MỤc lục chưƠng 1: CƠ SỞ LÝ luậN 11


CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT CÁC PHƯƠNG PHÁP LƯỢNG GIÁ THIỆT HẠI KINH TẾ DO TÁC ĐỘNG TRÀN DẦU Ở VIỆT NAM



tải về 1.63 Mb.
trang14/20
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.63 Mb.
#16415
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20

4.CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT CÁC PHƯƠNG PHÁP LƯỢNG GIÁ THIỆT HẠI KINH TẾ DO TÁC ĐỘNG TRÀN DẦU Ở VIỆT NAM


Từ các cơ sở lý thuyết về lượng giá giá trị môi trường và từ nghiên cứu thực tế tại khu vực Cửa Đại và Cù Lao Chàm, nhóm nghiên cứu đề xuất các phương pháp lượng giá nhanh thiệt hại kinh tế do tác động tràn dầu ở Việt Nam như sau.

4.1LƯỢNG GIÁ NHANH THIỆT HẠI GIÁ TRỊ SỬ DỤNG TRỰC TIẾP

4.1.1Xác định các giá trị sử dụng trực tiếp bị thiệt hại do sự cố dầu tràn


Đối với khu vực biển và ven bờ Việt Nam, các giá trị trực tiếp bị ảnh hưởng có thể bao gồm:

- Giảm sản lượng đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản (cá, tôm, cua, mực, ngao, sò, vẹm, rong, tảo, cỏ biển, chim biển...) và nghề muối;

- Giảm doanh thu du lịch do bãi tắm và cảnh quan môi trường bị ảnh hưởng;

- Ảnh hưởng sức khỏe do ăn muối, rong, tảo, cỏ biển, chim cá... bị bám dầu có chứa các chất độc hại; ảnh hưởng sức khoẻ do ô nhiễm dầu trong nguồn nước, không khí.

Để lượng giá nhanh thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp của môi trường và hệ sinh thái biển do sự cố dầu tràn, trước hết, người nghiên cứu cần thực hiện khảo sát thực địa nhằm xác định cụ thể các loại giá trị sử dụng trực tiếp bị ảnh hưởng.

4.1.2Đề xuất các phương pháp lượng giá nhanh


Từ các phương pháp luận về lượng giá giá trị sử dụng trực tiếp của môi trường, cũng như từ thực tế nghiên cứu tại trường hợp của tỉnh Quảng Nam, nhóm nghiên cứu đề xuất năm phương pháp có thể áp dụng tại Việt Nam để lượng giá nhanh thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp khi có sự cố tràn dầu xảy ra, bao gồm:

- Phương pháp giá thị trường;

- Phương pháp thay đổi năng suất;

- Phương pháp chi phí du lịch;

- Phương pháp chi phí sức khoẻ; và

- Phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia.



1. Phương pháp giá thị trường (Market Price Method)

Phương pháp giá thị trường dùng để ước lượng phần thặng dư xã hội (bao gồm thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng) bị mất đi do suy giảm cung hay cầu về hàng hóa, dịch vụ sau sự cố dầu tràn. Để áp dụng phương pháp này, cần xác định thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng của hàng hóa hay dịch vụ (xem lại Hình 2) trước và sau sự cố tràn dầu.

Để xác định thặng dư tiêu dùng, ta cần xác định hàm cầu. Muốn vậy, cần có một dãy số liệu về lượng cầu ở các mức giá khác nhau theo thời gian, từ đó có thể thực hiện hồi quy (kinh tế lượng) để xác định hàm. Ngoài ra cần phải thu thập dữ liệu về các yếu tố ngoại sinh tác động lên cầu như thu nhập hay các dữ liệu về nhân khẩu học khác.

Thặng dư sản xuất được ước lượng thông qua chi phí sản xuất và doanh thu nhận được từ hàng hoá đáp ứng lượng cầu trên thị trường.



  1. Thiệt hại kinh tế sử dụng phương pháp giá thị trường

Để lượng giá tác động so sự cố tràn dầu ở vùng biển và ven bờ Việt Nam, phương pháp này có nhiều hạn chế, do việc xác định thặng dư tiêu dùng (thông qua hàm cầu) và thặng dư sản xuất (thông qua doanh thu và chi phí sản xuất) đối với từng loại hàng hóa và dịch vụ sinh thái tại một khu vực cụ thể tương đối khó khăn, chủ yếu là do công tác thu thập số liệu (số liệu theo thời gian và số liệu chéo) không đủ đảm bảo.

Hiện nay, Tổng cục Thống kê với sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Ngân hàng Thế giới đã thực hiện được một số cuộc điều tra Mức sống Hộ gia đình (Viet Nam Living Standard Surveys) trong đó có thu thập số liệu về giá cả, lượng cung, lượng cầu về một số loại hàng hóa tại địa phương. Một số tổ chức, cá nhân cũng có các nghiên cứu khảo sát có thể cung cấp số liệu để xác định hàm cung và hàm cầu.

Do đó, trong trường hợp số liệu mang tính sẵn có, phương pháp giá thị trường có thể được áp dụng để lượng giá nhanh thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp do sự cố tràn dầu (bao gồm các giá trị của các loại hàng hoá như tôm, cua, cá, rong, cỏ biển,... và dịch vụ sinh thái như du lịch, bãi tắm...).

Đối với trường hợp nghiên cứu tại Quảng Nam, các số liệu cho phép xác định thặng dư tiêu dùng của các loại hàng hóa, bao gồm mức giá và lượng mua hàng hoá tại các mức giá, không có sẵn do đó phương pháp giá thị trường không được lựa chọn để lượng giá nhanh tác động của tràn dầu.

2. Phương pháp thay đổi năng suất (Productivity Change Method)

Để lượng giá thiệt hại kinh tế đối với các giá trị sử dụng trực tiếp do sự cố tràn dầu, việc sử dụng các phương pháp này đòi hỏi phải có cơ sở dữ liệu về sản lượng, năng suất cây con, tổng giá trị du lịch... ngay trước và sau khi có sự cố tràn dầu xảy ra. Cụ thể, đối với các hàng hoá, sản phẩm từ hệ sinh thái, các dữ liệu đầu vào cần thiết cho phương pháp thay đổi năng suất là:

- Pro: Năng suất lâm, thuỷ, hải sản, thực phẩm, phân bón, thuốc chữa bệnh và năng lượng (ví dụ năng suất nuôi tôm/ha, lúa/ha..) trước khi và sau khi xảy sự cố tràn dầu.

- S: Phạm vi, diện tích của nhóm giá trị lâm, thuỷ, hải sản, thực phẩm, phân bón, thuốc chữa bệnh và năng lượng bị tác động của dầu tràn.

- t: Thời gian tác động của tràn dầu tại khu vực nghiên cứu.

- P: Giá trị thị trường (giá tham khảo) của nhóm giá trị sử dụng trực tiếp.

Thiệt hại kinh tế được xác định là

C = ΔPro x S x t x P

Đối với những địa phương có ghi chép đầy đủ những số liệu trên qua thời gian, việc lượng giá những tổn thất đối với giá trị sử dụng trực tiếp là tương đối dễ dàng.

Tuy nhiên, đối với trường hợp nghiên cứu tại Quảng Nam, hơn nửa thông tin đầu vào kể trên là không thu thập được, do thời điểm khảo sát (tháng 03/2008) khá xa so với thời điểm xảy ra dầu tràn (tháng 01/2007).

3. Phương pháp chi phí du lịch (Travel Cost Method – TCM)

Phương pháp TCM đòi hỏi việc thu thập số lượng lớn số liệu chi phí du lịch và một số yếu tố khác có liên quan (thu nhập, số lần đến thăm…).

Trong số các mô hình chi phí du lịch thì chi phí du lịch theo vùng (ZTCM) và chi phí du lịch theo cá nhân (ITCM) là hai cách tiếp cận phổ biến và đơn giản nhất của phương pháp chi phí du lịch. Ngoài ra còn có cách tiếp cận lợi ích ngẫu nhiên khó thực hiện hơn nên không được khuyến nghị dùng trong trường hợp lượng giá thiệt hại kinh tế do sự cố tràn dầu.

  1. Cách tiếp cận phương pháp chi phí du lịch theo cá nhân (Individual Travel Cost Method – ITCM)

Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa số lần đến điểm du lịch hàng năm của một cá nhân với chi phí du lịch mà cá nhân đó phải bỏ ra.

Vi = f (TCi, Si)

Trong đó: Vi là số lần đến điểm du lịch của cá nhân i trong 1 năm

TCi là chi phí du lịch của cá nhân i

Si là các nhân tố khác có ảnh hưởng đến cầu du lịch của cá nhân, ví dụ như: thu nhập, chi phí thay thế, tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, và trình độ học vấn.

Đơn vị quan sát của ITCM là các cá nhân đến thăm điểm du lịch, giá trị giải trí của mỗi cá nhân là diện tích phía dưới đường cầu của họ. Vì vậy, tổng giá trị giải trí của khu du lịch sẽ được tính bằng cách tổng hợp các đường cầu cá nhân. Thiệt hại đối với giá trị du lịch do sự cố tràn dầu gây ra chính là phần chênh lệch giữa tổng cầu ở thời điểm trước và sau sự cố dầu tràn. Để có được số liệu dùng cho phương pháp này, người nghiên cứu có thể thực hiện phỏng vấn ngẫu nhiên khách du lịch tại bãi tắm/khu du lịch.

Cách tiếp cận ITCM sẽ gặp phải khó khăn khi sự dao động trong số lần đến địa điểm du lịch là quá nhỏ hoặc khi các cá nhân không đến điểm du lịch một vài lần trong năm (Georgiou et al 1997). Do đó, nếu mọi khách du lịch chỉ đến địa điểm du lịch một lần trong năm thì khó có thể chạy hàm hồi quy.

Đối với trường hợp nghiên cứu ở Quảng Nam, nhóm nghiên cứu đã không lựa chọn phương pháp này, do đối tượng khách du lịch quốc tế chiếm một tỉ lệ lớn ở khu vực (khoảng 50%) và phần lớn trong số đó chỉ đến nhiều nhất một lần trong năm (thậm chí chỉ đến duy nhất một lần).


  1. Cách tiếp cận phương pháp chi phí du lịch theo vùng (Zonal Travel Cost Method – ITCM)

Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ tham quan của vùng xuất phát tới vị trí nghiên cứu với tổng chi phí du lịch của vùng xuất phát.

Vi = V(TCi, POPi, Si)

Trong đó: Vi là số lần viếng thăm từ vùng i tới điểm du lịch

POPi là dân số của vùng i

Si là các biến kinh tế xã hội ví dụ như thu nhập trung bình của mỗi vùng.

Thông thường biến phụ thuộc được biểu hiện dưới dạng (Vi/POPi) hay tỉ lệ số lần tham quan trên 1000 dân, ký hiệu là VR.

Áp dụng ZTCM thì diện tích xung quanh điểm du lịch sẽ được chia thành các vùng với khoảng cách khác nhau tới điểm du lịch, vì vậy đơn vị quan sát của ZTCM là các vùng. ZTCM sử dụng tỷ lệ số lần viếng thăm của mỗi vùng tới điểm du lịch (VR) là hàm của chi phí du lịch, bởi vậy số lần một cá nhân đến điểm du lịch không ảnh hưởng đến hàm. Tương tự ITCM, thiệt hại đối với giá trị du lịch do sự cố tràn dầu gây ra chính là phần chênh lệch giữa tổng cầu du lịch của các vùng ở thời điểm trước và sau sự cố dầu tràn.

Phương pháp này có thể được áp dụng đối với các khu du lịch hay bãi tắm có khách đến từ những vùng xác định được cụ thể (thường là các vùng lân cận).

Xem lại các bước thực hiện phương pháp chi phí du lịch trong mục 2.1.2 (Chương 2).

Tuy nhiên, để phương pháp chi phí du lịch có thể áp dụng được, một số giả thiết sau phải được thoả mãn:



  • Chi phí đi lại và giá vé vào cổng có ảnh hưởng như nhau tới hành vi, nghĩa là các cá nhân nhận thức và phản ứng về sự thay đổi trong chi phí đi lại theo cùng một kiểu đối với những thay đổi trong giá vé vào cổng. Điều này có ý nghĩa quan trọng để xác định tổng chi phí một cách chính xác.

  • Từng chuyến đi tới điểm giải trí chỉ nhằm mục đích thăm riêng điểm đó. Nếu giả thiết này bị vi phạm, tức là chi phí đi lại sẽ bị tính chung giữa nhiều nơi tham quan, thì rất khó có thể phân bổ chi phí một cách chính xác giữa các mục đích khác nhau.

  • Toàn bộ các lần viếng thăm đều có thời gian lưu lại giống nhau, có như vậy thì ta mới đánh giá được lợi ích của điểm giải trí thông qua số lần viếng thăm.

  • Không có tiện ích hoặc bất tiện nào khác trong thời gian di chuyển tới điểm giải trí để đảm bảo chi phí đi lại không bị tính vượt quá mức.

ZTCM cũng không được áp dụng đối với trường hợp nghiên cứu ở Quảng Nam, do du lịch ở khu vực Cửa Đại và Cù Lao Chàm có đối tượng khách đến từ nhiều nơi trong nước và trên thế giới, và thường là một sự kết hợp với việc tham quan phố cổ Hội An và các địa điểm du lịch khác của Đà Nẵng và Quảng Nam. Do đó việc xác định đường cầu của khách du lịch gặp nhiều khó khăn và không chính xác.

4. Phương pháp chi phí sức khoẻ (Cost of Illness)

Phương pháp chi phí sức khoẻ thường được sử dụng để lượng giá chi phí của bệnh tật do ô nhiễm môi trường gây ra. Giống với phương pháp thay đổi năng suất, phương pháp này dựa trên hàm thiệt hại cơ bản. Trong phương pháp chi phí sức khoẻ, hàm thiệt hại liên kết giữa mức độ ô nhiễm với mức độ tác động lên sức khoẻ. (xem mục 2.1.3, Chương 2).

Nhìn chung phương pháp chi phí sức khỏe dễ áp dụng để lượng giá các tác động môi trường khi các bệnh thường là ngắn, tách biệt, và không có ảnh hưởng tiêu cực trong dài hạn. Tuy nhiên phương pháp này cũng khó xử lý đối với các bệnh kinh niên khi giai đoạn bệnh kéo dài.

Để áp dụng phương pháp này một cách hiệu quả:



  • Cần phải thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa nguyên nhân - kết quả tác động và nguyên nhân gây bệnh phải dễ dàng xác định.

  • Bệnh không nguy hiểm đến tính mạng và không có ảnh hưởng lâu dài.

  • Phải tính được ước lượng về thu nhập và chi phí y tế. Trường hợp những người thất nghiệp và nông dân thuần túy cần sử dụng “giá bóng” đối với thu nhập của họ.

Trong trường hợp nghiên cứu tại Quảng Nam, phương pháp này không được sử dụng do khảo sát ban đầu tại khu vực cho thấy sự cố dầu tràn không gây ra ảnh hưởng trực tiếp nào đến tình trạng sức khoẻ của người dân trong khu vực.

5. Phương pháp đánh giá có sự tham gia

Phương pháp đánh giá có sự tham gia đã được sử dụng cho trường hợp nghiên cứu tại Quảng Nam, thông qua việc hỏi trực tiếp người dân xem thu nhập của họ bị giảm bao nhiêu phần trăm và trong thời gian là bao nhiêu lâu do có sự cố tràn dầu xảy ra. Từ đó, yêu cầu đặt ra là phải bóc tách được những đối tượng nào chịu tác động từ tràn dầu có thu nhập giảm, để đánh giá được tổng thiệt hại (do thu nhập giảm) đối với toàn bộ khu vực dưới tác động của tràn dầu.

Nghiên cứu này cũng sử dụng phương pháp đánh giá có sự tham gia để thu thập thông tin từ những khách sạn khu du lịch ven biển Quảng Nam về lượng khách hủy đặt phòng, lượng khách trả phòng trước dự kiến, số ngày bị hủy/trả phòng, và giá mỗi phòng. Do hạn chế về dữ liệu nên nghiên cứu này mới đánh giá được giá trị du lịch bị mất từ phía cung chứ chưa tính được thiệt hại từ phía cầu (khách du lịch).

Trong phương pháp này, do những thiệt hại của mẫu được suy ra cho tổng thiệt hại của toàn bộ khu vực, nên mẫu khảo sát phải đủ lớn và mang tính đại diện cho tổng thể.

Ưu điểm của phương pháp đánh giá có sự tham gia là dễ thực hiện và có thể áp dụng được trong trường hợp thông tin không có sẵn. Tuy nhiên, phương pháp này có nhiều hạn chế, do nó chỉ đo được phần thu nhập bị mất đi của người dân (thường là người sản xuất), chưa tính được phần thặng dư mất đi từ phía người tiêu dùng. Do đó kết quả lượng giá thiệt hại kinh tế bị mất đi do tác động của tràn dầu sẽ thấp hơn so với thiệt hại thực tế.


Каталог: bitstream -> 1247
1247 -> TÊN ĐƯỜng phố VÀ LÀng xã HÀ NỘi qua những lần thay đỔI Đinh Tiên Hoàng
1247 -> ĐỊa giới hà NỘi thời pháp xâm lưỢC, TẠm chiếM
1247 -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi số: 1384 /Đhqghn-khtc cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
1247 -> Số 61/2005/QĐ-ttg
1247 -> Year: 2007 Lecturer: Assoc. Prof. Dr. Tu Quang Phuong Research purposes
1247 -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
1247 -> Bảo vệ năm: 2008 Giáo viên hướng dẫn
1247 -> Phong tục trong bữa cơm của ngưỜi hà NỘI
1247 -> Tên đề tài Thực trạng áp dụng 5S tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương