Hình A.4: Biểu đồ quan hệ giữa Uth/Uth max với k2/k1
K1- Hệ số thấm của nền; K2. Hệ số thấm của bản đáy móng
a. trường hợp không có bản cừ trong nền;
b. trường hợp có bản cừ trong nền.
Từ hai biểu đồ đó thấy rằng, khi tỉ số k2/k1 lớn thì Uth giảm tới 10 lần so với trường hợp bản đáy công trình coi như không thấm nước.
Mặt khác, nếu xét riêng về đất đá nền thì hiện nay có hai quan điểm khác nhau. Một số người thì cho rằng chỉ trường hợp điểm tiếp xúc giữa các hạt đất đủ nhỏ (Hình A.5a) thì mới có thể coi rằng toàn bộ phản áp lực tác dụng nên mặt đáy móng công trình. Trong trường hợp này phản áp lực tác dụng nên bản thân hạt đất thì có thể biểu thị bởi biểu đồ nêu ở phía phải Hình A.5a còn nếu như diện tiếp xúc giữa các hạt đất đá với nhau cũng như các hạt đất đá với mặt đáy móng công trình đủ lớn (Hình A.5b) tạo nên bởi những liên kết xi măng thì phản lực không truyền toàn bộ lên mặt đáy công trình được mà một phần bị những điện tích tiếp xúc cản trở. Trong trường hợp này, phải lấy giá trị phản áp lực tính toán bằng tích của phản áp lực toàn vẹn với hệ số triết giảm 2 (với 2 <1, thường được xác định bằng thực nghiệm).
Một số nhà nghiên cứu khác (K.Terzaghi, M.N.Ger-xevanov v.v…) thì lại cho rằng thực tế phải lấy phản áp lực toàn vẹn làm phản áp lực tính toán (2 = 1) bởi vì sự sai khác do những nguyên nhân phân tích ở trên là không đáng kể, ngay cả đối với trường hợp nền đất sét (2 = từ 0,95 đến 0,98).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |