầu và các phương án thay thế, sử dụng dạng sẵn lòng chi trả (WTP) hay sẵn lòng chấp nhận (WTA) và xác định các nhóm được điều tra.

(2) Bước thứ hai liên quan đến khung lý thuyết tập trung vào việc đưa ra sự đánh đổi như thế nào đến người được hỏi, đó là thông tin đưa ra, cấu trúc, thành phần và các phương án trình bày.

- Các thông tin đưa ra để phỏng vấn người dân rất quan trọng, vì nó xác định vấn đề đang được nói đến

- Các lựa chọn về cấu trúc bao gồm quyết định về số lượng phương án trong mỗi tập hợp các phương án.

- Lựa chọn về thành phần bao gồm các thuộc tính hàng hoá và mức độ thuộc tính, đặc biệt là lựa chọn phương tiện chi trả.

- Cuối cùng trong bước này là thiết kế bảng hỏi, vấn đề truyền đạt thông tin

(3) Bước thống kê tập trung vào các cấu trúc phương án cần được mô hình hoá, xem xét liệu các mô hình có tương tự nhau, các thuộc tính có ảnh hưởng lẫn nhau. Vì mặc dù các bước đi theo tuần tự như trên nhưng nếu có một số thuộc tính phụ thuộc vào nhau sẽ làm cho quá trình thiết kế bị lặp. Để tránh những lỗi này thường sử dụng một nhóm tập trung để kiểm tra trước.



Ưu điểm

Phương pháp này cho phép chúng ta lựa chọn nhiều phương án thông qua các thuộc tính và kịch bản có thể lặp lại thay vì phải có sự đánh đổi như trong CVM.



    • Cho phép chúng ta kiểm định theo khung logic do vậy những người trả lời sẽ bộc lộ một cách khá chính xác sở thích của họ. Từ đó giảm đáng kể tính không nhạy cảm về quy mô mà trong phương pháp CVM chúng ta gặp phải

    • Phương pháp này đi vào những vấn đề cụ thể thay vì những vấn đề có tính trừu tượng có trong phương pháp CVM, cung cấp nhiều thông tin và tăng tính thực tế.

    • Tạo ra một sức hấp dẫn đối với người trả lời.

Hạn chế

  • Khi sử dụng phương pháp này dễ rơi vào tình trạng người trả lời sẽ dựa vào kinh nghiệm chứ không phân tích lôgic.

  • Thiết kế các phương án để đưa vào mô hình lựa chọn đòi hỏi những người có chuyên môn cao và nhiều kinh nghiệm thực tiễn.


2.3.3Phương pháp chuyển giao lợi ích (Benefits Transfer)


Khái niệm

Phương pháp chuyển giao lợi ích là phương pháp được dùng để ước tính các giá trị kinh tế cho những dịch vụ của hệ sinh thái bằng cách chuyển những thông tin sẵn có từ những nghiên cứu đã hoàn thành ở một vị trí khác hay hoàn cảnh khác. Chẳng hạn, giá trị câu cá giải trí ở một điểm cụ thể có thể được ước tính bằng cách sử dụng các đơn vị giá trị câu cá giải trí từ một nghiên cứu được tiến hành ở nơi khác.



Mục đích

Mục đích cơ bản của phương pháp này là chuyển những ước tính hiện hành của giá trị môi trường từ nơi này sang nơi khác (cụ thể ở đây là từ nơi nghiên cứu sang nơi hoạch định chính sách). Phương pháp này được sử dụng khi không đủ thời gian, nguồn vốn hoặc thiếu thông tin, không thể thực hiện các cách đánh giá lợi ích khác bằng dữ liệu sơ cấp.



Mô tả

Bước 1: Xác định giá trị ước tính ở nơi hoạch định chính sách

Đòi hỏi xác định hàng hoá hay dịch vụ đặc trưng bị ảnh hưởng bởi chính sách muốn phân tích, hay là thiệt hại môi trường nhìn thấy được.

Loại đất nào sẽ mất đi? Môi trường sống nào sẽ bị tổn hại? Ai bị ảnh hưởng? Các hoạt động giải trí đặc trưng sẽ bị suy giảm đi?

Bước 2: Nghiên cứu tài liệu để nhận dạng các dữ liệu đánh giá có liên quan

Ở bước 2 này cần tiến hành xem xét lại tài liệu để nhận dạng các dữ liệu đánh giá liên quan đến những hàng hoá và dịch vụ đặc trưng đã được nhận dạng ở bước 1. Chẳng hạn như, nếu môi trường sống đất ngập nước bị tổn hại thì cần phải nhận ra những nghiên cứu đánh giá WTP của cá nhân để tránh gây tổn hại tới khu vực đất ngập nước.



Bước 3: Đánh giá sự phù hợp của các giá trị ở nơi nghiên cứu để chuyển tới nơi hoạch định chính sách.

Bước 3 liên quan đến việc đánh giá sự phù hợp của nơi nghiên cứu cho việc chuyển tới nơi hoạch định chính sách. Việc này đòi hỏi phải xem xét một số tiêu chuẩn. Sự phù hợp của dữ liệu đánh giá ban đầu đối với vấn đề đề cập tới phụ thuộc chủ yếu vào nét tương đồng của nơi nghiên cứu với nơi hoạch định chính sách về những mặt sau:



  • Độ lớn của những biến đổi môi trường;

  • Hàng hoá và dịch vụ môi trường trong vấn đề nói đến;

  • Những đặc điểm kinh tế xã hội và văn hoá của người dân bị tác động;

  • Khả năng sẵn có của các vật thay thế (khả năng thay thế)

  • Chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản (điều này sẽ quyết định WTP hay WTA là thước đo phúc lợi thích hợp để dùng hay không)

Bước 4: Đánh giá chất lượng dữ liệu của nơi nghiên cứu

Sau khi xác định sự phù hợp của các giá trị của nơi nghiên cứu cho việc chuyển giao tới nơi thực hiện, bước 4 liên quan đến việc đánh giá chất lượng như tính khoa học và đầy đủ của thông tin của những ước tính ở nơi nghiên cứu.



Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng

Tính khoa học

  • Những ước tính chuyển giao chỉ có thể đúng như phương pháp và giả định trong nghiên cứu gốc

Tiêu chuẩn đặc trưng:

  • Các thủ tục thu thập dữ liệu

  • Thực hiện theo kinh nghiệm một cách đúng đắn

  • Tính chắc chắn với học thuyết khoa học và kinh tế

  • Các phương pháp thống kê thích hợp và chính xác.

Sự phù hợp

  • Những nghiên cứu gốc phải tương tự và thích hợp với hoàn cảnh mới

Tiêu chuẩn đặc trưng:

  • Độ lớn của các tác động cần tương tự

  • Mức độ thay đổi chất lượng môi trường phải so sánh được

  • Hàng hoá và dịch vụ bị tác động phải tương đồng

  • Những nơi bị tác động cũng phải giống nhau

  • Thời gian các tác động tồn tại cũng phải giống nhau

  • Đặc điểm kinh tế xã hội của những người bị tác động phải giống nhau

  • Quyền tài sản với những người tham gia giống nhau trong cả hai hoàn cảnh.

Thông tin đầy đủ

  • Những nghiên cứu hiện hành cần cung cấp bộ dữ liệu đầy đủ và bổ sung thêm thông tin

Tiêu chuẩn đặc trưng:

  • Bao gồm đầy đủ chi tiết các công thức tính toán gốc, những định nghĩa chính xác và các đơn vị tính toán đo lường tất cả các biến cũng như giá trị trung bình của chúng

  • Giải thích các vật thay thế được xem xét như thế nào

  • Dữ liệu về tỷ lệ tham gia và quy mô tập hợp

  • Cung cấp độ lệch tiêu chuẩn và các đơn vị đo lường thống kê khác của sự phân bố

Nguồn: Desouvsges, Johnson và Banzhaf (1998)

Bước 5: Lựa chọn và tổng hợp dữ liệu có sẵn từ nơi nghiên cứu

Bước này là để lựa chọn và tổng hợp dữ liệu từ những nghiên cứu đánh giá hiện hành để chuyển giao. Thường chỉ một nghiên cứu đánh giá riêng phù hợp, mà trong trường hợp đó lựa chọn một thước đo lợi ích tốt nhất để chuyển gặp phải một số vấn đề. Tuy nhiên trong trường hợp có nhiều nghiên cứu thích hợp thì quá trình lựa chọn trở nên khó khăn hơn.

Nhằm thu được những thông tin có sẵn, các cách tiếp cận chuyển giao khác được triển khai để sử dụng dữ liệu từ những nghiên cứu phức tạp


  • Có thể khai triển một dãy tham số và những ước tính lợi ích từ những nghiên cứu sẵn có. Chẳng hạn, nhận dạng một ước tính nhỏ và lớn để xác định giới hạn dưới và giới hạn trên.

  • Có thể chọn dữ liệu từ tài liệu hiện hành và hình thành các thống kê mô tả đơn giản của các tham số mẫu và những ước tính lợi ích như trung bình, độ lệch chuẩn và chuyển những dữ liệu này tới điểm hoạch định.

  • Để thu được thông tin sẵn có từ những nghiên cứu phức tạp, có thể tiến hành vài dạng phân tích biến đổi để hình thành một mô hình chuyển giao lợi ích mới.

Bước 6: Chuyển các đơn vị lợi ích từ nơi nghiên cứu tới nơi hoạch định chính sách

Liên quan đến việc chuyển giao các đơn vị lợi ích từ nơi nghiên cứu tới nơi hoạch định chính sách. Hầu hết các phương pháp chuyển giao được dùng cho đến nay bao gồm cách tiếp cận giá trị lợi ích hoặc hàm lợi ích.



Cách tiếp cận giá trị lợi ích

Trong ứng dụng cơ bản nhất của phương pháp giá trị lợi ích, ước tính có giá trị vô hướng (WTP trung bình hay trung vị/đơn vị bị tác động) thể hiện kết quả của nghiên cứu hiện hành, hoặc việc lựa chọn những nghiên cứu hiện hành mà được tiến hành ở một nơi cụ thể.

Chẳng hạn, thặng dư tiêu dùng trung bình của một chuyến đi câu có thể được rút ra từ một nghiên cứu chi phí du lịch. Giá trị đơn vị này sau đó có thể được dùng để đánh giá một thay đổi trong chất lượng hay trong việc cung cấp thêm các cơ hội câu cá giải trí ở những vị trí khác. Đặc biệt, tổng chi phí/lợi ích của một sự thay đổi trong các cơ hội câu cá giải trí ở địa điểm cần hoạch định tương đương với thay đổi dự đoán trong số chuyến đi câu được tạo ra cho địa điểm tăng thêm bởi thặng dư tiêu dùng trung bình/chuyến đi câu.

Để nâng cao chất lượng chuyển giao giá trị lợi ích có thể phải điều chỉnh những ước tính định giá vô hướng. Những điều chỉnh này thường mang tính chất đặc thù và thường phản ánh ý kiến chủ quan của người phân tích. Đánh giá có thể được điều chỉnh tính đến những khác biệt về:

- Đặc điểm kinh tế xã hội của những người có liên quan

- Đặc điểm tự nhiên của địa điểm nghiên cứu và hoạch định

- Thay đổi được đề xuất trong việc cung cấp hàng hoá được đánh giá giữa các nơi

- Những điều kiện thị trường áp dụng cho các nơi (thay đổi về khả năng sẵn có của những vật thay thế).

Một dạng được sử dụng rộng rãi để chuyển giao là:

WTPj = WTPi(Yj/Yi)e

Trong đó: Y: thu nhập theo đầu người

e: Độ co giãn của WTP theo thu nhập

i: một ước lượng WTP cho thuộc tính môi trường được nói đến thay đổi như thế nào đối với những thay đổi trong thu nhập.

Độ co giãn của WTP theo thu nhập < 1 (trường hợp đặc biệt vì thông thường lấy giá trị 1) sẽ đánh giá thấp WTPj khi chuyển giao định giá từ một nước phát triển tới một nước đang phát triển.

Trọng số điều chỉnh nói chung được sử dụng là thu nhập. Nhưng phải thực hiện một điều chỉnh tương tự cho những thay đổi trong các đặc điểm khác (ví dụ dân cư).

Cách tiếp cận hàm lợi ích

Với cách tiếp cận này, mối quan hệ giữa WTP và những đặc điểm của người bị tác động và nguồn tài nguyên được đánh giá là về mặt lý thuyết.

Hàm tổng thể sau đó được chuyển giao tới nơi hoạch định và điều chỉnh sao cho càng phù hợp hơn đối với các đặc điểm dân cư và tài nguyên tại nơi đó. Hàm đánh giá đã điều chỉnh được dùng để đánh giá những thay đổi về chất lượng hay việc cung cấp tài nguyên đã nói đến - dữ liệu từ nơi hoạch định được thay thế cho vế bên phải các biến số trong hàm đánh giá. Chẳng hạn, mô hình đường cầu chi phí du lịch cho các chuyến đi câu định giá ở nơi nghiên cứu đầu gốc có thể được dùng kết hợp với các chi phí du lịch bình quân, thu nhập, điều kiện chất lượng nước,… ở nơi hoạch định, nhằm định giá chi phí/ lợi ích câu cá giải trí của việc làm hư hại hay cải thiện chất lượng nước ở nơi đó.

Ví dụ về hàm lợi ích: Bạn muốn thấy được giá trị của việc cải thiện chất lượng nước tại một địa điểm hoạch định chính sách.

- Hàm lợi ích:

WTPi = a + bYi + cQ + dTCi

N: Số khách du lịch

Q: Đơn vị đo lường chất lượng nước

Y: Thu nhập

TC: Chi phí du lịch

- Các bước thực hiện tính toán:

+ Thu thập thông tin về khách du lịch hiện tại ở địa điểm (thu nhập, chi phí du lịch)

+ Ước tính sự thay đổi về số khách du lịch do cải thiện chất lượng từ công thức

+ Tìm hiểu thông tin về khách du lịch bổ sung

+ Ước tính WTP mới cho tất cả các khách du lịch

Bước 7: Xác định thị trường thông qua tập hợp những ước tính lợi ích

Xác định thị trường mà qua đó các tác động ở nơi hoạch định chính sách được kết hợp với nhau để tính tổng chi phí/lợi ích. Ba vấn đề phụ thuộc lẫn nhau cần phải được xem xét trong khi kết hợp:

1. Khu vực địa lý của thị trường bị ảnh hưởng. Có thể xác định bằng ranh giới địa lý (con sông dẫn nước) hay hành chính (tỉnh), hoặc dựa vào quy mô của những tác động tự nhiên dự đoán (khu vực chịu rủi ro lũ và xói mòn bờ biển gia tăng).

Một khả năng khác là để xác định ranh giới địa lý của phân tích chi phí như điểm mà WTP của cá nhân về hàng hoá/dịch vụ giảm về 0. Một vài bằng chứng được đưa ra là mối quan hệ ngược chiều giữa WTP cho các dịch vụ được cung cấp bởi một nguồn tài nguyên và khoảng cách tới tài nguyên đó.

2. Liên quan đến ranh giới địa lý chuyển giao là số đơn vị bị tác động như hộ gia đình, nhà cửa, sự đa dạng của các sản phẩm nông nghiệp… trong phạm vi thị trường về mặt địa lý. Trong một vài trường hợp việc xác định người dân bị tác động sẽ rõ ràng chẳng hạn tất cả những ngôi nhà trong vùng ngập lụt hay tất cả các hộ gia đình nhận được nước dùng từ một công ty cung cấp nước cụ thể. Tuy nhiên, một số trường hợp khác có thể cần phải xác định tỷ lệ tham gia chắc chắn của các nhóm thay thế bị tác động ví dụ như số ngày mong đợi cho một địa điểm giải trí/năm.

3. Trong việc xác định tổng chi phí/lợi ích của một chính sách hay một thay đổi trong chất lượng của khu vực cũng quan trọng khi mà tính đến các hàng hoá hay dịch vụ thay thế. Với những cái khác là tương đương, một hàng hoá hay dịch vụ sẽ có một giá trị cao hơn nếu có ít lựa chọn thay thế hơn.



Ưu điểm

  • Phương pháp này tốn ít chi phí hơn so với nghiên cứu đánh giá đầu tiên.

  • Lợi ích kinh tế có thể được ước tính nhanh hơn khi tiến hành một nghiên cứu gốc.

  • Phương pháp có thể được dùng như là một công cụ sàng lọc để xác định nếu cần phải tiến hành một nghiên cứu đánh giá gốc chi tiết hơn.

  • Phương pháp này có thể áp dụng một cách dễ dàng và nhanh chóng khi ước tính tổng giá trị giải trí.

Hạn chế

  • Phương pháp chuyển giao lợi ích có thể không chính xác khi ước tính tổng giá trị giải trí trừ khi các địa điểm có chung vị trí, những đặc điểm đặc trưng của những người sử dụng.

  • Việc tìm được những nghiên cứu phù hợp cũng gặp phải khó khăn do chúng không được công bố.

  • Việc báo cáo những nghiên cứu hiện hành có thể không đầy đủ để thực hiện những điều chỉnh cần thiết. Thiếu sót của những nghiên cứu hiện hành có thể gây khó khăn cho việc đánh giá. Hơn nữa, phép ngoại suy ngoài phạm vi những đặc điểm của nghiên cứu ban đầu không được đưa ra.

  • Chuyển giao lợi ích chỉ có thể chính xác như ước tính giá trị ban đầu.

Về sau, Mc Connell (1992) xác định 5 nguồn gây sai số:

  • Lựa chọn dạng hàm sai cho hàm giá trị

  • Bỏ sót các biến giải thích quan trọng từ hàm giá trị

  • Tính toán không đúng các biến độc lập (thu nhập, sự thay đổi chất lượng nước)

  • Tính toán không đúng biến phụ thuộc

  • Quy trình ngẫu nhiên - tạo dữ liệu không đúng (chẳng hạn bỏ bớt số chuyến đi trong mô hình TC)

Mc Connell cũng chỉ ra những nguồn gây sai số chủ yếu trong việc tính toán tổng WTP/WTA ở điểm thực hiện chính sách, bao gồm:

  • Trình bày không đúng các thành phần ngẫu nhiên của hàm giá trị

  • Việc tập hợp các sai số trong tính toán các giá trị trung bình nhóm cái mà đòi hỏi các biến độc lập

  • Những sai số trong tính toán số người thông qua tập hợp những ước tính WTP/WTA của cá nhân và trong quy mô thị trường các dịch vụ môi trường bị tác động ở điểm hoạch định chính sách.

KẾT LUẬN

Có thể nói các phương pháp lượng giá các giá trị kinh tế của tài nguyên và môi trường khá đa dạng và ngày càng được hoàn thiện. Trong đó, cách tiếp cận tổng giá trị kinh tế có thể được coi là mẫu số chung của các cách tiếp cận khác vì nó cung cấp cơ sở dữ liệu nền phục vụ cho các tính toán thiệt hại. Tất nhiên, các phương pháp lượng giá đều được xây dựng trên cơ sở lý thuyết chung của kinh tế học phúc lợi, trong đó giá trị của sự thay đổi được ước lượng thông qua mức sẵn sàng chi trả của cá nhân. Các phương pháp cũng biến thiên từ đơn giản như sử dụng giá thị trường tới các phương pháp phức tạp như mô hình lựa chọn, đánh giá cư trú tương đương trong đó phải xây dựng các kịch bản ảo, các thị trường giả định phục vụ cho việc ước lượng. Phần trình bày trên cũng cho thấy mỗi phương pháp đều có một ưu nhược điểm và qui trình áp dụng riêng. Tuy nhiên để tăng thêm độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu thì việc lưu trữ và cập nhật thường xuyên các dữ liệu nền là rất cần thiết, ngoài ra, cũng phải có những điều chỉnh về mức giá sử dụng khi lựa chọn sự phân tích trên quan điểm cá nhân hay xã hội khi nhìn nhận giá trị của tài nguyên-môi trường.



Каталог: bitstream -> 1247
1247 -> TÊN ĐƯỜng phố VÀ LÀng xã HÀ NỘi qua những lần thay đỔI Đinh Tiên Hoàng
1247 -> ĐỊa giới hà NỘi thời pháp xâm lưỢC, TẠm chiếM
1247 -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi số: 1384 /Đhqghn-khtc cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
1247 -> Số 61/2005/QĐ-ttg
1247 -> Year: 2007 Lecturer: Assoc. Prof. Dr. Tu Quang Phuong Research purposes
1247 -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
1247 -> Bảo vệ năm: 2008 Giáo viên hướng dẫn
1247 -> Phong tục trong bữa cơm của ngưỜi hà NỘI
1247 -> Tên đề tài Thực trạng áp dụng 5S tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương