LIÊn thành và MẮm tôm bảo quốc Kiếm Chương I: Về tác giả và người giới thiệu



tải về 1.3 Mb.
trang6/14
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích1.3 Mb.
#38971
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14
KHÔNG LÀ MỘT BẤT NGỜ”

Ngày nay, thì rõ ràng Cộng sản Việt nam đang truy diệt tận gốc rễ Phật giáo. Tiến trình này lặp lại y chang như Đế quốc La mã tiêu diệt Do thái giáo vào trước năm 325 sau Tây lịch. Vậy, chúng là ai mà đang tâm làm như thế ? Ai là chủ của chúng ? Hiện nay ai đứng sau lưng chúng ? Hãy mở cặp mắt thật to, và cố gắng cho cục não nhúc nhích chút đỉnh, thì biết ngay.


Để chứng minh cho luận điểm trên đây, xin cùng đọc lời của ông Liên Thành tại trang 104:

“Trường trung học thiên hựu là nơi Việt cộng đã đặt Bộ chỉ huy nhẹ của lực lượng an ninh Bảy Lanh, chính nơi đây là chỗ giam giữ những người mà bọn chúng đã bắt THEO DANH SÁCH ĐÃ CÓ SẴN, ông Bảo Lộc, Phó tỉnh trưởng Tỉnh Thừa thiên cũng bị giam tại đây và may mắn cho ông, chúng đã dẫn ông lên núi và đưa ra Bắc, trước khi chúng nhận lệnh tàn sát dân chúng”.


Như thế, rõ ràng Liên Thành cũng phải công nhận rằng, những tên Cộng sản ác ôn đã có lập sẵn danh sách những ai chúng muốn giết, muốn bắt; chứ không thể tự dưng vô cớ mà giết dân đi. Dù gian ác đến đâu, Hồ chí Minh và Đảng Cộng sản cũng hiểu rằng không có dân thì chúng bắt ai làm nô lệ cho chủ nghĩa ? Do đó, nếu thanh trừng, thì phải “thanh trừng Mỹ Nguỵ”, giết thì phải giết kẻ “ác ôn” tại miền Nam, hay ít nhất cũng đã gây căm thù cho cơ sở chúng. Nhưng oái oăm thay, đồng bào Huế bị chính quyền miền Nam, mà chỉ huy trực tiếp là Liên Thành, cho rằng Phật tử theo Cộng sản, thầy Chùa theo Cộng sản, thì sao Cộng sản lại giết, trong lúc gia đình “đại ác ôn Liên Thành” lại chẳng có chuyện gì ?

Vụ án này nhứt định phải được giải mật khi không còn Chủ nghĩa Cộng sản trên quê hương Việt nam.

BQK-20-01-09

LIÊN THÀNH VÀ MẮM TÔM 11

Bảo quốc Kiếm

Chương 11: Cờ chi rứa Mệ


Để biết được cái tài của nhà văn “trút cổ” đã “đạo dục tăng bi, đãng nhân tâm chí đẵng” như thế nào, và những thứ kiến thức độc đáo, độc địa; nhưng cuối cùng nghe có vẻ sao trợt lớt. Xin cùng đọc nơi trang 90:

“Khoảng 6 giờ sáng, sương mù chưa tan, trời trở lạnh và thấp; nhìn về kỳ đài Phú vân lâu, Huế bật khóc trong nghẹn ngào, lá Quốc kỳ không còn nữa, mà thay vào đó một lá cờ gồm 3 mảnh, hai mảnh hai bên là màu xanh nhạt, mảnh giữa màu đỏ, ngay ở giữa mảnh đỏ là ngôi sao vàng.



Dân Huế cứ ngỡ là cờ của Mặt trận giải phóng Miền Nam. Thật tình không phải. Cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam chỉ có hai mảnh, một mảnh màu xanh nhạt, và một mảnh màu đỏ và ở giữa có ngôi sao vàng.

Lá cờ mà bọn Việt cộng treo ở Kỳ đài Ngọ môn là cờ của lực lượng Liên minh Dân tộc, Dân chủ Hoà bình của ông Chủ tịch Lê văn Hảo, và ông Phó Chủ tịch Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật giáo Ấn quang miền Vạn hạnh”.
Tôi đọc mà nghe lòng cũng nhói, nhưng những sự kỳ lạ lại hiện ra tức khắc. Hôm đó là sáng ngày mồng hai Tết, rứa thì ai dậy quá sớm mà nhìn ra Kỳ đài Phú văn Lâu, không lẽ Huế lại nhìn Huế ? Nhưng thật ra, Phú văn Lâu đâu có kỳ đài. Thì ra, tác giả say mê với đoạn văn “diễm tuyệt”, rồi sau đó mới nhớ ra: ”treo ở kỳ đài Ngọ môn” ! Cái khốn kiếp là “sương mù chưa tan, trời trở lạnh và thấp”; thế mà nhận ra được màu của 3 mảnh và ngôi sao, mới lạ chứ ? Khổ thay cho người đọc, phải làm thử nhiều lần, thì “sương chưa tan” mà nhận ra màu xanh nhạt, màu đỏ mới khổ ! Mẹ ôi, dù đứng gần một bên, thì cũng khó nhận được, huống chi đang đứng từ xa ? Vậy thì, chỉ có Liên Thành tự tay treo cờ mới biết rõ thôi ? Khó hơn nữa là trong sương mù lại nhận ra “màu sao vàng”. Đúng là đôi mắt em Tiên! Phải chăng, cái này gọi là “phóng sự rừng hoang viết cho hoang thú”, chứ làm người ai tin được rứa hè ? Không biết Thiếu tướng Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, có thấy đây là sự “rất đúng” không hả ? Dù cho các ngài có ống nhòm kiểu Mỹ, cũng không thể phân biệt màu nhạt, màu đó, màu vàng trong “sương mù chưa tan, trời trở lạnh và thấp”! Dzui thiệt là dzui !!!

Điều vui hơn nữa là ảnh cố tình để đưa “Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh” vào tròng, mà quên mất trò đời phi lý. Nhưng, câu viết này chứng tỏ “kẻ ngoại đạo”, chứ đâu phải Phật tôn, nói chi Phật tử ? Chánh đại diện là “Chánh đại diện Miền Vạn hạnh”, chứ không thể nào là “Chánh đại diện Ấn quang Miền Vạn hạnh”. Anh “văn trút cổ” uơi, trật lất đường rầy rồi đấy ạ. Ủa, Liên Thành là Phật tử đó sao ?

Nhưng, cái chỗ khó nghe nhất là tại sao chúng treo cờ Mặt trận của ông Đôn Hậu, vậy cà ? Theo ông Thành thì:

“Ngoài kế hoạch quân sự, vào ngày 21 tháng 1 năm 1968 (trước trận Mậu thân), Bộ chính trị Trung ương đảng gởi mật điện cho Trung ương cục miền Nam, Khu ủy Khu 5, và Khu ủy trị Thiên, Bộ Chính trị yêu cầu Phạm Hùng, Võ chí Công, Trần văn Quang, thành lập Mặt trận chính trị thứ hai (thứ nhất là Mặt trận giải phóng Miền nam) lấy tên là “Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình” nhằm phân hoá chính quyền Miền nam, tập hợp những lực lượng, những cá nhân chống chính quyền Miền Nam, chống Mỹ, tranh thủ mọi tầng lớp dân chúng”.(Trang 65)


Như thế thì, cái Mặt trận này chỉ mới là cái “mặt trần non choẹt”; và chắc chắn là chỉ có trên giấy tờ ông Liên Thành mà thôi, chứ nó có mần chi mô mà quan trọng ? Nhưng, đã là “mật điện”, sao ông Thành có nhỉ ? Phe miềng ??? Cờ của nó, nếu có, cũng chỉ là cái giẻ do Cộng sản bày trò; trong nước cũng chưa ai biết, huống hồ Quốc tế. Vậy đứa nào dám cả gan treo lên, trừ Liên Thành, phó trưởng ty Đặc biệt Cảnh sát Tỉnh Thừa thiên ? Trên lý thuyết, lẫn thực tế, Chính phủ Cộng hoà Miền Nam Việt nam mới có quân đội để đi đánh; nhưng cái “lý” và cái “thực” này đều do Hà nội “nặn” ra, con mèo nào mà không biết. Vậy thì, có “giải phóng” nào mà ngu đến nỗi “mình làm nó ăn” chơ lị ? Sở dĩ, Cộng sản Bắc Việt không cho mang quân hàm, cờ xí của Miền Bắc, là vì hắn muốn “ăn gian nói dối” với nước ngoài rằng “quân giải phóng Miền Nam” của “Chính phủ Cộng hoà Miền nam Việt nam” đánh, chứ không phải Bắc Việt đưa quân xâm lăng. Chính vì điều này, nên nó mới cho giăng cờ “Giái phỏng” cho vui mắt thiên hạ. Còn cái mặt trận thứ hai như ông nói, mới đẻ một tháng, “khu còn dính phân”, thì treo lên làm cái mẹ gì ? Dân còn không biết, thì ai biết và để làm gì ? Khi cho treo lên như vậy, lại lòi đuôi “mặt trận này đánh đổ mặt trận kia” sao, nó đâu có dại quá quắt như thế ? Nói như vậy, chắc ông còn tức tối răng tui nói bậy, xin ông đọc lại luận chứng của ông tại trang 382, thì rõ:

“…và ngày 20-12-1960 Hà nội cho thành lập Mặt trận Giải phóng Miền nam, từ đó cho tới ngày hôm nay, mọi hoạt động của Hà nội đều núp bóng dưới lá cờ Mặt trận Giải Phóng miền nam, đó là cờ có hai màu đỏ và xanh nhạt, giữa có ngôi sao đỏ.



Che dấu không để lộ hành tung và ý đồ xâm lăng Miền Nam Việt nam, bất cứ nơi đâu, tại các diễn đàn quốc tế, Hà nội thường chối bỏ có sự hiện diện của binh lính, cán bộ ngoại nhập từ miền Bắc xâm nhập hoạt động tại miền Nam, thì nay họ không dại gì mà lại treo cờ của họ tại quận 3 Thị xã Huế, một hành động vạch áo cho người ta xem lưng, tự đi tố cáo mình.

Thiếu tá, ông đã thiếu hiểu biết về chính trị, về sách lược, về chủ trương và bản chất láo lường của đảng Cộng sản Việt nam, thay vì treo cờ Giải phóng Miền Nam, ông lại treo cờ đỏ sao vàng của Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hoà miền Bắc, đó chính là lý do nhân viên công lực chúng tôi thấy ngay đây là một vụ giả tạo”.
Tôi lãng trí, quên mất không biết cái cờ của cái Mặt trận Giải phóng miền Nam như thế nào. Nhưng, nghe ông Liên Thành diễn tả hơi quái lạ ! Như đã trích dẫn trang 90 thì:

+Cờ của Mặt trận Giải phóng miền Nam chỉ có hai mảnh, một mảnh màu XANH NHẠT, một mảnh MÀU ĐỎ, và ở giữa có NGÔI SAO VÀNG.

Qua trang 382, thì cờ “Giái phỏng” lại khác:

+Cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam, đó là cờ có hai màu ĐỎ và XANH NHẠT, ở giữa có NGÔI SAO ĐỎ.

Chui choa, rứa thì SAO ĐỎ, SAO VÀNG cũng của Mệ Liên Thành cả đấy. Khi Mệ muốn VÀNG thì nó VÀNG, Mệ muốn ĐỎ, thì nó ĐỎ. VÀNG HAY ĐỎ LÀ TUỲ MỆ. Mẹ kiếp thằng nào dám cãi, vì Mệ là CHỈ HUY TRƯỞNG CẢNH SÁT QUỐC GIA THỪA THIÊN HUẾ đấy mà. Cũng vậy, đứa mô “mầng Cộng sảng” cũng do Mệ, đứa mô “Cộng que” cũng do Mệ. Mệ làm lịch sử, Mệ viết SỰ THẬT, kẻo mấy thằng LƯU MANH nó bẻ cong lịch sử !!! Mẹ kiếp gian hùng !!!


Bây giờ, nông dân xin bứng “cả cây lẫn củ” về trồng lại nhà Mệ Liên hí ? Sao ông hạ nhục “chú Thiếu tá Quận trưởng Quận 3” hay ho như rứa, rồi ông quên mất dạy chính mình ? Cũng theo ông, thì cái Mặt trận Liên minh Dân tộc Dân chủ và Hoà bình chỉ là “tập hợp những lực lượng, những cá nhân chống chính quyền”, chứ nó đâu có thằng lính nào mà đánh, mà thắng, mà treo cờ chơ lị ? Cái chỗ khó chơi nhất là nghe ông kể chuyện “Tống cân” của CSBV vào Huế. Răng mà bắt đầu từ 2 giờ 33 phút Việt cộng mới khởi sự, thế mà 6 giờ sáng chúng đã treo cờ lên Kỳ đài chính trên Hoàng thành trước cửa Ngọ môn ? Có phải bọn Việt cộng nó biết tàng hình không ông ? MƯỜI NGÀN QUÂN với tất cả sung ống, pháo binh… chúng đi từ thượng nguồn sông Bồ…về Huế, mà chẳng ma nào biết ? Chỉ nói riêng ông Phó trưởng ty đặc biệt thôi, thì đã đi kiểm tra hai vòng, và cho biết đến 01 giờ sáng Huế vẫn còn yên; rồi 2giờ 30 cũng vẫn còn êm; vậy thì Cộng sản ở đâu mà chỉ trong vòng ba tiếng rưỡi đồng hồ lại DỨT HUẾ ? Như thế, hoá ra ông đi kiểm tra tình hình BỘ ĐỘI TA BỐ TRÍ RA SAO, chứ đâu phải cho phe mình ? Xin hỏi ông rằng, từ Nam hoà về, từ La chữ về, nó bay thế nào mà ông Thiếu tướng Tư lệnh Sư đoàn I không thấy, nên ông vẫn ngủ với vợ và được ông ban khen chí tử ? Nếu nó qua ngã Nam hoà, thì Trung đoàn I đóng ngay đó, răng không ai đánh cả nhỉ ? Qua ngã Hương trà, thì Trung đoàn 3 cũng đóng ở cây số 17 răng nó không đánh, mà cả hai mặt “êm ru bà rù” như rứa ? Tụi Việt cộng phải băng đèo vượt suối hàng chục cây số, thì bao lâu mới đến Huế ? NĂM NGÀN CẢNH SÁT của ông ở đâu mà không báo cáo khi Cộng sản còn ở Nam hoà, Phú ổ, La chữ, khi di chuyển…? Xin lặp lại chơi dzui: LÁO VỪA THÔI CHỨ ! Hay chính ông đã điều động Cảnh sát “mang nón tai bèo, súng AK” để thực hiện “đại âm mưu” trước khi bàn giao cho Việt cộng ??? Và do không muốn thiên hạ biết, nên ông đã cho “mèo sau ăn mèo trước”, cứ thế… mà số chết và mất tích tăng cao hơn đâu cả ???
Đừng lấy hai chữ HƯU CHIẾN ra mà xài, hổng đúng đâu. Hưu chiến thì ở đâu nằm đó, chứ chuyển cả hàng chục ngàn binh lính với tất cả quân dụng, trọng pháo…đi hàng mấy chục cây số về hướng Kinh đô, sao lại không báo động, không đánh ? Tôi xin phép viết một câu chắc nịch:

HỒ CHÍ MINH, NGUYỄN VĂN THIỆU, PHAN VĂN KHOA, ĐOÀN CÔNG LẬP, LIÊN THÀNH… LÀ TỘI ĐỒ DÂN TỘC, LÀ NHỮNG KẺ GIẾT ĐỒNG BÀO HUẾ NÓI RIÊNG, ĐỒNG BÀO TOÀN QUỐC NÓI CHUNG. TẤT CẢ BỌN CHÚNG LÀ “TÔI CÙNG MỘT CHỦ” MANG NẶNG ÂM MƯU TRẢ THÙ DÂN TỘC VIỆT.

Xin đừng dùng ngụy ngôn, xảo ngữ mà che đậy.
Nói thẳng điều này, tôi biết mình phải đối diện với tử thần, vì “Băng Đảng” ông đang hoạt động mạnh tại Hải ngoại, nhưng tôi không thể không nói cho nạn nhân Tết Mậu thân tại Huế, tôi chỉ nói tại Huế thôi. Tôi nhắc lại rằng, hôm ba mươi rạng ngày mồng một Tết đã có khoảng chục Tỉnh, Thành bị tấn công, thì không lý nào mà Thừa thiên Huế lại “vô tư” đến thế. Chính ông nói:

“Không còn kịp nữa đâu anh Xuân, ông Ty không cho lệnh cấm trại, đó là quyền của ông ta, tôi là người chỉ huy trực tiếp lực lượng CSĐB, tôi cho lệnh lực lượng CSĐB cấm trại cũng đúng vậy. Đã quá muộn rồi, anh gắng gọi anh em, được chừng nào hay chừng đó, tôi chịu trách nhiệm chuyện này”.(trang 81)


Đọc đoạn này, tôi thấy nó khó chịu làm sao. Không lẽ từ lâu ông đã biết rằng CSBV đã họp bàn Tổng tấn công, mà ông lại cho Cảnh Sát của ông nghỉ Tết ? Dù cho nghỉ, thì cũng một phần nào, chứ không lẽ cả hết đều nghỉ ? Và chính ông đã cho gọi về; vậy thì họ ở đâu ? Tại sao lại có chuyện như vầy:

“Phải nói rõ một sự thật để giải toả những thắc mắc:



Tại sao khi Việt cộng bắt đầu nổ súng tấn công, bọn chúng vào Huế như chỗ không người.

Vì thành phố và vòng đai an ninh thành phố hầu như đã bỏ trống. Nhiều nút chận ra vào thành phố đã bỏ trống, những nơi khác thì chỉ một vài anh em Cảnh sát đứng co ro trong cơn gió lạnh của buổi tối mùa đông. 1 giờ khuya ngày mồng hai Tết Mậu thân, Huế vẫn còn bình yên”.(trang 82)

Quái lạ, ông đã biết ngày 25-12-1967 Bộ chính trị Cộng đảng đã họp để quyết định tấn công, thì không lẽ Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo, Tổng nha Cảnh sát….Tổng thống VNCH mà không biết ? Nếu đã biết sao lại đi chơi như Tổng thống Thiệu ? Riêng ông, ông đã biết mọi chuyện; đặc biệt là khi ông tuần tra, sao ông không cho Cảnh sát biết, mà để họ “đứng co ro” như không có chuyện gì ? Tại sao ông không cho họ về Ty để chuẩn bị chiến đấu, mà bắt họ đứng chịu chết một mình ? Tại sao các Phó trưởng ty khác không đi tuần tiễu, mà phải là ông Phó đặc biệt ? Vậy thì, Phòng giao thông, đội tuần tiễu do ai chỉ huy, Đại đội Cảnh sát dã chiến đâu mà không nghe nhắc tới ? Phải chăng các thứ này đang “nón cối, tai bèo, dép râu chễm chệ” ??? Tôi chỉ căn cứ trên lý thuyết của cuốn sách mà đặt lại vấn đề, chứ sự thật ra sao thì chỉ có ông, ông Trưởng ty Đoàn công Lập, Trung tá Khoa Tỉnh trưởng mới rõ mà thôi.


Ông đã nói rằng:”Phải nói rõ một sự thật để giải toả những thắc mắc”, thế nhưng, ông có nói về chuyện tại sao “bọn chúng vào Huế như chỗ không người” đâu ? Tại sao Bộ Tư lệnh Sư đoàn I, đại đội Hắc báo, Đại đội Trinh sát, Tiểu khu Thừa thiên, Ty Cảnh sát, Tỉnh đoàn Xây dựng nông thôn, Quân trấn…là những đại đơn vị đóng ở Huế, mà chúng vào như chỗ không người, nếu các cơ quan quân sự, bán quân sự này không “nhắm mắt” lại ? Ai đã bắt họ “nhắm mắt”, trong lúc ông Phó ty Đặc biệt biết hết mọi chuyện tại Bộ chính trị Trung ương đảng Cộng sản tại Hà nội từ hai tháng trước, thậm chí ông biết rõ nó tập trung quân ở thượng nguồn sông Bồ, ém quân tại La chữ và nằm sẵn tại vùng Từ đàm, Phủ Cam ? Nhưng điều đó cũng không xót xa bằng:

“Lực lượng Hoa kỳ hoàn toàn án binh bất động trong 7 ngày đầu Việt cộng tấn công Huế” (trang 86)

Và rồi:

“…tưởng rằng bị Việt cộng tấn công, lập tức MACV báo động và hai chiếc xe tăng lớn lù lù từ trong MACV ra án ngữ ngay cổng chính MACV, cũng là cổng chính của BCH/Cảnh sát, từ giờ đó Việt cộng không còn tấn công vào BCH/Cảnh sát nữa”. (trang 87)


Đọc ngang đây, thì chỉ người điên hay mất trí mới không biết cái “bí mật” của các ông là đã đi đêm với Cộng sản để tàn sát đồng bào Huế, Thủ đô Phật giáo Việt nam !!! Thế mà, ông viết chẳng ngượng rằng:

“Bọn họ từ vùng núi phía Tây tràn vào Huế, họ là “Quân đội nhân dân”, là Quân giải phóng”, là những tên cơ sở nằm vùng, là những kẻ trí thức, giáo sư, sinh viên đã một thời theo giặc, theo ông Trí Quang, trong phong trào tranh đấu Phật giáo vào năm 1966, thoát lên mật khu, nay theo lệnh của Hồ chí Minh, của Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt nam, trở lại Huế, với gươm đao, búa liềm, với AK 47, với B40, bắn sập thành phố, thẳng tay chém giết hàng loạt dân lành vô tội, để trả mối hận xưa…” (trang 89).


Xin hỏi ông, làm sao Việt cộng từ phía Tây có thể vào thành phố dễ dàng như thế ? Ai cho phép chúng vào, nếu không phải là Mỹ, Tổng thống Việt nam Cộng hoà, Trung tá Khoa, Trưởng ty Cảnh sát Đoàn công Lập, Phó trưởng ty Liên Thành ? Ai cho những kẻ “theo giặc, theo trí Quang” trở lại thành phố ? Liên Thành, vì Thành đã biết chúng về ngày nào, ở đâu, tên gì…nhưng không bắt ! Ai cho chúng “bắn giết hàng loạt dân lành vô tội” tại Huế ? Trung tá Tỉnh trưởng Phan văn Khoa, Trưởng ty Cảnh sát Đoàn công Lập và Liên Thành; vì nếu những người này không muốn, thì họ đã chận đánh ngay từ khi tập trung quân tại thượng nguồn sông Bồ, khi đưa quân về ém tại La chữ, về Nam hoà, thậm chí khi thấy chúng ở quanh vùng Phủ Cam, Từ đàm, Hương trà…!!! Nếu nói chúng “trở về trả thù”, vậy sao cả nhà ông Liên Thành không đứt sợi lông chân, mà chỉ toàn dân vô tội ? Tôi đồng ý hoàn toàn rằng, CHÍNH CỘNG SẢN VÀ NHỮNG KẺ A TÒNG ĐÃ GIẾT NGƯỜI, NHƯNG KHÔNG THỂ ĐỔ TẤT CẢ TỘI LÊN ĐẦU CHÚNG BỞI VÌ NGƯỜI DÂN HẦU HẾT LÀ PHẬT TỬ, MÀ THEO ÔNG LIÊN THÀNH THÌ PHẬT TỬ THEO CỘNG SẢN; KHÔNG LẼ PHE TA GIẾT PHE MÌNH ???
Chỉ cần đặt một câu hỏi là tại sao 7 ngày đầu Mỹ nằm ngủ không đánh; tại sao Việt cộng không đánh Mỹ, thôi không tấn công BCH/CS Thừa thiên, thì mọi cái gọi là “bí mật” nó “lòi ra hết chơn hết choại”.

Với một thành phố nhỏ nhoi như Huế, với khoảng 130.000 người; mà mười ngàn thằng Cộng sản chui vào với cả quân dụng và trọng pháo, lại được “vào như chỗ không người”, thì chúng khạc nhổ cũng chết hết, chứ làm sao Ty Cảnh sát không bị tấn công dữ dội ? Chỉ vì nếu tấn công thì chết ông Liên Thành, sao được; mọi chuyện đã sắp đặt rồi ???

Do những lý do vừa trình bày trên đây, thì việc treo cờ của cái Mặt trận Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình, nó chẳng cần thiết và phi thực tế. Đáng cười hơn là ông Lê văn Hảo thuộc loại gốc to “cao giống” lại không được quan tâm mấy, thế nhưng ông Liên Thành lại muốn chơi “pháo giật” ! Ông nghĩ là chẳng ai dám “giật pháo” chăng ? Thưa, không hẳn vậy đâu. Hãy coi chừng kẻo nát tay như ông Phó ty Huỳnh văn Thiện đấy. Khi mà “pháo giật” đã nổ, thì hàng loạt bì bùm liên tu bất tận. Nên nhớ lấy câu:”chơi dao lâu ngày đứt tay”. Hiếp người vừa thôi chứ ?
Thảm trạng Mậu thân 1968 là một sự thật vô cùng bi đát cho Dân tộc Việt, mà kẻ hưởng lợi là “chú Ngư ông”, chứ chẳng phải ai khác. Chính quyền Miền Nam, Ngụy quyền Miền Bắc, những kẻ tôi tớ hèn mọn đều làm tôi cho một chủ, cấu kết với nhau tiêu diệt Dân tộc Việt, lấy đất nước Việt làm nơi trút xuống những dư thừa vũ khí chiến tranh. Tôi đứng hẳn trên lập trường Quốc gia, Dân tộc Việt để lên án một cách kiên quyết những kẻ lợi dụng “nước đục béo cò” để hưởng lợi. Tôi không chống lại ông Liên Thành, tôi chỉ chống sự tiếp tục gây mâu thuẫn, chia rẽ để cai trị người dân Việt. Đã biết quá khứ là một đau thương, hiện tại là một nhiễu nhương dưới gót sắt Cộng sản, một thứ phẩm của Thần Chiến tranh Tây phương, thì chúng ta không thể để cho con cháu chúng ta lại dẫm chân lên một lần nữa. Phải hiểu rõ rằng, cả hai miền đều bị điều khiển bởi ma vương, quỷ dữ; và ông chủ tối cao của nó với một bàn tay “rất sạch sẽ” đã nhuộm máu quê hương. Xót xa vì thân phận nước nhỏ, nghèo nàn, chúng ta phải thấy hết, phải nói hết để ngăn ngừa những oan uổng sau này.

Để độc giả hiểu thêm về chuyện lá cờ, tôi xin trích dẫn một vài bằng chứng đều thuộc “phe ta” :


*Sử gia Trần gia Phụng

“Qua cửa Chính Tây, Việt cộng tiến chiếm Đại nội. Việt cộng dùng bờ thành Đại nội để bảo vệ Kỳ đài, nơi đó, ngày 31-1 (mồng 2 Tết), Việt cộng treo một lá cờ lớn của MTDTGPMNVN.(14) Từ Kỳ đài, Việt cộng tiến quân theo mé bờ tả ngạn sông Hương (tức bờ phía bắc), chiếm đồn Cảnh sát chợ Đông Ba, bắt tay với một cánh cộng quân khác cũng của E-6, làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Ba, Gia-Hội.


*Thiện giao Phóng viên RFA (phỏng vấn ông Trần ngọc Huế, chỉ huy Đại đội Hắc báo và ông Nguyễn văn Ngẫu, Trung đoàn 3; hai vị tái chiếm và treo cờ tại Kỳ đài Huế)

Dựng lại cờ VNCH trên Kỳ Đài ở Phú Văn Lâu Đại Nội, biểu tượng của kinh thành Huế, nằm gần Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu. Lúc ấy, cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vẫn đang bay giữa trung tâm Huế. Thế rồi, đến ngày 18 tháng Hai, ông Nguyễn Văn Ngẫu và đơn vị nhận được lệnh trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Tại đây, tướng Tư Lệnh Ngô Quang Trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ đặc biệt cho tiểu đoàn của thiếu uý Nguyễn Văn Ngẫu: Đánh chiếm và dựng lại cờ Việt Nam Cộng Hoà ở Kỳ Đài.


“Hướng dẫn đại đội ra khỏi Sư đoàn và đến đường Mai Thúc Loan, tướng Trưởng chỉ vào lá cờ Mặt Trận Giải Phóng cách khoảng 1 cây số, nói “nhiệm vụ của toa đấy.” Rồi ông đưa bản đồ hành quân, các cơ quan liên lạc, và hỏi tôi hai câu. Tôi trả lời, chính tôi là kẻ muốn thắng trận, và tôi ngỏ ý cần một lá cờ để thay thế cờ Mặt Trận.”.Cùng thời điểm ấy, người chỉ huy Đại Đội Hắc Báo cũng ngỏ lời với tướng Ngô Quang Trưởng, yêu cầu được giao nhiệm vụ tái chiếm Đại Nội:“Cuối cùng chúng tôi yêu cầu Tướng Tư Lệnh được tái chiếm Đại Nội, là biểu tượng về nền tự chủ và độc lâp của Việt Nam từ năm 1802. Chúng tôi được vinh dự lãnh trách nhiệm tái chiếm Huế từ tay Cộng Sản. Và chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của con dân Huế và miền Nam.”10 giờ sáng ngày 22, cờ Việt Nam Cộng Hoà được kéo lên Kỳ Đài sau khi 2 người lính đã bị phía Bắc Việt từ Đại Nội bắn tỉa. “Bên kia là toà tỉnh, các phái đoàn tổng tham mưu, truyền hình, truyền thanh, hàng chục ngàn dân nhìn lên lá cờ để tưởng niệm những ngày tang thương nhất qua đi. Nhìn lá cờ mà rưng rưng nước mắt, bao nhiêu ngày bị bao phủ bởi khổ đau.”Hai giờ chiều cùng ngày, Đại Đội Hắc Báo chiếm Đại Nội: “Tấn công nhưng phải bảo vệ di tích lịch sử. Phải bảo tồn. Chúng tôi cũng yêu cầu người Mỹ như vậy. Tôi là con dân Việt Nam, tôi tôn trọng di tích tổ tiên để lại.”. Hàng ngàn người vô tội bị giết hại. Hai ngày sau, Huế hoàn toàn được vãn hồi an bình. Người dân trở lại thành phố, vừa ngơ ngác, vừa vui mừng, vừa chờ đợi. Họ chờ đợi sự trở lại của những người thân đã bị bắt đi trong thời gian phía Bắc Việt chiếm Huế.”

Trên đây là lời của những chiến sỹ tái chiếm Huế, hạ cờ bọn MTGPMN xuống và treo cờ VNCH lên, ai cãi lại được ? Cả lý luận lẫn thực tiễn đều rõ ràng. Như thế, đã chứng tỏ Liên Thành viết cuốn Biến động Miền Trung với một ác tâm rất cao; đó là sự bóp méo lịch sử Dân tộc Việt, hãm hại Phật giáo. Ai chống lại điều này, xin minh chứng ngược lại.
BQK-31-01-09

LIÊN THÀNH VÀ MẮM TÔM 12

Bảo quốc Kiếm

Chương 12: Tìm lại khăn sô

Hơn bốn mươi năm, kể từ khi cộng sản Tổng tấn công Tết Mậu thân, tôi chỉ tin tưởng vào những gì mà chính quyền Việt nam Cộng hoà giải thích. Tôi không hề suy nghĩ khác đi chút nào, vì chính mắt tôi đã thấy những chuyện tai ác động trời mà người Cộng sản đã làm. Trong những kẻ chết oan khuất ấy có cha tôi, và nhiều người thân kể cả nội ngoại. Nay bỗng chốc đọc được cuốn sách Biến động miền Trung, tôi giật mình tỉnh giấc. Thì ra, chúng tôi mải mê chiến đấu, mỗi người một lãnh vực nào đó, đã cố gắng thực hiện trọn vẹn bổn phận của chính mình. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Dân tộc và Đồng bào, kiên quyết góp công bảo vệ miền Nam tự do thân yêu và ước mong đưa cả nước thoát vòng khổ lụy của cái tai nạn thời đại là Chủ nghĩa Cộng sản Tây phương. Chúng tôi có biết đâu rằng, những kẻ cầm quyền cả hai miền chỉ là bọn tay sai cho quỷ dữ, tàn hại quê hương, nô lệ đồng bào dưới những hình thức tuy hai mà một. Đến giờ này, tôi mới hiểu ra rằng, thảm nạn Mậu thân là một mật ước của cả ba tên gian hùng: Mỹ- Việt cộng- Việt gian tại miền Nam !!! Đau đớn hơn nữa, khi thấy Chủ tịch Ủy ban Hành pháp trung ương, rồi thành Phó tổng thống: Nguyễn cao Kỳ đang ung dung hưởng thụ ở Việt nam, một số Chính trị gia và tướng tá đang hùa theo cộng sản hiện nay. Tay ba Thiệu -Kỳ -Loan và kẻ chủ động đằng sau là Đại tướng “Thủ tướng liên miên” Trần thiện Khiêm đã tạo ra tất cả khổ nạn cho dân Việt, chứ không ai khác. Tôi sẽ lật lại tất cả hồ sơ để chỉ rõ những bộ mặt tôi tớ gian hùng của cả hai miền. Nhưng chuyện đó từ từ sẽ nói trong những chương cuối cùng.
Khi bài thứ nhất: LIÊN THÀNH VÀ MẮM TÔM của tôi mới được đưa lên NET, ông ký tên “Danthan123” đã hùng hổ chửi bới tôi một cách thẳng tay và còn đe doạ;

“-Tức là nhà ngươi ăn cắp… hồ sơ Cải tạo viên… chết trong trại Cải tạo…mà không có thân nhân thăm nuôi..vì ngươi là tên Công An …học thuộc lòng tiểu sử họ…trà trộn vào đám H.O để qua Mỹ ngày 17-6-1996 để tiếp tục làm ’chó săn ’trên net. Yên chí đi Cứ quậy đi…BQK sẽ bị FBI tóm cổ nay mai…..Tómlại :


-Mi chính là Tên Ám Sát Đỏ …tàn sát 5327 người dân Huế Tết Mậu Thân ,ngươi chính là Hoàng phủ ngọc Tường –tên giáo sư Việt văn trường trung học Quốc Học Huế .Là giáo sư Việt văn nên ngươi cố ý viết lung tung…loạn xạ ngầu …để không ai nhận ra ngươi…vì đã có vài lần trước đây trên Net,…ta thấy nhà ngươi "cải chày cải cối' và ra mặt thách thức … cô nhà văn Nhã Ca -tác giả "Vành khăn sô cho Huế " -Tác phẩm này đã được quay thành phim năm 1969 tại Huế - Vì tên Nguyễn Bảo Kiếm nằm vùng trong QL/VNCH tại Thừa Thiên, cũng không dám lộ mặt công khai để làm chuyện tày trời như vậy.Chỉ có bản mặt Sát nhân …hắc ám…với nốt ruồi "giết người" trên mặt ngươi …đã làm chứng sự ác tâm của kẻ có trí thức …nhưng không có bản chất đạo đức… mà chính VC hay rêu rao: "Trí thức như nhà ngươi không bằng cục cứt bò ! ".

Tôi không trách chi ông ấy cả; ngược lại còn cám ơn ông “Danthan123” đã thúc đẩy tôi đi tới. Trong một đoạn văn ngắn này, có một câu mà tôi không hiểu, đó là nói rằng tôi “cải chày cải cối” và ra mặt thách thức cô Nhã ca, tác giả “Giải khăn sô cho Huế”. Thú thật, từ khi bà Nhã ca viết sách cho đến nay, tôi chưa hề đọc bao giờ. Lý do đơn giản là vì tôi ở ngay giữa lòng của Huế trong giai đoạn bi hùng nhất, nên không cần phải đọc. Mặc dù tai nạn Mậu thân xảy ra tôi không có mặt ở Huế, nhưng khi trở lại tôi đã nghe và chứng kiến tất cả đau thương. Vậy thì, lý do gì, và lúc nào mà tôi thách thức bà Nhã ca ? Ông ấy lại cho tôi là Hoàng phủ ngọc Tường, mới vui chứ ! Từ đó, tôi biết ngay ông này có lẽ hơi khùng, và chưa đọc như tôi, nhưng muốn làm oai nên chửi tôi loạn xị cho hả miệng. Cũng được, không sao cả, ông hãy gắng lên. Vì lý do này, tôi phải tìm cho bằng được cuốn sách ấy để đọc, xem sao.

Hỡi những người mù, nay tớ xin phép bà Nhã ca, đang là Chủ Việt báo, tóm lược một vài nét trong nội dung để rửa mắt cho thiên hạ.

Cuốn sách “Giải khăn sô cho Huế” gồm 9 chương. Nội dung chỉ là kể lại những đau khổ của gia đình bà khi chạy loạn, và những gì bà nghe được từ những người khác, hay những chuyện nhỏ mà bà thấy. Có thể tóm lược như sau:

**Chương 1: “Những giờ đầu tiên”. Kể chuyện thấy VC vô, Mỹ tới, rồi chạy lên nhà thờ dòng Chúa cứu thế. Có hai chi tiết quan trọng nhất. Một là Bé nói: Đã nghe lịnh cấm trại mà còn về (?). Thứ hai là VC mặc Kaki vàng, đi dép.

**Chương 2: “Dòng Chúa cứu thế”. Kể chuyện sống chung trong nhà thờ với nhiều khổ cực. Đàn bà đẻ, hai cô cậu hành dâm, người đàn bà ôm đứa con chết trên tay…Trong phần 2 kể việc gặp hai phòng viên ngoại quốc trong nhà thờ, chạy qua Cung An định, thấy VC giết một người, rồi bỏ chạy…

**Chương 3: ”Những mảnh vụn góp nhặt”, bà kể về chuyện Việt cộng vào nhà, những đối đáp giữa những người có mặt và bọn cán binh VC. Chúng bắn chết một người bỏ chạy. Hai chuyện khác là bà nghe VC đấu tố và giết người. Nghe khu vực Từ đàm, Thành nội, Gia hội, Kim long bị đại bác tiêu hủy…

**Chương 4:”Qua một chuyến đò”. Bà kể lại chuyện rời Cung An định, qua đò, về nhà người chú. Trong chương này có một đoạn quan trọng là:

”Đây đoàn người đi lên một lúc, chúng tôi định chạy ra khỏi quán để về nhà, nhưng từ phía Phủ Cam, tiếng chân, tiếng kêu khóc bỗng vang dội. Rồi một đoàn người nữa xuất hiện trước khi tiếng súng ròn rã nổ như mưa, tiếng máy bay gầm như xé trời và đại bác không kịp thở. Ðoàn người đến gần dần, Thái sửng sốt: "Trời ơi, dân, dân chạy loạn." Ðoàn người có đến cả trăm người, dẫn đầu là mấy ông cha, một hai ông sư. Họ cầm cờ trắng, làm bằng đủ thứ vải tơi tả, lá cờ hàng phục, lá cờ sợ hãi. Họ vừa đi, vừa chạy như những con lật đật. Phía sau những lá cờ trắng, những người dẫn đầu, dân chúng bồng bế nhau. Kẻ gánh người gồng chạy lúp xúp….



Tôi nhớ tới một đồn binh trống trơn không một người lính gác. Tôi cũng không nhìn thấy một xác nào vắt ngang hàng rào. Như thế là nghĩa lý gì, đêm đầu tiên không nổ súng không tấn công đồn là gì ? Vô lý, bao nhiêu lính trong thành phố đều chết. Người đàn ông tản cư tới hồi chiều vừa cho biết là Việt cộng vẫn chưa lấy được một đồn binh nào, nhưng đồn binh nào cũng bỏ không.

**Chương 5:”Người ở Từ đàm về kể chuyện”. Một người kể chuyện về ông Võ thành Minh và bà vợ ông Lê văn Hảo ở trong nhà thờ cụ Phan. Ông Minh cứ đàn hát, cứu thương, và chăm sóc cả vợ con ông Lê văn Hảo, chủ tịch Mặt trận Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình và là Chủ tịch Cách mạng Tỉnh Thừa thiên !!! Ông Minh khẳng khái không tuân lệnh bọn cán binh. Ông chống cả Mỹ lẫn Cộng sản. Câu nói hay nhất là :”Mả cha nó, bắn nhau, giết nhau, chỉ có dân chịu khổ”. Rồi nhà bà chạy về Thuỷ dương 1.

**Chương 6:” Đi về trong lửa đạn”. Chương này ghi nhận những khổ nạn của người Huế. Họ dắt nhau, chở nhau chạy, cả kẻ sống và người chết. Trong đoạn này có một câu mà bà Nhã ca ghi lai khá hay:

”Mấy người Mỹ đứng ngắm đoàn người rồi nhe răng cười vô duyên, chả hợp tình hợp cảnh chút nào”.Và bà nhắc lại: “Trên đó nát hết rồi, thành bình địa rồi.” Có người còn nói y như mình đã chứng kiến tận mắt: Trên đó thì chỉ có Việt cộng chớ dân thì còn ai nữa. Nội đại bác bắn ngày đêm, mười mấy ngày nay cũng đủ chết rồi, đừng nói súng đạn, đừng nói chuyện họ đấu tố. Tui ở Bến Ngự mà thấy mùi hôi bốc xuống nì. Chó nó lên tha cả cánh tay, cả khúc chân còn đầy thịt, rùng rợn lắm.”

Rồi nhà bà trở về An cựu. Đi lòng vòng gặp chàng thanh niên tên Khâm bị thương.

**Chương 7:”Chuyện từ thành nội”. Bà nghe anh Khâm kể lại rằng:

-“Tôi kêu lên sửng sốt. Thôi chết rồi, Ðắc đã trở về. Nhưng tôi không tin Ðắc có thể là một người cộng sản được. Ngày trước, tôi cũng có chân trong nhóm tranh đấu với Ðắc. Ðắc thường tâm sự là anh không thể chấp nhận cộng sản. Rồi một thời gian sau, vì bị theo dõi, ruồng bắt, Ðắc trốn đi…”



-"Anh không biết đó, dưới đường Ông Ích Khiêm, họ bắt hết rồi. Công chức, quân nhân bị bắt đi hết. Nhất là mấy người làm sở Mỹ… Ðắc ngồi nói chuyện với má và em gái tôi rất lâu. Ðắc kể cho má tôi và Hường nghe những nỗi cực khổ trước khi lên núi. Ðắc nói nửa khôi hài, nửa mỉa mai:

-"Hồi cháu chỉ tranh đấu mà bị bắt, bị đánh đập quá sức tưởng tượng. Bác biết không, chúng nó đập nát cả hai bàn tay của cháu. Người cháu còn đầy thẹo, cháu chết đi sống lại. Ân đền oán trả chớ bác. Cháu lên núi tầm sư học đạo, nay thành tài trở về cho chúng biết mặt. Cháu không muốn hại ai, nhưng nợ máu phải trả chớ bác."….”Tiếng Ðắc cười ran. Tiếng cười đầy uất hận xói vào đầu tôi làm tôi choáng váng. Rồi một tiếng súng nổ. Một tiếng thét lớn. Xong rồi. Nhưng không, một tiếng nổ nữa, một tiếng thét nữa. Cứ tiếp tục như thế. Tôi mấy lần thót cả tim, rồi thở phào nhẹ nhõm cho kẻ bị tội. Chết là hết. Nhưng lạ chưa, mỗi tiếng súng là mỗi tiếng thét, thêm một tràng cười điên dại của Ðắc. Tiếng súng ngừng hẳn sau một tiếng kêu hãi hùng của Tý. Lần này thì tôi yên tâm cho Tý rồi…”

Và thanh niên tên Khâm đã chết.

Kết của chương 7 là:

”Trưa đó, chúng tôi đang ăn cơm thì nghe một tiếng nổ như sét trên đầu. Cả nhà lại vất hết bưng đầu chui vào hầm. Lại đánh nhau chăng ? Nhưng chỉ có một tiếng nổ lớn rồi thôi. Hai cánh cửa sổ đang đóng bật ra, thêm một ít ngói trụt để lộ những mảnh da trời màu chì. Mấy tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới biết là một toán lính Mỹ đi ngang gần đồn An Cựu, ngồi nghỉ chân tại bên đường, kiểm lại thấy mất một cây súng. Vậy là họ kéo vào một căn nhà lầu đẹp nhất bỏ trống, đặt mìn giật nổ cho hả giận…”
**Chương 8: “Trở về ngôi nhà cũ”.Trong chương này bà kể về vài chuyện bà thấy; hoặc trực tiếp nghe:

“Người em đưa tay lên trời, chỉ về phía thành phố đang bốc khói: “Tui thề không đội trời chung với chúng nó. Anh thử coi, con em gái tui bị thương sáng đầu tiên, nhà cháy. Ba tui với em tui chở nó đi nhà thương. Khi nớ mô đã biết Việt cộng chiếm hết thành phố. Rõ ràng là Mỹ với Việt cộng bắn nhau rồi nhà tui cháy. Đạn trúng mạ tui không phải B40 mà là đạn của Mỹ ở ngoài đường bắn vô. Mạ tui chết vì đạn Mỹ chớ không phải của Việt cộng. Rồi ba tui chở em tui, chị gái tui cũng đi theo, đi giữa đường bị trúng bom đạn chi đó chết luôn. Chôn ngoài trường Kiểu mẫu. Trời ơi, tụi tui tới nơi chỉ còn thấy mấy cái thẻ kiểm tra và cái bình thủy đựng nước sôi đã nguội ngắt đặt bên mấy ngôi mộ vùi nông…”



-“Tụi này ở Sè gòng mới ra.” Một người vừa trả lời vừa đi. Người đi tiếp theo thò tay vào ba lô lấy ra hai hộp nhỏ liệng vào chân Thái: “Biếu bạn. Mừng bạn còn sống.” Người đi tiếp theo lôi ra một gói thuốc, người tiếp theo nữa lại liệng thêm ít đồ hộp. Tôi chạy theo trả lại: “Các anh cầm đi mà ăn, còn đánh nhau nhiều mà.” “Thôi cô cầm đi. Chúng tôi biết có sống mà ăn không! Đi quyết tử mà.”
Vài nụ cười, vài cái nhún vai. Tôi đứng sững người nhìn theo.


Mấy hôm nay có nhiều tin tung ra: lính tới vùng nào an ninh là vơ vét, chở đồ của dân bỏ lại chạy loạn. Người ta hối hả trở về để giữ của, và vì sự vội vàng mà nhiều người chết oan. Nhưng đoàn quân này sao khác hẳn. Một thỏi kẹo nữa văng tới chân tôi. Tôi không còn đủ sức cúi xuống nhặt nữa. “Mừng các bạn còn sống.” Mấy người lính đi sau tiếp tục la hét. Những bàn tay vẫy đưa trả lại, những nụ cười chào nhau tiếp theo. Đoàn lính đi qua dần, tôi đã cúi xuống được, cầm chặt thỏi sô cô la trong tay và bóp vụn nát lúc nào không biết nữa. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy những người lính dễ thương như thế. Họ là lính miền xa đến để chết ở Huế. Họ người Sài Gòn, người Bắc di cư, người các tỉnh miền Nam, miền Trung, miền Bắc. Họ đến để chết với Huế. Trời ơi, tôi nghĩ tới những người lính địa phương, một số đã bỏ đồn chạy về ngay từ hôm đầu, một số đợi hơi yên là xổ ra, đi vác gạo, đi vào những căn nhà bỏ không lấy đồ. Những món ăn béo bở Việt cộng đã khuân đi từ mấy ngày đầu xẩy ra biến loạn, những món cặn thừa còn lại dành cho kẻ thừa nước đục thả câu. Tôi đã thấy hai người lính khiêng chiếc xe Honda, vài người khác khiêng tủ, khiêng ghế, hoặc bọc những vật dụng lấy trong các nhà đổ nát, còn hôi rình xác chết. Thái đã ôm mấy hộp đồ lên tay và giục tôi trở vào…

Khi nghe kể chuyện, má tôi cảm động muốn khóc. “Không răng. À, chỉ có con Hy bị trúng một miểng đạn vô chân. Mà không răng, trên đó có mấy tên y khoa, hắn băng bó cho rồi. Nhờ có ông già mặc áo the đen và Hà thuật lại, tôi biết thêm rất nhiều về tình hình trên Từ Đàm. Gia đình anh tôi phải bỏ sang lánh nạn bên nhà thờ cụ Phan. Xung quanh đã gần tan tành hết. Chùa Từ Đàm nơi chính diện cũng sập mái, nhà giảng thì bị đại bác câu tới tấp, tan tành. Mấy ngày đầu, Việt cộng chiếm chùa để trú ngụ và tạm thương, nhưng về sau họ rút dần lên phía trên núi, chỉ có cắt quân canh gác và đào hầm chiến đấu. Ôn Minh cho biết hiện ở chùa có hàng trăm người tỵ nạn và xung quanh đó, nhiều nhà đã sập hoàn toàn. Con đường từ nhà thờ cụ Phan xuống tới cầu Bến Ngự, hai bên nhà cửa không còn một căn nguyên vẹn. Gia đình anh tôi chạy qua hết bên nhà cụ Phan cùng với nhiều gia đình và những người tỵ nạn khác. Hà chỉ vào ông già: “Chị biết ai đây không? Ông Võ Thành Minh đó.” Thấy tôi ngơ ngác, nó nói thêm: “Ông là người thổi sáo bên hồ Genève phản đối chia đôi đất nước hồi 54 tề, chị...”

-Tôi không nỡ kể cho em tôi nghe về những trái đại bác câu lạc lúc gần sáng. Tôi cũng dấu luôn chuyện đụng độ mỗi ngày xảy ra trên quốc lộ. Chỉ cần sau ruộng, sau xóm có một vài phát AK, hay vài quả B40 bắn ra là cả con đường này có thể tan tành hết. Ngay ngày đầu tiên nổ súng, quân Mỹ cũng lên được tới An Cựu coi tình hình để rồi sau đó về nằm yên một nơi cho Việt cộng hoành hành. Khi đi ngang qua khỏi nghẹo, một phát súng ở đâu phía sau Miểu Đại Càng bắn ra. Đoàn quân Mỹ dừng lại, một vài người Mỹ đi vào nhà gần nhất lôi ra một thanh niên. Anh này biết nói tiếng Anh, là một giáo sinh trường sư phạm Quy Nhơn về thăm nhà. Anh đưa giấy tờ, nói chuyện với người Mỹ. Nhưng họ đâu cần biết. Một phát súng nổ, người thanh niên tội nghiệp ngã xuống đất, co dúm người lại. Người Mỹ leo lên xe lái về Phú Bài. Trong căn nhà gần đó, mọi người đổ túa ra ôm lấy xác thanh niên khóc lóc. Một vài anh giải phóng đang đóng quân trong những nhà mặt sau tiến ra: “Đả đảo quân Mỹ tàn ác giết dân.”
“Chúng tôi xin chia buồn. Đây là một cái chết anh dũng, một người vì dân vì nước.”
Một lá cờ màu mạ nhỏ được đắp lên mặt người chết. Một lúc sau mọi người rút đi hết. Chỉ còn thân nhân của xác chết vẫn chưa ngớt gào khóc, nhưng rồi tiếng khóc của họ cũng chìm dần trong tiếng súng nổ ran bốn phía. Còn nhiều nữa, làm sao tôi có thể kể cho em tôi nghe hết. Mới mấy ngày trước đây, quân Mỹ mất một khẩu súng đã giật đổ một căn nhà lầu. Mới mấy ngày trước đây, dãy nhà bên kia đường có một gia đình mới về. Đêm hôm đó quân giải phóng về bắt người chủ gia đình đi mất. Người này làm gác dan hay giữ xe gì đó cho một chi nhánh cảnh sát. Ông ta đã già và chắc tới nay đã ra người thiên cổ. Hà vẫn đi bên tôi trở vào…”


-“Tối hôm đó, mấy chị em nằm cạnh nhau, Hà kể chuyện Từ Đàm, cho biết tất cả chùa đều bị sập. Quân giải phóng treo cờ làm trụ sở chính ở chùa Linh Quang, và tổ chức những buổi học tập tại đó. Mấy ngày đầu không ai được ra khỏi nhà. Ở trong nhà làm hầm, ở ngoài quân giải phóng đào hố cá nhân, không khí có vẻ khẩn cấp lắm. Nhưng mấy ngày đầu hoàn toàn được yên tĩnh, không ai lo sợ mấy, đến khi đại bác câu tới, dân chúng mới hoảng hốt đi tản cư. Nhưng ra đường là chết. Tôi hỏi họ có treo cờ đỏ sao vàng không. Hà nói chỉ có cờ máu mạ. Ngay ngày đầu, họ đã hô hào hạ hết “cờ ba que” xuống và kiếm vải may cờ màu mạ. Thái hỏi thăm về đoàn cán bộ xây dựng nông thôn đóng ở trường học mấy hôm trước Tết. Hà ngao ngán: Tụi đó nó chạy đâu mất hết từ khi có tiếng súng nổ, vất đồ lại lung tung. Khi em lên tới thì không có chi nữa. Hà tả cho tôi nghe những cô nữ cán bộ. Các cô này đi thăm dân, vào từng nhà hỏi han, nhưng các cô vào nhà ai là làm cho trẻ con, bà già sợ rụt lưỡi lại.”
**Chương 9:”Con chó giữa dòng”. Xin trích vài đoạn:

“Như vậy là hết, từ người già cả, cổ xưa nhất như cậu tôi, tới đứa nhỏ lai Mỹ đều đã bị quật chết trong trận chiến. Mỗi ngày có bao nhiêu tấn bom đạn, đã trút xuống đầu thành phố Huế. Mấy ngày nay, máy bay bay nhiều vô số. Ðứng ngoài quốc lộ, chúng tôi có thể nhìn thấy những chiếc phản lực liệng nhanh như chớp và thả xuống từng loạt bom, tiếp theo những tiếng nổ, dù dội xa, nhưng vô cùng kinh khủng. Ra xa hơn, đứng ở bên này sông nhìn sang, chợ Ðông Ba trở thành bình địa, nhà cửa bên phố như quấn chặt trong đám khói mù. Mỗi tiếng nổ, cát bụi, gạch ngói lại bay tơi tả như một trái pháo khổng lồ nổ tung xác…” - “Người chạy với chó, chó chạy với người. Những con chó ở đâu chạy theo đoàn người mà nhiều thế không biết. Một con chó đen bị những bước chen lấn, chạy tràn xuống một đầu cầu mép sông. Bỗng một phát súng nổ, con chó kêu một tiếng thảm thiết, lăn tròn và rơi xuống nước. Tiếng cười ồn ào nổi lên. Mấy người Mỹ đen, Mỹ trắng đứng trên cầu tiếp tục bắn ngăn không cho con chó lội lên bờ. Con chó cứ xa dần bờ, kêu oẳng oẳng, hết sức thảm thương. Những viên đạn vẫn bắn tới tấp nhưng hình như không định giết con chó, mà chỉ giữ không cho nó vào bờ. Có những viên đạn bắn trệch lên bờ đường, những viên khác dội xuống nước. Ðoàn người tản cư chạy tới hỗn loạn, kêu khóc rền trời. Tiếng kêu khóc càng to thì tiếng cười của một số người Mỹ bên kia sông cũng càng lớn. Ngã xuống rồi đứng dậy, đứng dậy rồi chúi nhủi. Dân tộc tôi đấy sao? Con chó đang cố lóp ngóp lội vào bờ tìm sự sống đó sao? Ðáng thương cho dân tôi, nước tôi, thân phận người dân không bằng một trò đùa, không bằng một con chó. Tôi cúi xuống nhặt hòn đá cầm chặt trong tay. Tôi bóp chặt hòn đá như bóp chặt tim mình. Quăng đi, liệng vào mặt chúng. Ðồ dã man, tàn bạo. Trong một lúc, nhìn đoàn người lúc nhúc chạy, la khóc, sợ hãi, tôi bỗng uất hận tràn người. Dân tộc da vàng nhỏ bé thật, nhưng còn gì béo bở nữa đâu? Con chó chạy rong dài trong bao ngày đã khô nước miếng, đã lở loét, rụng lông. Tôi đưa hòn đá lên. Liệng đi. Liệng vào mặt chúng rồi ra sao thì ra. Nhưng không, hòn đá mà làm được gì! Con chó đã xa bờ lắm. Nó cố kêu lên mấy tiếng nữa, rồi hai chân trước không phải bơi mà đập nước lung tung. Tôi thả rơi hòn đá xuống đất. Ðoàn người la hét khóc lóc đã đi qua được đoạn đường, một vài gói đồ rơi lại không kịp nhặt. Ðoàn người khác tiếp tục đi tới. Con chó bây giờ đã chìm cả mình xuống nước, mặc cho giòng nước lặng lẽ cuốn đi cùng những giòng máu đỏ thấm hồng mặt nước sông xanh. Tôi nuốt nước miếng, cổ họng khô đắng, nước mắt như muốn trào lên. Thái đứng cạnh tôi im lặng. Mặt nó và Hà cùng tái nhợt trong một nỗi thống khổ, nhục nhã như không bao giờ gột rửa được… Thôi, súng Nga Sô, Tiệp Khắc, súng Mỹ, đã san bằng, đạp nát một thành phố của cổ kính, của lịch sử. Không bao giờ còn dựng lại được nữa. Tôi không hy vọng gì nữa. Ngày thường, tôi ít để tâm đến vấn đề này, nhưng lúc này, nhìn những tấn bom trút xuống thành nội, lòng tôi đau thắt lại.”



Tôi hỏi thăm về một người bạn cũ, cũng là cháu nội của cụ Cường Ðể: "Thạch Hà đã tản cư được chưa ?" "Chị Hà cùng núp trong nhà thờ cụ Phan. Bữa hầm sập, chị Hà mất một đứa. Thì anh bồng con nhỏ đó đi xuống cầu Bến Ngự, con Ti Na, Nô Răng cầm cờ trắng. Bà Xếp với mấy người nữa đi đằng sau nì. Mà nó bắn nơi chân đó. Chị Hà tản cư lên miệt Tây Thiên. Anh là nhờ có ôn Minh dò đường mới xuống đây được đó chớ."……….. -"Chết hết rồi, chết hết rồi. Họ đặt bộ chỉ huy ở trường Gia Hội, đấu tố, giết chết hàng ngày. Ghê lắm." ……..- Tôi thì tôi không tin được như thế. Có thể ông đã bị bắt đi như những lời đồn. Ông bị bắt đi cùng thầy Ðôn Hậu. Như vậy, có thể ông không bị giết. Có được không ? Nhưng tôi vẫn nghi ngại lắm. Hai đứa bé con lai Mỹ thì tội tình gì ? Một nhà sư như thầy Ðôn Hậu, một hướng đạo, một chiến sĩ như ông Võ Thành Minh.” . Rồi sau đó, bà đi vào Sài gòn……………
Trên đây, tôi chỉ lược trích một vài đoạn trong cuốn “Giải khăn sô cho Huế” của bà Nhã ca, chứ tôi không bình phẩm gì cả. Nhưng qua đó, chúng ta chia xẻ những đau đớn với đồng bào Huế, hâm nóng lại tình tự dân tộc, xẻ chia với tâm sự của ông Võ thành Minh: ”Mả cha nó, đánh nhau, giết nhau. Chỉ có dân là khổ”. Tôi tha thiết với cảm niệm sâu sắc của bà Nhã ca rằng:” Bỗng một phát súng nổ, con chó kêu một tiếng thảm thiết, lăn tròn và rơi xuống nước. Tiếng cười ồn ào nổi lên. Mấy người Mỹ đen, Mỹ trắng đứng trên cầu tiếp tục bắn ngăn không cho con chó lội lên bờ. Con chó cứ xa dần bờ, kêu oẳng oẳng, hết sức thảm thương. Những viên đạn vẫn bắn tới tấp nhưng hình như không định giết con chó, mà chỉ giữ không cho nó vào bờ. Có những viên đạn bắn trệch lên bờ đường, những viên khác dội xuống nước. Ðoàn người tản cư chạy tới hỗn loạn, kêu khóc rền trời. Tiếng kêu khóc càng to thì tiếng cười của một số người Mỹ bên kia sông cũng càng lớn. Ngã xuống rồi đứng dậy, đứng dậy rồi chúi nhủi. Dân tộc tôi đấy sao? Ðáng thương cho dân tôi, nước tôi, thân phận người dân không bằng một trò đùa, không bằng một con chó………………………………………………………………………………………”.

Ngay trong cuốn sách này, chúng ta ghi nhận những sai khác với lời của Liên Thành. Một là, ông Tráng Cử, cha Liên Thành không hề chung lưng cứu tế với ông Võ thành Minh. Thứ hai, con bà Hà chết vì sập hầm, chứ không phải trên đường chạy giặc như ông Thành nói. Thứ ba, tất cả mọi người đều thấy bọn CS treo cờ “giải phóng”, chứ không phải là của Mặt trận Dân tộc dân chủ và Hoà bình. Một điều quan trọng khác là, tất cả các đồn đều không có lính, chứ VC không hề đánh chiếm gì cả. Tại sao ??? Đọc lại các trang 73 và 74, chúng ta thấy cả hai cánh quân của CSBV đều có các tiểu đoàn pháo binh, nhưng tuyệt nhiên không hề bắn phá các đồn bót của VNCH, bao gồm cả Bộ tư lệnh Sư đoàn I, Tiểu khu, Ty Cảnh sát, Tỉnh đoàn Xây dựng nông thôn và các đồn bót, căn cứ Pháo binh của chúng ta. Tại sao ? Tại vì đã có MẬT ƯỚC. Do đó, khi Cộng sản tập trung quân, tiến về Thành hố Huế, Sư đoàn I vẫn không cựa quậy; Tiểu khu vẫn im re; Ty Cảnh sát bất động; Tỉnh đoàn Xây dựng nông thôn vẫn nằm ngủ; lính các căn cứ bỏ đi đâu mất không một bóng người…Bảy ngày Mỹ không động thủ…và sau đó Pháo binh VNCH và Mỹ chỉ nả đạn vào Thành phố để giết dân, chứ chưa phản công chi cả. Dĩ nhiên CS cũng chết luôn. Hồ chí Minh thua to, Nguyễn văn Thiệu….Liên Thành mừng rỡ đã trả thù được Huế. Nhưng tiếc thay kẻ chiến thắng không phải là ai khác, mà là



tải về 1.3 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương