Luận văn Thạc sỹ Khoa học Môi trường (khoá 2008 2010) MỞ ĐẦU



tải về 0.56 Mb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích0.56 Mb.
#23890
1   2   3   4   5

Ghi chú: Các vị trí A1, A2, A3: được trình bày tại bản đồ 3.1.

Nguồn: Trung tâm KHCN và Bảo vệ Môi trường GTVT (CEPT) [7]

Bảng 3.10. Kết quả quan trắc một số chỉ tiêu chất lượng nước năm 2010

TT

Thông số

A1

A2

A3

QCVN 08-2008 (loại A2)

Mẫu buổi sáng

Mẫu buổi chiều

Mẫu buổi sáng

Mẫu buổi chiều

Mẫu buổi sáng

Mẫu buổi chiều

1

Nhiệt độ (oC)

29,5

28,7

30,4

31,2

29,7

29,5

-

2

pH

8,1

7,9

7,8

7,5

7,8

8,0

6 – 8,5

3

DO (mg/l)

6,53

7,21

6,84

7,08

6,52

6,75

≥ 5,0

4

SS (mg/l)

16,8

19,2

16,3

17,5

15,8

18,6

50

5

COD (mg/l)

11,2

10,4

10,8

10,5

10,5

11,3

15

6

BOD5 (mg/l)

5,3

5,1

5,6

5,2

4,8

5,8

6

7

Dầu mỡ (mg/l)

Không phát hiện, MLOD = 0,04

Không phát hiện, MLOD = 0,04

Không phát hiện, MLOD = 0,04

Không phát hiện, MLOD = 0,04

Không phát hiện, MLOD = 0,04

Không phát hiện, MLOD = 0,04

0,02

8

Coliform (MPN/100ml)

1,2.103

1,4.103

0,9.103

0,9.103

0,8.103

1,2.103

5000

Ghi chú: Các vị trí A1, A2, A3: được trình bày tại bản đồ 3.1.

Nguồn: Trung tâm KHCN và Bảo vệ Môi trường GTVT (CEPT) [ 6]

Thời điểm quan trắc năm 2004 chưa có QCVN08:2008, tuy nhiên chúng tôi vẫn dùng QCVN08:2008 để làm quy chuẩn đánh giá chung cho 2 đợt quan trắc.

Các giá trị của các mẫu phân tích đều thấp hơn hoặc xấp xỉ giới hạn cho phép theo QCVN 08-2008 (loại A2).

Kết quả phân tích giữa hai đợt quan trắc không có sự chênh lệch lớn. Giá trị DO đợt đo năm 2010 trung bình ở mức 6,82mg/l; năm 2004 là 8,38mg/l. Giá trị COD đợt đo năm 2010 trung bình ở mức 10,8mg/l; năm 2004 là 9,1mg/l. Giá trị BOD5 đợt đo năm 2010 trung bình ở mức 5,3mg/l; năm 2004 là 4,9mg/l. Chất lượng nước sông còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện thời tiết, lưu lượng dòng chảy, thời điểm và vị trí lấy mẫu,…do vậy sự chênh lệch giữa hàm lượng các thông số được phân tích ở trên qua 2 đợt quan trắc là không đáng kể.

Qua kết quả phân tích chúng tôi nhận thấy môi trường nước sông Bưởi khi có đường Hồ Chí Minh đi qua vẫn đáp ứng được nhu cầu cho việc bảo tồn động vật thủy sinh và các loài động vật có thể sử dụng nguồn nước này làm nước uống.



Hình 3.5. Biểu đồ diễn biến về quá trình thay đổi chất lượng nước (thông số DO và SS)



Hình 3.6. Biểu đồ diễn biến về quá trình thay đổi chất lượng nước (thông số COD và BOD)

* Đánh giá sự sạt lở của tuyến đường đoạn qua VQG

Tiểu dự án đoạn tuyến qua vùng phía tây VQG Cúc Phương từ Km92+424 đến Km99+907 với tổng chiều dài 7,5km; trong đó chiều dài đoạn tuyến nằm trong khu vực thuộc quy hoạch VQG là 6,5km, có hướng tuyến bám theo tỉnh lộ 437 và chạy dọc thung lũng sông Bưởi thuộc địa phận 2 tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa. Địa hình khu vực này thấp, mùa lũ bị ngập trầm trọng do nước dềnh sông Bưởi với chiều sâu ngập bình quân từ 6 - 6,5m so với cao độ tự nhiên. Hình dạng lòng sông Bưởi không có những bụng chứa lớn, thỉnh thoảng mở rộng ra tạo thành thềm sông, nhằm điều hòa thoát lũ. Tuy nhiên, do tính nhạy cảm cao với xói mòn của lớp vỏ phong hóa dọc thung lũng sông và vẫn còn một số đoạn đắp cao, nên vẫn còn nguy cơ xói mòn gây tác động tới môi trường nước và hệ sinh thái ngập nước ở mức từ nhỏ đến trung bình.

Qua phỏng vấn các hộ dân từ khi hoàn thành tuyến đường và đưa vào sử dụng (năm 2007) đến nay chỉ có 1 lần nước sông Bưởi ngập vào nhà các hộ dân xóm Biện (nằm dưới chân cầu cạn).





Giải pháp tường chắn chống sụt ta luy âm (Đoạn sát sông Bưởi)

Kết cấu khung rọ đá để xử lý sụt trượt các đoạn đắp cao (đoạn qua VQG Cúc Phương- Dự án đường Hồ Chí Minh)

Hình 3.7. Các giải pháp giảm thiểu tác động do sạt lở được xây dựng

Quá trình khảo sát cho thấy hiện các giải pháp chống sụt trượt taluy âm như tường chắn, các đoạn xây bằng kết cấu khung rọ đá vẫn đang phát huy tác dụng tốt. Từ khi tuyến đường đi vào hoạt động đến nay vẫn chưa có hiện tượng sụt trượt hay sạt lở taluy âm và dương. Như vậy, giải pháp thiết kế cầu cạn đã hạn chế xói mòn và bồi tích trên quy mô lớn tại các mái taluy hoặc tại các cửa thoát nước của các cống ngang trong vùng có lũ cao và mạnh của sông Bưởi.

3.1.3. Tác động đến hệ sinh thái

Có thể nói rằng, khi tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua VQG được đưa vào hoạt động đã mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng địa phương sống xung quanh khu vực vùng lõi của Vườn, góp phần cải thiện đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng cũng như hoạt động của tuyến đường có tác động đến đa dạng sinh học của VQG hay không còn là một vấn đề chưa được các nhà quản lý quan tâm một cách đúng mức.

Người dân trong cộng đồng địa phương sống trong vùng lõi của VQG, đặc biệt là khu vực ven đường Hồ Chí Minh là những người sống phụ thuộc vào tài nguyên VQG. Câu hỏi điều tra dân địa phương nhằm xác định các dạng tài nguyên mà dân địa phương khai thác từ rừng. 80% đối tượng được hỏi khẳng định là có thấy dân địa phương khai thác các sản phẩm từ rừng như: củi, gỗ vụn, các sản phẩm khác như cây phong lan, cây thuốc, mật ong,..

Bảng 3.11. Tổng hợp tình hình vi phạm tài nguyên rừng ở VQG Cúc Phương

Dạng vi phạm

Năm

2000

2001

2008

2009

- Khai thác lâm sản

117

123

40

18

- Săn bắt động vật

11

22

0

0

- Phát nương, phá rừng

8

2

0

0

- Chăn thả gia súc

4

1

2

2

Tổng số:

140

148

42

20

Nguồn: Hạt Kiểm lâm VQG Cúc Phương [3]

Như vậy, trong hai năm 2008 và 2009 (khi tuyến đường Hồ Chí Minh được đưa vào khai thác) thì tổng số vụ vi phạm tài nguyên rừng ở VQG Cúc Phương đã giảm đi rõ rệt so với năm 2000 và 2001. Tuy không thể đánh giá được một cách chính xác các vụ vi phạm tài nguyên rừng có liên quan đến tuyến đường nhưng một cách khách quan, có thể nhận thấy không có tác động của việc gia tăng số vụ vi phạm với việc xuất hiện tuyến đường đến các vụ vi phạm tài nguyên rừng.



* Dự báo các tác động tiêu cực khi tuyến đường đi vào hoạt động đối với động thực vật của VQG Cúc Phương của Ban Quản lý VQG năm 2001 [8]

Đối với hệ động vật:

Theo thống kê của Ban Quản lý VQG Cúc Phương đã xác định được % số loài sẽ bị tác động tiêu cực khi tuyến đường được đưa vào giai đoạn hoạt động. (Chi tiết tên, đặc tính của các loài được trình bày tại phần phụ lục).

- Loài thú:

VQG Cúc Phương có hệ động vật rất phong phú bao gồm khoảng 88 loài thú. Trong đó chiếm tới 35% tổng số những loài có trong Sách đỏ Việt Nam mà được đánh giá ở các mức độ như: Đe doạ tuyệt chủng nghiêm trọng - Bị đe doạ - Có nguy cơ bị tuyệt chủng - Hiếm.

Khi dự án đường Hồ Chí Minh đi qua VQG sẽ có tác động đến khoảng 28 loài thú, trong đó:

+ 19 loài (68%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức cực kỳ mạnh

+ 8 loài (28,5%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức trung bình

+ 1 loài (3,5%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức thấp.

- Các loài chim:

Các loài chim ở VQG Cúc Phương gồm có 319 loài với tỷ lệ 37% trong tổng số các loài chim có ở Việt Nam. Trong đó có 16 loài được ghi nhận tại Sách đỏ Việt Nam mà được đánh giá ở các mức độ như: Đe doạ tuyệt chủng nghiêm trọng - Bị đe doạ - Có nguy cơ bị tuyệt chủng - Hiếm.

Khi dự án đường Hồ Chí Minh đi qua VQG mức độ tác động tiêu cực tới 16 loài chim tiêu biểu được liệt kê như sau:

+ 2 loài (12,5%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức cực kỳ mạnh

+ 8 loài (50%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức trung bình

+ 6 loài (37,5%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức thấp.

- Các loài bò sát và lưỡng cư:

VQG Cúc Phương có khoảng 54 loài bò sát và lưỡng cư sinh sống. Trong đó có 19 loài được ghi nhận tại Sách đỏ Việt Nam mà được đánh giá ở các mức độ như: Đe doạ tuyệt chủng nghiêm trọng - Bị đe doạ - Có nguy cơ bị tuyệt chủng - Hiếm.

Khi dự án đường Hồ Chí Minh đi qua VQG mức độ tác động tiêu cực tới 19 loài bò sát và lưỡng cư tiêu biểu được liệt kê như sau:

+ 16 loài (84%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức cực kỳ mạnh

+ 3 loài (16%): sẽ bị tác động tiêu cực làm nguy hại ở mức trung bình

- Loài cá: Sông Bưởi thuộc VQG Cúc Phương là nguồn cung cấp nước cho các loài động vật của VQG. VQG Cúc Phương có 6 loài cá tiêu biểu được ghi nhận trong Sách đỏ Việt Nam, trong đó có loài cá Nheo Cúc Phương là đặc hữu của Việt Nam, duy nhất chỉ có ở VQG Cúc Phương.

Dự án đường Hồ Chí Minh đi dọc theo sông Bưởi khoảng 7,5km sẽ dẫn đến tác động tiêu cực làm nguy hại đối với các loài cá còn trong tự nhiên của VQG, trong đó 6 loài cá tiêu biểu đều bị tác động tiêu cực ở mức cực kỳ mạnh.

- Các loài côn trùng:

Ở VQG Cúc Phương có khoảng 1800 loài thuộc 200 họ của 30 bộ, trong đó có rất nhiều loài mới lạ. Dự án đường Hồ Chí Minh đi qua VQG sẽ có tác động tiêu cực làm nguy hại các loài côn trùng còn trong tự nhiên của VQG.

Đối với hệ thực vật:

Ban Quản lý VQG Cúc Phương đã thống kê có khoảng 36 loài cây nằm ở khu vực gần đường Hồ Chí Minh có thể bị tác động khi tuyến đường đi vào hoạt động. (Chi tiết các loài được trình bày trong phần phụ lục). Trong đó:

+ 28 loài được dự báo bị tác động tiêu cực ở mức mạnh

+ 7 loài được dự báo bị tác động tiêu cực ở mức trung bình

+ 1 loài được dự báo bị tác động tiêu cực ở mức yếu.

* Nhận xét các đánh giá tác động tiêu cực dự báo của Ban Quản lý VQG Cúc Phương:

Tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua VQG Cúc Phương được đưa vào hoạt động từ năm 2007. Theo thống kê của Cục Kiểm Lâm (số liệu do các VQG báo cáo) thì mức độ tác động tiêu cực không lớn như VQG dự báo. Cụ thể, theo bảng 3.11 có thể thấy:

- Năm 2008 số vụ vi phạm là 40 vụ (chỉ ở mức phạt hành chính) với số lượng tang vật thu giữ được: 0,17m3 gỗ tròn (loại thường) và 0,03m3 gỗ xẻ (loại quý hiếm). Không có loài động vật quý hiếm nào được tịch thu.

- Năm 2009 số vụ vi phạm giảm xuống còn 18 vụ (trong đó có 1 vụ xử lý hình sự với 01 bị can). Số lượng tang vật thu giữ được: 0,59m3 gỗ tròn (loại thường) và 0,44m3 gỗ xẻ (loại thường). Không có loài động vật quý hiếm nào được tịch thu.

Đối tượng vi phạm được thống kê chủ yếu là các hộ gia đình sinh sống tại khu vực vùng lõi của VQG, năm 2008 là 40/40 vụ; năm 2009 là 17/18 vụ. Các vi phạm chủ yếu là vào rừng săn bắn chim, cài bẫy 1 số thú nhỏ (sóc, gà rừng, dúi,…), chặt cây phong lan, hái các cây làm thuốc, khai thác măng tre nứa, hái nấm, chăn thả gia súc,….

Các vi phạm do hộ gia đình có từ trước khi tuyến đường Hồ Chí Minh được xây dựng. Truyền thống vào rừng đặt bẫy, sắn bắt, đốt nương làm rẫy, chăn thả gia súc…của dân tộc Mường thuộc khu vực VQG có từ xa xưa, hiện nay do công tác quản lý, tuyên truyền đến từng hộ dân tốt, bên cạnh đó kinh tế của các hộ dân đã phát triển hơn, ý thức được nâng cao nên số vụ vi phạm ngày càng ít đi.

Cũng theo thông tin từ Cục Kiểm Lâm, năm 2008, 2009 và 6 tháng đầu năm 2010 khu VQG Cúc Phương không xảy ra hiện tượng đốt nương làm rẫy, cháy rừng, mất đất rừng do các nguyên nhân.

Qua các cuộc trò chuyện, phỏng vấn bán chính thức một số hộ gia đình, trưởng bản và cán bộ kiểm lâm cho thấy: Tuyến đường cầu cạn - đất đắp dọc theo sông Bưởi cao 5 - 6m hiện đã và đang phát huy được các tác dụng như mục đích ban đầu khi thiết kế và xây dựng. Theo quan sát của dân và cán bộ kiểm lâm thì các loài thú trước kia thường qua lại khu vực thung lũng ven sông Bưởi nay vẫn thấy xuất hiện tại các khu vực cầu cạn từ Đông sang Tây như: Cầy, cáo, kỳ đà, khỉ, lợn rừng, gà rừng, chồn, sóc, tuli,…Tuy nhiên các loài vật này chỉ di chuyển qua khu vực chủ yếu vào ban đêm. Theo một số người dân, mùa khô năm 2010 do ít mưa nên ban ngày có xuất hiện một vài con khỉ, chồn ra sông Bưởi uống nước.

Như vậy, những dự báo về tác động tiêu cực của việc hình thành tuyến đường HCM đoạn qua VQG Cúc Phương đối với động vật, thực vật quý hiếm sau hơn 3 năm đi vào hoạt động là chưa xuất hiện. Những tác động tiềm tàng, tích luỹ lâu dài hiện vẫn chưa có các căn cứ để chứng minh.

3.1.4. Tác động đến kinh tế, xã hội.

a). Hiện trạng sử dụng đất trước và sau khi có dự án.

* Diện tích đất đã bị chiếm dụng do dự án:

Dự án trải dài khoảng 8km trên địa phận 2 xã, chủ yếu là xã Thạch Lâm, Thạch Thành, Thanh Hoá với chiều dài tuyến khoảng 7km và đoạn ngắn hơn (1km) thuộc địa phận xã Ân Nghĩa, Lạc Sơn, Hoà Bình. Bề rộng nền đường theo thiết kế là 9m (bề rộng mặt đường là 7m).

Bảng 3.12. Uớc tính tổng diện tích đất chiếm dụng khi xây dựng đường Hồ Chí Minh qua VQG Cúc phương

TT

Hạng mục

Đơn vị

Số lượng

1

Đất rừng

ha

24,0

2

Đất ruộng

ha

31,6

3

Đất ở

ha

3,4

4

Đất vườn

ha

0

Tổng diện tích đất bị chiếm dụng:

ha

59,0

Nguồn: Báo cáo Đánh giá tác động môi trường đoạn tuyến qua VQG Cúc Phương [1]

* Hiện trạng sử dụng đất của các hộ dân trước khi có dự án đường Hồ Chí Minh đi qua:

- Diện tích đất canh tác (tổng cộng là: 96ha)

+ Bản Khanh: 34 ha

+ Bản Biện: 40 ha

+ Bản Thống Nhất: 22 ha

- Đặc điểm: Tất cả các hộ gia đình đều có đất canh tác nông nghiệp và đất vườn quanh nhà. Cây trồng chủ yếu: đậu tương, khoai lang, ngô và mía.

- Diện tích đất canh tác bị mất tổng cộng tại 3 bản là: 31,6 ha.

* Hiện trạng sử dụng đất hiện nay:

- Diện tích đất canh tác (tổng cộng là: 64,4ha)

+ Bản Khanh: 25,8 ha

+ Bản Biện: 25,4 ha

+ Bản Thống Nhất: 13,2 ha

- Đặc điểm: Các hộ dân đều canh tác nông nghiệp, diện tích đất vườn không rộng, được sử dụng để trồng rau và cây ăn quả ở mức độ tự túc cho gia đình. Các hộ gia đình đều thâm canh trên diện tích có sẵn, chỉ lựa chọn cây trồng (theo giá trị của từng sản phẩm) như: phát triển đậu tương, khoai lang, ngô và mía (không trồng lúa nước). Hiện bà con đang chuyển dần từ trồng mía sang cây đậu tương.

- Diện tích đất canh tác bị mất là đáng kể so với tổng diện tích đất canh tác của các bản, đặc biệt là bản Biện bị mất đất canh tác là lớn nhất (14,6 ha). Các tác động đến đời sống của hộ dân khi bị mất đất canh tác sẽ được trình bày ở phần sau.

b). Hiện trạng kinh tế, xã hội trước và sau khi có dự án

Những bản (xóm) hiện nằm trong phạm vi tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua VQG Cúc Phương là bản Khanh (thuộc xã Ân Nghĩa, Lạc Sơn tỉnh Hoà Bình) và xã Thạch Lâm, Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá có 2 bản (bản Biện và bản Thống Nhất), hiện trạng đời sống các hộ dân trước và sau khi có dự án được thể hiện tóm tắt qua các bảng sau:



Bảng 3.13. Hiện trạng đời sống các hộ dân trước khi có dự án (năm 2001)

Nội dung

Bản Khanh

Bản Biện

Bản Thống Nhất

Số hộ dân/số dân

54/298

25/175

23/122

Dân tộc

100% dân tộc Mường

Nghề nghiệp chủ yếu

Trồng lúa, sắn, chăn nuôi.

Trồng lúa, sắn, ngô, đậu, chăn nuôi lợn, gà.

Trồng lúa, sắn, chăn nuôi lợn, gà.

Hiện trạng đời sống

Nghèo

Nghèo, thiếu lương thực

Nghèo

Điện, nước

- Các hộ dân đều chưa có điện

- Sử dụng nước mưa và nước tại các khe suối, sông Bưởi cho mục đích sinh hoạt.



Nguồn: Báo cáo Đánh giá tác động môi trường đoạn tuyến qua VQG Cúc Phương. [1]

- Hệ sinh thái canh tác lúa nước cộng với canh tác nương rẫy trên đất rừng đồi núi và các khe thung lũng đá vôi là hình thức canh tác phổ biến của các bản trong khu vực dự án.

- Không có rừng giao khoán bảo vệ hoặc rừng trồng thuộc hộ gia đình và chỉ canh tác hoa màu ngoài lúa nước, chủ yếu là mía, ngô, đậu tương, lạc, rau quả. Nhưng giá cả và các phương tiện thu mua không ổn định.

- Các bản đều thuộc diện nghèo, 70% số hộ thiếu lương thực từ 2 đến 3 tháng (ăn độn ngô, sắn và ăn không đủ no). Tỷ lệ tăng dân số là 2,1 đến 2,5%. Có 80% số trẻ đến tuổi đi học được đến trường nhưng cơ sở nhà trường còn nghèo nàn và thiếu thốn.



Bảng 3.14. Hiện trạng đời sống các hộ dân sau khi có dự án (năm 2010)

Nội dung

Bản Khanh

Bản Biện

Bản Thống Nhất

Số hộ dân/số dân

70/415

29/143

30/148

Dân tộc

100% dân tộc Mường

100% dân tộc Mường

100% dân tộc Mường

Nghề nghiệp chủ yếu

Trồng đậu tương, sắn, chăn nuôi.

Trồng đậu tương, mía, sắn, ngô, đậu, chăn nuôi lợn, gà.

Trồng đậu tương, sắn, chăn nuôi lợn, gà.

Khoảng cách tới các cơ sở

Trường học

- Tiểu học: 1.5km

- THCS, THPT: 7 km

- Nhà trẻ: 7km


- Tiểu học: 2km

- THCS: 4km

- THPT: 9km


- Tại bản

- THCS: 2km

- THPT: 7km





Y tế

Trạm xá: 7km

Trạm xá: 9km

Trạm xá: 7km




TT Thị trấn/chợ

7km

9 km

7 km

Điện, nước

- Các hộ dân tại bản mới có điện từ tháng 2 năm 2010.

- Sử dụng nước mưa và nước tại các khe suối, sông Bưởi cho mục đích sinh hoạt.



Nguồn: Phỏng vấn bán chính thức các trưởng bản và người dân quanh khu vực dự án.

- Hiện các hộ dân thuộc các bản nằm trong khu vực VQG đều được Ban Quản lý Vườn khoanh vùng cho bà con bảo vệ rừng. Mỗi bản được bầu ra 4 người ký hợp đồng với Ban Quản lý Vườn, cứ 3 tháng Ban Quản lý sẽ đi kiểm tra một lần. 1 người được giao quản lý khoảng 10ha rừng và hưởng khoảng 1,2 triệu đồng/năm.

- Trong khu vực các bản không có xưởng cưa mộc, xưởng cưa mộc chỉ có ở Thạch Quảng (cách khu vực dự án 9km).

- Khu vực thường xuyên thiếu nước vào mùa khô, một vài hộ dân phải tiến hành khoan giếng (ở độ sâu 30m) mới thấy có nước. Do giá khoan là 5 triệu đồng/giếng nên chỉ có vài hộ gia đình có giếng khoan.

- Các hộ dân được phát cam kết không vào rừng phát nương rẫy, phá rừng, săn bắn động vật, chăn thả gia súc, vận chuyển và khai thác lâm sản,…đến tận nhà các hộ dân nằm trong khu vực VQG.

Qua phỏng vấn trưởng bản và một số người dân trong xóm cho thấy những tác động đến đời sống khi có tuyến đường chạy qua VQG của các bản đều có đặc điểm chung như sau:

- Tuyến đường được hình thành thì việc đi lại dễ dàng hơn, (bản Khanh trước kia phải lội sông Bưởi đi học). Đường xá thuận tiện dẫn đến việc giao lưu và tiêu thụ cũng tăng. Theo ông trưởng bản Biện thì giá cả hàng hóa tiêu thụ được giờ tăng lên được 5 giá so với trước khi có đường.

- Khu vực được xây cầu cạn hiện nay trước kia là bãi bồi của sông Bưởi, nay diện tích đó không còn nên đất đai canh tác bị thu hẹp.

- Tuyến đường cầu cạn được đắp cao từ 5 - 6m gây khó khăn cho việc khênh vác các sản phẩm nông nghiệp. Trước kia một số hộ dân trồng mía nhưng nay một phần do thiếu đất, một phần do đường đắp cao nên các hộ dân này không trồng mía nữa. Ngoài ra, nước dùng cho sinh hoạt, sản xuất lương thực và chăn nuôi phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, do vậy khi tuyến đường đắp cao vô hình chung tạo nên bờ tường gây khó khăn cho việc bơm nước từ sông Bưởi lên để tưới cây hoa màu.

- Các hộ dân xóm Khanh trước khi xây dựng đường Hồ Chí Minh được coi là vùng 3 nên hàng tháng được tài trợ muối gạo, từ khi con đường hoàn thành thì không được trợ cấp nữa.

- Theo trưởng trạm kiểm lâm số 4, từ khi tuyến đường hoàn thành xuất hiện hiện tượng đổ trộm rác thải, phế thải vào ban đêm tại khu vực.



* Nhận xét chung: Tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, xã hội của các bản thuộc dự án là không thể tránh khỏi, ở dự án này tác động tiêu cực chính yếu là mất diện tích đất canh tác trên nền mức đời sống của các hộ dân đều thuộc diện nghèo. Tuy nhiên, các hộ dân đều nhận thấy đời sống của họ được nâng cao hơn so với trước, cụ thể:

- Số hộ nghèo trong các bản đã giảm đi đáng kể (trước kia là 70% số hộ, nay chỉ còn khoảng 2-5% số hộ nghèo trên tổng số hộ dân).

- Không còn hiện tượng thiếu ăn, ăn độn ngô, độn sắn. Trên thực tế mỗi gia đình hàng năm thu lợi trung bình từ 15 - 20 triệu đồng. Có khoảng 2,5% số hộ thu nhập từ 50 triệu đồng trở lên với nhiều ngành nghề tổng hợp (canh tác, thủ công, dịch vụ sản xuất và đời sống, buôn bán ngoài,…).

- 100% số trẻ đến tuổi đi học được đến trường, đường xá thuận tiện nên số học sinh hết cấp bỏ học đã giảm đi đáng kể (trước kia chưa có cầu bắc qua sông Bưởi học sinh phải đi đò sang sông mới đến trường).







Bản Biện (xóm được TĐC) khi làm đường HCM

Phỏng vấn hộ dân làm dịch vụ xay xát tại bản Khanh

Hình 3.8. Phỏng vấn hiện trạng đời sống KTXH khu vực dự án


tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương