Lời Giới Thiệu Lịch sử Triết học


C. HỆ THỐNG KHÔNG CHÍNH THỐNG



tải về 1.37 Mb.
trang3/16
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích1.37 Mb.
#11086
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

C. HỆ THỐNG KHÔNG CHÍNH THỐNG


1. Trường phái Lokayata

Trường phái Lokayata xuất hiện khá sớm trong phong trào đấu tranh chống lại truyền thống Vêđa và chế độ đẳng cấp ở Đông An. Tương truyền rằng, Brihaspati là người sáng lập ra trường phái Lokayata đầy tính duy vật, vô thần, khoái lạc này.

Phái Lokayata cho rằng, vạn vật (kể cả con người) đều được tạo thành từ 4 yếu tố là đất, nước, lửa, gió (Tứ đại). Tính đa dạng của vạn vật là do sự kết hợp khác nhau của các yếu tố ấy mà thành. Còn linh hồn (ý thức) chỉ là một thuộc tính của cơ thể, do thể xác (vật chất) sinh ra, vì vậy, nó khả tử. Hơn nữa, phái Lokayata phủ nhận cả thuyết luân hồi, nghiệp báo; chế giễu quan niệm giải thoát…; đồng thời khẳng định con người chỉ sống có một lần trên thế gian; vì vậy, con người cần phải sống cho chính cuộc đời này chứ không phải cho cuộc đời nào khác.

Phái Lokayata coi cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của nhận thức, họ phủ nhận tính xác thực của nhận thức suy lý gián tiếp. Đặc biệt, họ lên án mạnh mẽ những suy luận trong Vêđa hay những kết luận được rút ra từ Vêđa. Việc phủ nhận thần thánh, thiên đường, điạ ngục và cuộc sống sau khi chết… đã đưa phái này đến với những quan niệm đạo đức khoái lạc, để từ đó, họ chủ trương giải phóng con người ra khỏi những kìm chế ham muốn, kêu gọi con người nên tận hưởng đầy đủ những gì mà mình mong muốn thỏa mãn.

Do xa lạ với truyền thống tôn giáo và chế độ đẳng cấp của Ấn Độ mà phái Lokayata bị công kích dữ dội, nó chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.

2. Trường phái Jaina

Trường phái Jaina (Kỳ na giáo) là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ V TCN. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Jaina là một người đàn ông xuất thân từ đẳng cấp thứ hai trong xã hội, sinh ra ở ngoại thành Vaixali thuộc tỉnh Biha ngày nay, sống cùng thời với Phật Thích Ca. Năm 30 tuổi, do bị chấn động bởi sự kiện cha mẹ nhịn ăn tự tử vì lòng tin tôn giáo mà ông đã từ bỏ tất cả (gia đình, tiện nghi, quần áo…) đi lang thang tu khổ hạnh khắp miền Tây Bengan. Sau khi đắc đạo, ông được người đời kính phục, đặt biệt hiệu là Mahavira (Đại anh hùng) và được tôn làm Jina (Người khắc phục được mọi ham muốn). Ông đã lập ra đạo Jaina.

Tư tưởng triết học cơ bản của đạo Jaina là thuyết về cái tương đối. Thuyết này cố dung hòa quan niệm về thực thể bất biến (trong Upanisát) với quan niệm vô thường (trong Phật giáo) và cho rằng, thực thể đầu tiên là bất biến, nhưng vạn vật – các dạng tồn tại cụ thể của nó thì biến chuyển không ngừng. Thế giới, vạn vật là sự thống nhất của cái bất biến và cái biến đổi. Thực thể có hai trạng thái cơ bản là jiva (sống) và ajiva (không sống). Jiva bao gồm quỷ, thần, người, chim, thú, cây, cỏ… mang lý trí, có linh hồn. Ajiva bao gồm không gian, thời gian, vận động, vật chất… Jiva và ajiva luôn liên kết tác động lẫn nhau. Phái Jaina coi linh hồn là lực lượng toàn năng và tồn tại đa dạng, nhưng năng lực của chúng bị hạn chế bởi thân xác mà nó liên kết. Muốn giải phóng và phát huy sức mạnh của linh hồn cần phải tu luyện một cách máy móc theo giới luật của đạo Jaina; cụ thể là thực hành: bất sát sinh, bất bạo lực, không hại sinh linh, sống khổ hạnh, không của riêng, ăn chay trường, không dùng vải che thân

3. Trường phái Phật giáo

Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Nó ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

a) Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo

Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Xítđácta Gôtama (Siddhartha Gautama, 563-483 TCN), con vua Sutđôđana (Suddhodana), thuộc bộ tộc Thích ca (Shakya) của nước Capilavaxtu, - một nước nhỏ ở miền Đông - Bắc Ấn Độ, nằm dưới chân dãy Himalaia, nay thuộc đất Nêpan.

Năm 29 tuổi, Thái tử Xítđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Nhưng qua 7 năm, theo các bậc chân tu khổ hạnh của truyền thống tu luyện Ấn Độ mà Ngài vẫn chưa tìm ra chân lý. Cuối cùng, Ngài lang thang đến cánh rừng thiêng Uravela (Gaya, thuộc tỉnh Bihar, miền Bắc Ấn Độ) và ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm, Ngài phát hiện ra bản tính vô ngã, vô thường của thế giới. Ngài tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đề thêm 49 ngày nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau. Ngài cho rằng mình đã tìm được con đường cứu vớt chúng sinh. Từ đó trở đi, người ta gọi Ngài là Phật (Buddha), nghĩa là người đã giác ngộ - thấu hiểu chân lý. Sau khi thành Phật, Ngài xây dựng Giáo đoàn Phật giáo để rao giảng giáo lý của mình và được đệ tử tôn xưng là Thích Ca Mâuni, nghĩa là bậc hiền triết của dòng tộc Thích Ca.

Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc An Độ. Để chấn chỉnh giáo lý, giáo luật và tổ chức, từ thế kỷ V-III TCN, đạo Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa. Từ nửa sau thế kỷ III TCN, đạo Phật truyền sang Xri Lanca, rồi sau đó truyền đến Myanma, Thái Lan, Inđônêxia… Đầu thế kỷ I, đạo Phật triệu tập đại hội 4 ở nước Cusan để thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách gọi là Đại thừa, còn giáo lý của đạo Phật cũ gọi là Tiểu thừa.



Kinh điển của Phật giáo có khoảng 5000 quyển, chia thành Tam tạng. Tạng Kinh ghi lại những lời giảng của Phật Thích ca nhằm giúp chúng sinh loại trừ phiền não và đạt đến niết bàn. Tạng Luật ghi lại những giới luật mà giáo đoàn Phật đề ra đòi hỏi các đệ tử phải tuân theo để cho thân - tâm thanh tịnh. Tạng Luận ghi lại những lời luận bàn của các bậc cao tăng, trưởng lão nhằm làm sáng rõ ý nghĩa của những lời kinh, để giúp người đời phân biệt được phải - trái, chính - tà. Tam tạng lại chia làm hai loại là Đại thừaTiểu thừa3.

Tiểu thừa như là một cỗ xe nhỏ, con đường cứu vớt hẹp. Phái tiểu thừa cho rằng: Chỉ có một Phật duy nhất là Phật Thích Ca, và chỉ có Phật Thích Ca mới cứu độ chúng sinh được; chỉ có những người xuất gia đi tu mới được Phật Thích Ca cứu vớt đưa đến Niết bàn - cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không có phiền não khổ đau.

Đại thừa như là cỗ xe lớn, con đường cứu vớt rộng. Phái đại thừa cho rằng: Phật Thích Ca là Phật cao nhất, ngoài ra còn có các Phật khác như Phật A Di Đà – vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây, Phật Di Lặc - vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này (cõi Tabà), Phật Đại Dược Sư - vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Đông (cõi Tĩnh lưu li); Không chỉ có những người tu hành mà cả những người trần tục quy y Phật pháp cũng đều có thể được cứu vớt đưa đến niết bàn4, nghĩa là có thể thành Phật - đó là các vị Bồ tát như: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Am, Địa Tạng…, dù đã thành Phật nhưng họ tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh. Phái đại thừa đề cao tầng lớp tăng ni – người trung gian giữa tín đồ và Bồ tát, coi trọng nghi thức cúng bái và chủ trương thờ tượng Phật.

Sau đại hội lần thứ 4, các nhà sư được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo. Từ Ấn Độ, Phật giáo đại thừa lan truyền vào các nước Trung Á và Đông Á như Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Nhật Bản (cả Bắc Việt Nam)… Trong khi đó, Phật giáo nguyên thủy - Phật giáo tiểu thừa vẫn tồn tại phổ biến ở các nước Đông Nam Á như Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam... Ngày nay, sự chia rẽ giáo lý tiểu thừa và đại thừa đã được Phật giáo thống nhất ra sức khắc phục.



b) Một số tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy

Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy - tức tư tưởng của Phật Thích Ca – chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca, và được trình bày trong bộ Kinh.



  • Thế giới quan: Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh trong thuyết duyên khởi và được làm sáng tỏ qua phạm trù vô ngã vô thường.

+ Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là các pháp đều do nhân duyên mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Còn nhân duyên là nguyên nhân và điều kiện. Duyên giúp cho nhân biến thành quả. Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của vạn vật. Từ đây, Phật giáo nguyên thủy chủ trương vô tạo giả tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới. Quan niệm vô tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường.

+ Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả. Trong thế giới, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc, tức vật chất như đất, nước, lửa, giódanh, tức tinh thần như thụ, tưởng, hành, thức mà không có đại ngã hay tiểu ngã gì cả.

+ Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế giới, sự xuất hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc danh; khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi. Điều này có nghĩa là, vạn vật luôn nằm trong chu trình sinh – trụ – dị – diệt; chúng luôn bị cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới...; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp – tan, tan – hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.

Như vậy, thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên luận ngả về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất phác.



  • Nhân sinh quan: Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy. Nó thể hiện cô động trong câu nói của Phật Thích Ca: Hỡi chúng sinh, ta chỉ dạy cho các người chỉ có một điều, đó là điều khổ và diệt kho; Nếu nước biển có một vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị là vị giải thoát. Nhân sinh quan của Phật giáo được trình bày trong thuyết Tứ diệu đế 5 với bốn bộ phận là: khổ đế, tập đế, diệt đếđạo đế.

+ Khổ đếlý luận về những nỗi khổ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ (yêu thương mà phải chia ly), sở cầu bất đắc khổ (muốn mà không được), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải sống với nhau), ngũ uẩn khổ (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn - sắc, thụ, tưởng, hành, thức).

+ Nhân đế lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con người. Phật giáo cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát ra khỏi dòng sông luân hồi. Mà luân hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…), do sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do Tam độc (tham, sân, si) gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn giải một cách lôgích và cụ thể trong thuyết Thập nhị nhân duyên (12 nguyên nhân dẫn đến bể khổ): vô minh, hành, thức, danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử. Trong 12 nguyên nhân ấy thì vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.

+ Diệt đếlý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt tới niết bàn. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân hồi sẽ chấm dứt…, tâm sẽ thanh thản, thần sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất hiện… Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho mọi người thấy cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc "tuyệt đối", muốn hướng khát vọng chân chính của con người tới chân – thiện - mỹ.

+ Đạo đế lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung cơ bản của nó thể hiện trong thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng sinh đến niết bàn, đó là: chính kiến (hiểu biết đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói chân thật), chính nghiệp (hành động đúng đắn), chính mệnh (sống một cách chân chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn), chính niệm (ghi nhớ những điều hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng vào một điều chính đáng). Chung quy, bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn… ; nhưng về thực chất, thực hành bát chính đạo là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ). Trong đó, tham được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh); sân được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính định); si được khắc phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).

Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu); rèn luyện Tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xa)… Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện…

Như vậy, dù nhân sinh quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính nhân bản sâu sắc; nhưng, nó cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan thể hiện qua các quan niệm bi quan yếm thế, không tưởng về đời sống xã hội, và thần bí về đời sống con người.

Chương 3

TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI

I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN. CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN

1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển

Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ Trung Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông Trường Giang ở phía nam. Lúc mới lập quốc, tức vào thế kỷ XXI TCN, Trung Hoa chỉ là một vùng nhỏ ở trung lưu sông Hoàng Hà. Dần dần, lãnh thổ được mở rộng, đến thế kỷ XVIII về cơ bản được xác định như hiện nay.

Dân tộc chủ yếu của Trung Hoa hiện nay là dân tộc Hán, mà tiền thân của nó có nguồn gốc Mông Cổ, được gọi là Hoa Hạ (hay Hoa / Hạ), sống du mục, thích săn bắn và chinh phục. Còn cư dân phía nam Trường Giang là các dân tộc Bách Việt, chủ yếu sống bằng nông nghiệp, định canh, định cư, có nền văn hóa riêng, nhưng sau này, dần dần bị dân tộc Hán đồng hóa.

Lịch sử Trung Hoa cổ đại đầy biến động nhưng có thể khái quát như sau:

Theo truyền thuyết, vào thời thái cổ, Trung Quốc là một xã hội thanh bình do những thủ lĩnh tài đức dắt dẫn là Phục Hy, Thần Nông, Toại Nhân (thời Tam hoàng). Đến nửa đầu thiên niên kỷ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc họ Cơ, hiệu là Hiên viên, mà người Trung Hoa tôn gọi là Hoàng Đế và coi là thuỷ tổ của mình. Tiếp theo Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn và Hạ Vũ cũng là những thủ lĩnh tốt (thời Ngũ đế). Khi Hạ Vũ mất, con là Khải được tôn lên làm vua. Trung Hoa bước vào xã hội có nhà nước. Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ, và trải qua 2 vương triều nhà Thương và nhà Chu.

Vương triều Hạ (~thế kỷ XXI - thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại tới thời vua Kiệt thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ, chữ viết chưa có, dân cư sống phân tán chịu sự chi phối bởi những thế lực tự nhiên và ma thuật.

Vương triều Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tỉnh điền6; ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; ý tưởng về lực lượng siêu nhiên hình thành qua biểu tượng Đế (Thượng đế hay Trời); chữ viết đã xuất hiện.

Vương triều Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8 thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định. Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi vào tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu (722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN). Thời Xuân thu, đất nước loạn lạc với hơn 400 cuộc chiến lớn nhỏ làm cho 160 nước ban đầu sau hơn hai thế kỷ đánh nhau chỉ còn lại có 5 nước lớn là Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở (cục diện Ngũ bá). Sau đó, xuất hiện hai nước nữa là Ngô và Việt (cục diện Thất hùng). Vào thời Chiến quốc, những cải cách hiệu quả đã làm cho nhà Tần ngày càng mạnh. Với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác, thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của xã hội Trung Quốc…7

2. Các đặc điểm cơ bản

Mặc dù xã hội đầy biến động nhưng trong sự biến động đó, nhân dân Trung Hoa đã tạo nên một nền văn hóa rất rực rỡ8, đã tạo nên nhiều hệ thống triết học nhằm đưa ra những phương cách giải quyết khác nhau cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại đặt ra.

Từ thế kỷ XV TCN đến thời Xuân Thu, những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng về cơ bản, chúng vẫn chưa thể hiện như một hệ thống. Thế giới quan thần thoại - tôn giáo chi phối mạnh đời sống tinh thần của người Trung Quốc. Dù vậy, trong chương Hồng phạm của kinh Thư vẫn nổi bật bởi tư tưởng Cửu trù, tức 9 phép trị nước: ngũ hành, ngũ sự, bát chính, ngũ kì, hoàng cực, tam đức, kế nghi, thứ trung, ngũ phúc - lục cực; trong đó, ngũ hành, ngũ sự, bát chính thể hiện rõ triết lý về vũ trụ và nhân sinh – xã hội. Còn trong kinh Dịch, nổi bật bởi tư tưởng về Âm dương, Bát quái. Chúng không chỉ được người Trung Quốc dùng để bói toán mà nó thể hiện triết lý của họ về vũ trụ, xã hội và con người.

Tư tưởng triết học có tính hệ thống được hình thành trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm góp phần biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc bấy lâu nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm tác phẩm ra đời, cho nên, thời này còn được gọi là thời Bách gia chư tử. Trong hàng trăm học phái đó có 6 học phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia.

Sang thời kỳ phong kiến hưng thịnh, Nho gia đã vươn lên vai trò thống trị. Năm 136, Hán Vũ Đế chấp nhận kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã ra lệnh bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật. Mặc dù được đề cao, nhưng để giữ vai trò thống trị lâu dài, Nho gia phải hấp thụ các tư tưởng có giá trị của các trường phái khác. Điều này đưa đến sự phát triển đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các trường phái triết học Trung Hoa. Nhìn chung, triết học Trung Hoa cổ đại có những đặc điểm cơ bản sau:



Một là, triết học Trung Hoa cổ đại là một hệ thống đồ sộ, bao quát nhiều vấn đề triết học, nhưng nó chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề do thực tiễn đạo đức - chính trị - xã hội của thời đại đặt ra.

Hai là, triết học Trung Hoa cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động.

Ba là, triết học Trung Hoa cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất (Thiên - Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ nền triết học này.

Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học Trung Hoa cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mìnhchịu ảnh hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh Dịch.

II. CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC



1. Am dương gia

Tư tưởng về Âm dương và tư tưởng về Ngũ hành là hai luồng tư tưởng xuất hiện rất sớm từ thời nhà Thương. Đó là hai cách giải thích khác nhau về về bản nguyên, về cấu tạo, về tính biến dịch của thế giới - vũ trụ, vạn vật và con người. Sang thời Chiến quốc, Trâu Diễn đã thống nhất hai luồng tư tưởng đó với nhau dưới tên gọi Am dương gia.



a) Lý luận Âm dương

Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ, cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai cái (lực lượng) đối lập nhau là âmdương. Và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là do sự không điều hòa được hai lực lượng ấy. Nội dung cơ bản của lý luận Âm dương chủ yếu thể hiện trong nguyên lý Âm dương.



Âm là một phạm trù đối lập với dương, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện tượng, tính chất, quan hệ…) và khuynh hướng như: giống cái, đất, mẹ, vợ, nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn..., tĩnh, tiêu cực

Dương là phạm trù đối lập với âm, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện tượng, tính chất, quan hệ…) và khuynh hướng như: giống đực, trời, cha, chồng, cương, cường, sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ..., động, tích cực…

Âmdương không chỉ phản ánh hai loại yếu tố (lực lượng) mà còn phản ánh hai loại khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau; vì vậy, trong âm có dương, và trong dương có âm. Đó cũng là sự thống nhất giữa cái động và cái tĩnh; trong động có tĩnh, và trong tĩnh có động…; nghĩa là, trong âm và trong dương đều có tĩnh và có động; và chúng chỉ khác ở chỗ, bản tính của dương là hiếu động, còn bản tính của âm là hiếu tĩnh…

Do thống nhất, giao cảm với nhau mà âm và dương có động; mà động thì sinh ra biến; biến tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cữu được. Như vậy, sự thống nhất và tác động của hai lực lượng, khuynh hướng đối lập âm và dương tạo ra sự sinh thành biến hóa của vạn vật; nhưng, vạn vật khi biến tới cùng thì quay trở lại cái ban đầu.

Tóm lại, nội dung nguyên lý Am dương được khái quát và tóm tắt như sau:

Một là, âm và dương thống nhất, giao hòa lẫn nhau; trong âm có dương và trong dương có âm.

Hai là, âm và dương tác động, chuyển hóa lẫn nhau; dương cực thì âm sinh, dương tiến thì âm lùi, dương thịnh thì âm suy; và ngược lại.

Nội dung nguyên lý Am dương có thể diễn đạt bằng biểu tượng Thái cực, -vòng tròn khép kín, trong đó được chia thành nửa đen, nửa trắng; trong nửa đen có chấm trắng, và trong nửa trắng có có chấm đen. Trong biểu tượng Thái cực có phần trắng là dương, phần đen là âm, chúng nói lên âm và dương thống nhất: trong âm có dương và trong dương có âm; trong thái dương có thiếu âm, và trong thái âm có thiếu dương. Thiếu dương trong thái âm phát triển đến cùng thì có sự chuyển hóa thành thiếu âm trong thái dương, và ngược lại... Cứ như vậy, vạn vật thay đổi, biến hóa không ngừng.



Thái cực là cội nguồn của mọi sự biến hóa trong vũ trụ, nó thống nhất trong mình hai lực lượng đối lập âmdương (Lưỡng nghi). Lưỡng nghi giao cảm, biến hóa lẫn nhau tạo thành Tứ tượng (thái dương thiếu dương, thái âm, thiếu âm)… Khi chưa có chữ viết, âm được ký hiệu bằng vạch đứt ( ), và dương được ký hiệu bằng vạch liền (). Khi lấy dương chồng lên dương, lấy âm chồng lên dương, lấy âm chồng lên âm, lấy dương chồng lên âm ta lần lượt được thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm (các biểu tượng của Tứ tượng). Khi lấy dương, rồi sau đó lấy âm chồng lần lượt lên Tứ tượng ta được 8 biểu tượng của Bát quái: càn, ly, cấn, tốn, đoài, chấn, khôn, khảm. Mỗi quẻ (quái) có ba hào (1 vạch đứt hay liền) xuất hiện dần từ dưới lên là hào 1, hào 2, hào 3. Bát quái được xếp lại thành từng cặp đối lập là: càn – khôn, chấn – tốn, cấn – đoài, khảm – ly.

Trong vũ trụ, Tứ tượng tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng, hành tinh, định tinh. Còn Bát quái tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành vũ trụ đối lập nhau lần lượt là: trời - đất, sấm - gió, núi - hồ, nước - lửa. Ngoài ra, Bát quái còn tượng trưng cho quan hệ gia đình: cha – mẹ, con trai cả – con trai giữa, con gái giữa – con gái út, con trai út – con gái cả; cho tính khí cá nhân: tính kiên nghị – tính ghen tuông, tính phản trắc - tính lừng khừng, tính tháo vát - tính hay chê, tính hay lo - tính hoạt bát; cũng như các hiện tượng, thuộc tính, quan hệ khác v.v..



Bát quái chỉ là 8 quẻ đơn (quẻ có 3 vạch). Khi 8 quẻ đơn này chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép (quẻ có 6 vạch) hay còn được gọi là Trùng quái. Nếu sự phối hợp giữa quẻ đơn trên và quẻ đơn dưới thành quẻ kép sao cho chúng tạo ra sự giao cảm lẫn nhau thì quẻ kép đó là quẻ tốt (cát), còn nếu không tạo ra sự giao cảm thì quẻ kép đó là quẻ xấu (hung). Ví dụ, quẻ Thái được tạo thành bởi quẻ khôn ở trên và quẻ càn ở dưới, tức đất ở trên trời. Quẻ này nói rằng, khi khí dương phải thăng lên và khí âm phải hạ xuống thì chúng sẽ giao cảm với nhau làm thay đổi vị trí, dẫn đến sự biến hóa (phát triển); vậy, quẻ Thái là quẻ tốt. Ngược lại, quẻ Bỉ được tạo thành bởi quẻ càn ở trên và quẻ khôn ở dưới, tức trời ở trên đất. Quẻ này nói rằng, khi khí dương phải thăng lên và khí âm phải hạ xuống thì chúng sẽ không giao cảm được với nhau, không dẫn đến sự biến hóa (phát triển); vậy, quẻ Bỉ là quẻ xấu.

Nguyên lý Âm dương giải thích quá trình biến dịch từ cái duy nhất thành đa dạng của vạn vật trong vũ trụ theo lôgích đơn giản sau đây:

Thái cựcLưỡng nghiTứ tượngBát quáiTrùng quái Vạn vật.

Như vậy, lý luận Am dương phản ánh quan niệm duy vật chất phác về tự nhiên, thể hiện tư tưởng biện chứng sơ khai của người Trung Hoa về cội nguồn và quá trình biến hóa xảy ra trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và con người.



b) Lý luận Ngũ hành

Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại khái quát cho rằng, bản thân vũ trụ cũng như vạn vật trong nó được tạo thành từ 5 yếu tố luôn vận động (Ngũ hành) là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Nội dung cơ bản của lý luận Ngũ hành thể hiện trong quy luật Ngũ hành tương sinh – tương khắc.



Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là phạm trù phản ánh những sự vật, hiện tượng hay thuộc tính, quan hệ như:

Mộc: gỗ, mùa xuân, phương đông, màu xanh, vị chua…

Hỏa: lửa, mùa hạ, phương nam, màu đỏ, vị đắng…

Thổ: đất, giữa hạ và thu, trung ương, màu vàng, vị ngọt…

Kim: kim khí, mùa thu, phương tây, màu trắng, vị cay…

Thuỷ: nước, mùa đông, phương bắc, màu đen, vị mặn…

Sự sinh hoá cho nhau và chế ước lẫn nhau của Ngũ hành xảy ra theo trình tự:

Một là, tương sinh: thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ.

Hai là, tương khắc: thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ.

Có thể diễn đạt sự tương tác sinh - khắc trên bằng biểu tượng đường tròn ngoại tiếp hình ngôi sao năm cánh với các đỉnh lần lượt theo chiều kim đồng hồ là thổ, kim, thuỷ, mộc, hỏa. Theo chiều kim đồng hồ trên đường tròn thể hiện quá trình tương sinh. Còn theo các cạnh hình ngôi sao (cũng tiến theo chiều kim đồng hồ) thể hiện quá trình tương khắc.

Am dương gia cho rằng không chỉ các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên mà cả hoạt động của con người và đời sống xã hội đều tuân theo quy luật Ngũ hành tương sinh - tương khắc 9.

Đến thời Tây Hán, quan niệm về Am dương – Ngũ hành đã được Đổng Trọng Thư phát triển theo tinh thần Nho giáo và lợi ích chính trị của giai cấp phong kiến mới giành lấy vai trò thống trị xã hội Trung Quốc. Nhờ vậy mà cả Nho giáo lẫn các quan niệm về Am dương - Ngũ hành đã có điều kiện chính trị thuận lợi để ảnh hưởng lâu dài trong nền triết học Trung Quốc.

Tóm lại, bằng lý luận Âm dương lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã đứng trên quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát triển của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch pháp, y học... trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại.

2. Nho gia

Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Hoa nói riêng, của nhiều quốc gia phương Đông nói chung.



a) Sơ lược sự hình thành và phát triển Nho gia

+ Khổng Tử (551-479 TCN) là người sáng lập ra Nho giáo vào cuối thời Xuân Thu. Khổng Tử tên Khâu, hiệu Trọng Ni, người nước Lỗ (Sơn Đông) là một nhà tư tưởng, nhà giáo dục lớn và đầu tiên của Trung Quốc. Ông có làm một số chức quan ở nước Lỗ trong mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của mình, ông chu du nhiều nước để trình bày chủ trương chính trị của mình, và sau đó mở trường dạy học. Tương truyền, số học trò của ông có đến 3000 người, trong đó có nhiều người thành đạt mà sử sách gọi là thất thập nhị hiền. Khổng Tử không chỉ dạy học mà còn chỉnh lý các sách (san Thi, dịch Thư, tán Dịch, định Lễ, bút Xuân Thu). Lý luận của ông là một hệ thống triết lý sâu sắc về đạo đức - chính trị – xã hội, được học trò chép lại thành sách Luận ngữ.

Khổng Tử rất quan tâm đến các vấn đề đạo đức – chính trị – xã hội. Ông coi hoạt động đạo đức nền tảng của xã hội, công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người. Lý luận về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… tạo nên nội dung quan điểm về đạo đức của ông. Trong hoạt động chính trị – xã hội, ông chủ trương dùng đức trị 10 và thực hành chính danh 11 để xây dựng một xã hội đại đồng12, - xã hội có trật tự trên - dưới, mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân đều dựa trên địa vị của mình mà làm tròn bổn phận được xã hội giao cho; xã hội có vua sáng tôi hiền, cha từ con thảo, trong ấm ngoài êm…

Nội dung đường lối đức trị của Khổng Tử hướng đến thực hiện 3 điều là: dân đông, kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành đường lối đức trị là: thận trọng trong công việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý… Để xây dựng xã hội đại đồng, Khổng Tử chủ trương dựa vào sự nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách, bồi dưỡng đào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ, hậu học văn học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt, ông yêu cầu học trò phải có tinh thần khiêm tốn và cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực trong học tập…

Đến thời Chiến Quốc, Nho gia bị chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Tuân Tử (315-230 TCN) phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật, còn Mạnh Tử (372-298 TCN) phát triển Nho gia theo xu hướng duy tâm. Họ bất đồng nhau trong việc lý giải bản tính con người. Tuy nhiên, Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho gia nguyên thủy.



+ Mạnh Tử là người nước Trâu (Sơn Đông), học trò của Khổng Cấp. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử tin tưởng sâu sắc vào sự tồn tại Thiên mệnh và cho rằng, mọi việc ở trên đời đều do Trời quyết. Ông lý giải bản tính thiện của con người thông qua lý luận về nhân, lễ, nghĩa trí, trong đó nhân - nghĩa là quan trọng, và từ lý luận này ông khẳng định: Nhân chi sơ tính bản thiện. Mạnh Tử chủ trương thực hành đường lối đức trị dựa trên tinh thần quý dân13, nhân chính thống nhất… Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng, - giai đoạn hình thành Nho gia; vì vậy, Nho gia Khổng - Mạnh còn được gọi là Nho gia nguyên thủy hay Nho gia tiên Tần.

+ Sang thời Tây Hán, Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) đã dựa trên lợi ích giai cấp phong kiến thống trị, khai thác lý luận Am dương – Ngũ hành, đưa ra thuyết trời sinh vạn vậtthiên nhân cảm ứng để hoàn chỉnh thêm Nho gia trong việc giải thích vạn vật, con người và xã hội. Ông đã hệ thống hóa kinh điển Nho gia thành Tứ thư Ngũ kinh, đồng thời đưa ra quan niệm Tam cương14, Ngũ thường15…, Tam tòng16, Tứ đức17… đối với phụ nữ. Những quan niệm này đã nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn đạo đức và nền tảng tư tưởng xã hội, tức trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến thống trị Trung Quốc. Nho gia không dừng lại với tư cách một trường phái triết học vươn lên thành hệ tư tưởng xã hội mà còn được mở rộng thành một hệ thống niềm tin, tín ngưỡng – nghi thức được phổ biến trong toàn xã hội. Nho giáo xuất hiện và Khổng Tử được suy tôn làm Giáo chủ của đạo Học.

+ Cũng từ đời Hán, Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời. Từ đó, có nhiều nhà Nho cho rằng, triết học của Nho cần được bổ sung thêm một số tư tưởng của hai học thuyết kia. Nho gia phát triển tiếp tục. Đặc biệt, sang thời nhà Tống, Nho giáo phát triển rất mạnh. Chính Chu Đôn Di (1017-1073) và Thiệu Ung (1011-1077) là những người đã khởi xướng lý học trong Nho giáo. Với thuyết Thái cực đồ, Chu Đôn Di cho rằng: Nguồn gốc của Vũ trụ là Thái cực; Thái cực có thể động và thể tĩnh; Động sinh ra dương, động cực rồi lại tĩnh, và ngược lại. Am dương tác động sinh ra Ngũ hành, rồi sinh ra vạn vật. Ngoài ra, thời này còn có hai anh em họ Trình - Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107), và Chu Hy (1130-1200)… là những nhà lý học xuất sắc. Họ đã nêu ra thuyết cách vật trí tri 18

Nho giáo tiếp tục chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua các triều đại tiếp theo, nhưng nói chung, Nho giáo trong thời Minh – Thanh không có phát triển mới. Càng ngày, Nho giáo càng khắc khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX, Nho giáo đã thật sự trở nên già cổi, nên không còn sức sống nữa.

Với tính cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc trên 2000 năm, Nho giáo đã đóng góp lớn vào sự nghiệp tổ chức và quản lý xã hội, vào sự phát triển văn hóa và giáo dục, vào quá trình rèn luyện đạo đức cá nhân, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhưng đến cuối thời đại phong kiến, do tính phục cổ, bảo thủ của nó mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp trào lưu văn minh của thế giới.


  • Kinh điển của Nho gia gồm bộ Ngũ kinh và bộ Tứ thư.

Bộ Ngũ kinh bao gồm 5 quyển kinh: Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Kinh Thi là sách sưu tập thơ ca dân gian với chủ đề chính là tình yêu nam nữ; Khổng Tử muốn dùng nó để giáo dục tình cảm lành mạnh cho con người. Kinh Thư là sách ghi lại cách tổ chức hành chính nhà nước, những truyền thuyết, biến cố xảy ra ở đời trước nhằm làm gương cho các đời sau. Kinh Lễ là sách ghi chép những lễ nghi đời trước dùng làm phương tiện duy trì và ổn định trật tự xã hội, giáo dục đạo đức cho con người. Kinh Dịch là sách bàn về những biến đổi của trời, đất, con người và xã hội. Kinh Xuân Thu là sách viết về lịch sử biến động chính trị thời Xuân Thu.

Bộ Tứ Thư bao gồm 4 quyển sách: Luận ngư, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử. Luận ngư là sách ghi lại các lời giảng, dạy, luận bàn của Khổng Tử, do các học trò tập hợp chép lại sau khi ông mất. Đại học là sách dạy cách làm người quân tử, do Tăng Tử - học trò xuất sắc của Khổng Tử soạn ra. Trung dung là sách dạy cách sống dung hòa, không thiên lệch do Khổng Cấp - cháu nội của Khổng Tử, học trò của Tăng Tử viết. Mạnh Tử là sách bàn về tính thiện, về đạo nhân nghĩa do Mạnh Tử - học trò của Khổng Cấp soạn.



b) Một số tư tưởng triết học cơ bản của Nho giáo nguyên thủy

Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử Mạnh Tử về đạo làm người quân tửcách thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước. Nó được trình bày trong một hệ thống các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của xã hội, cơ sở của gia đình không phải là những quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là 3 quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Các quan hệ này được Nho gia gọi là đạo. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo là do 3 quan hệ này rối loạn, do danh - thực oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng. Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh.

Khổng Tử ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan điểm của ông về trời - đất, quỷ - thần không rõ ràng19. Tuy nhiên, để tìm chỗ dựa vững chắc cho lý luận đạo đức của mình, Khổng Tử và cả Mạnh Tử đều xây dựng thuyết Thiên mệnh. Xuất phát từ vũ trụ quan của kinh Dịch, Khổng Tử cho rằng, vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là Thiên mệnh. Còn sự hiểu biết được Thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở thành con người hoàn thiện20. Xuất phát từ quan điểm Thiên mệnh, hai ông tìm kiếm sự thống nhất giữa trời, đất, người vạn vật, đặc biệt là trên bình diện đạo đức – chính trị - xã hội, chứ không để ý đến khía cạnh sinh học - tự nhiên trong con người.



+ Dựa trên thuyết thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và Tính tương cận, tập tương viễn. Điều này có nghĩa là:

Con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống, do điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà người này khác xa người kia. Vậy, tập là nguyên nhân làm biến tính ở mỗi con người, làm cho con người không giữ được tính do trời phú cho, làm cho con người trở nên vô đạo; rồi cả nước, cả thiên hạ vô đạo. Vì vậy, muốn giữ được tính cho con người phải lập đạo; nghĩa là phải làm (giáo dục) cho cả nước, cả thiên hạ hữu đạo.



Đạo phải có giáo mới sâu sắc, vững chắc và rộng khắp. Còn mục đích của giáo là làm cho mọi người, mọi nhà, cả thiên hạ hữu đạo. Hữu đạothể hiện được mối quan hệ giữa người người, giữa ngườitrời đất - vạn vật một cách đúng đắn, nghĩa là phù hợp với thiên mệnh21. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm và dương; lập đạo của đất, nói về cương và nhu; thì lập đạo của người, phải nói về nhân và nghĩa. Quan niệm về nhân nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia nguyên thủy. Chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng

- Quan niệm về nhân: Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản tính con người, chi phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội, và nó được hiểu rất rộng. Khổng Tử cho rằng, nhânlòng thương người (ái nhân); còn Mạnh Tử thì cho rằng, nhân lòng trắc ẩn. Nói chung, nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người. Muốn thực hiện đạo làm người, tức muốn thực hiện đức nhân cần phải: Điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác; Mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt; Khống chế mình theo đúng lễ… Người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn cung, khoan, tín, mẫn, huệ (cung kính, khoan hòa, tín nhiệm, nhạy bén, rộng rãi)…, bên trong gia đình luôn hiếu, đễ (hiếu thảo, nhường nhịn)…

Quan niệm về nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng, ông cho rằng chỉ có người quân tử, tức kẻ cai trị, mới có được đức nhân, còn người tiểu nhân, tức nhân dân lao động, không thể có được đức nhân. Nghĩa là, đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử, của giai cấp thống trị.



- Quan niệm về nghĩa: Theo Nho gia, nếu nhân là lòng thương người, đức nhân dùng để đối xử với người và tạo ra người, thì nghĩadạ thủy chung, đức nghĩa dùng để đối xử với chính mình và tạo ra ta. Đức nhân thể hiện trong quan hệ với người khác; còn đức nghĩa thể hiện trong quan hệ với mình, khi tự vấn lương tâm mình về điều mình nên nói, về việc mình nên làm. Khi nói một điều gì đó hay khi làm một việc gì đó mà ta cảm thấy thỏa mái, thảnh thơi, hứng thú trong lương tâm thì đó là ta nói điều nghĩa, ta làm việc nghĩa. Vậy, nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể làm điều đó có đem lại cho người thực hiện nó ích lợi gì hay không. Khổng Tử cho rằng, con người muốn sống tốt phải biết lấy nghĩa để đáp lại lợi, chứ không nên lấy lợi đáp lại lợi, vì lấy lợi đáp lại lợi sẽ sinh ra oán trách…

Song, do hạn chế bởi lập trường giai cấp, mà Khổng Tử cho rằng, bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về việc lợi. Như vậy, tiểu nhân và quân tử là hai loại người đối lập nhau không phải chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo đức.



- Quan niệm về lễ: Để đạt được nhân, để lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ cương cho xã hội Khổng Tử chủ trương phải dùng lễ, đặc biệt là lễ của nhà Chu. Vì le có thể: xác định được vị trí, vai trò của từng người; phân định trật tự, kỷ cương trong gia đình và ngoài xã hội; loại trừ những tật xấu và tạo ra những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi. Do nhận thấy tác dụng to lớn của lễ mà Khổng Tử đã dốc sức san định lại lễ. Ở Khổng Tử, trước hết, lễ được hiểu là lễ giáo phong kiến như những phong tục tập quán; những qui tắc, qui định về trật tự xã hội; thể chế, pháp luật nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn, tế lễ, luật lệ, hình pháp…; sau đó, lễ được hiểu là luân lý đạo đức như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội trước lễ nghi, trật tự, kỷ cương phong kiến. Nhân và lễ có quan hệ rất mật thiết. Nhân là nội dung bên trong của lễ, còn lễ là hình thức biểu hiện nhân ra bên ngoài. Nhân giống như cái nền tơ lụa trắng tốt mà trên đó người ta vẽ lên những bức tranh tuyệt đẹp. Khổng Tử cho rằng, trên đời không hề tồn tại người có nhân mà vô lễ. Vì vậy, ông khuyên chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ và chớ làm điều trái lễ.

Ngoài quan niệm về nhân, nghĩa, lễ, Nho gia còn bàn đến: trí – tức là sự sáng suốt nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu đạo trời, đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân; tín – tức là lòng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau, dũng – tức là sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết xấu hổ vì cái sai cái xấu để vứt bỏ chúng mà làm theo nhân nghĩa… Chúng là các nguyên tắc cơ bản của đạo đức Nho giáo 22. Khổng Tử còn cho rằng, người quân tử có đủ trí, nhân, dũng. Do có trí nên người quân tử không nhầm lẫn, do có nhân nên người quân tử không buồn phiền, do có dũng nên người quân tử không có gì phải kinh sợ.

Nếu Khổng Tử chỉ chú trọng đến Tam đức (nhân, trí, dũng) thì sang thời Chiến quốc, Mạnh Tử bỏ dũng thay vào đó lễ nghĩa thành Tứ đức (nhân, lễ, nghĩa, trí)23.

+ Cũng dựa trên thuyết Thiên mệnh, nhưng Mạnh Tử cho rằng nhân chi sơ tính bản thiện; bởi vì, khi sinh ra mỗi con người đều có đủ nhân, lễ, nghĩa, trí. Do có nhân nên ai cũng có lòng trắc ẩn, do có nghĩa nên ai cũng có lòng u tố, do có lễ nên ai cũng có lòng cung kính, do có trí nên ai cũng biết lẽ thị phi. Chúng toát ra từ tâm. Là người ai cũng có cái tâm. Tâm là cội nguộn của tính thiện trong con người. Vì vậy, con người cần phải trường kỳ tâm dưỡng kỳ tính, – tức gìn giữ cái tâm thiện ấy. Dù bản tính con người là thiện, nhưng trong cuộc sống của con người vẫn có cái ác. Cái ác ấy xuất hiện là do kỷ cương xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo điên. Để vãn hồi tính thiện ở con người thì phải lập lại trật tự kỷ cương cho xã hội trên cơ sở thực hành đường lối nhân nghĩa24.

Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phải tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo - con đường phải theo, quan hệ mà con người phải biết để ứng xử trong cuộc sống -, mà trước hết là đạo quân – thần, phụ – tử, phu – phụ25 cần phải đạt đức - phẩm chất tốt đẹp của con người cần phải thể hiện trong cuộc sống -, và phải biết thi, thư, lễ, nhạc.

Tóm lại, quan điểm đạo đức – chính trị – xã hội của Khổng – Mạnh là xây dựng mẫu người quân tử. Muốn trở thành người quân tử không chỉ có tu thân, dù tu thân là gốc mà phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Muốn hành động hiệu quả người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị - cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi người như bản thân mình...-, và chính danh, - cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ. Chỉ có như vậy thì người quân tử, tức giai cấp cai trị, mới xây dựng được một xã hội đại đồng.

Nho giáo nguyên thủy khao khát cải biến xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc từ loạn thành trị là một khao khát thầm kín của cả thiên hạ lúc bấy giờ. Nó thể hiện tính nhân bản sâu sắc. Đòi hỏi của Nho giáo nguyên thủy về người cai trị - người quân tử không thể là dân võ biền mà phải là người có một vốn văn hóa toàn diện là một đòi hỏi chính đáng. Nhưng chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng của Nho giáo hoàn toàn không dựa trên các quan hệ kinh tế – xã hội, không xuất phát từ việc xây dựng nền sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị, tức “bọn” tiểu nhân, mà chỉ dựa trên các quan hệ đạo đức – chính trị – xã hội, xuất phát từ việc giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị và chỉ dựa duy nhất vào tầng lớp thống trị là một chủ trương duy tâm, ảo tưởng, xa rời thực tế cuộc sống bấy giờ. Ý tưởng về xã hội đại đồng cho dù đã làm lay động trái tim và khối óc của biết bao con người, nhưng nó mãi mãi chỉ là một lý tưởng chính trị rất cao đẹp của tầng phong kiến thống trị xã hội Trung Quốc. Do không phù hợp với ước vọng của quần chúng nhân dân, vì vậy, nó mãi mãi chỉ là một lý tưởng.

Nho gia nguyên thủy Khổng - Mạnh chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Điều này không có trong Nho giáo hậu Tần. Nho gia nguyên thủy đã làm nổi bật khía cạnh xã hội của con người; tuy nhiên, khía cạnh xã hội của con người đã bị hiểu một cách hạn chế và duy tâm. Đây là điểm khác so với quan điểm của Đạo gia – trường phái triết học nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con người.

3. Đạo gia



Đạo gia được Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN), còn gọi là Lão Đam, tên Lý Nhĩ, người nước Sở, có thời làm quan sử giữ kho sách ở Lạc Ap, sáng lập ra; và sau đó, Trang Tử (369-286 TCN), người nước Tống phát triển thêm vào thời Chiến quốc.

Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ Nam hoa kinh. Đạo đức kinh có khoảng 5000 từ do Lão Tử soạn, nó gồm hai thiên nói về ĐạoĐức. Nam hoa kinh gồm các bài do Trang Tử và một số người theo phái Đạo gia viết… Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo đức. Lý luận này thể hiện quan niệm biện chứng về thế giới, và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi.

a) Lý luận về Đạo Đức

+ Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong thế giới.

Đạo được tạm hiểu như là cái tự nhiên tĩnh mịch, yên lặng, mộc mạc, hỗn độn, mập mờ, thấp thoáng, không có đặc tính, không có hình thể; là cái mắt không thấy, tai không nghe, tay không nắm bắt, ngôn ngữ không thể diễn đạt, tư duy không nhận thức được; là cái năng động tự sinh sôi, nảy nở, biến hóa…

Theo Lão Tử, đạo vừa là cái có trước vừa là cái nằm trong bản thân sự vật; nhưng khi có sự can thiệp của con người thì đạo không còn là đạo nữa. Ông viết: Có một vật hỗn mang thành tựu trước trời đất, yên lặng, mênh mông, một mình độc lập, tản mác khắp nơi, không ngừng ở đâu, coi như mẹ của thế gian… Cái hỗn mang chưa có tên nên tạm gọi là đạo… Đạo mà ta có thể gọi được không phải là đạo; Danh mà ta có thể gọi được không phải là danh. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của vạn vật…



+ Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo,cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.

Theo Lão Tử, đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ đạo mà được sinh ra, nhờ đức mà thể hiện, và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở về với đạo. Đạo sinh ra Một (khí thống nhất), Một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba (trời, đất, người), Ba sinh ra vạn Vật.

Tóm lại, đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang và sẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất - vận hành của vạn vật - nguyên lý Đạo pháp tự nhiên (Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên). Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi) vừa mang tính phổ biến; vì vậy, trong thế giới, không đâu không có đạo, không ai không theo đạo...

Như vậy, quan niệm về đạo của trường phái Đạo gia đã thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy về những vấn đề bản nguyên thế giới được xem xét trong tính chỉnh thể thống nhất của nó.



b) Quan niệm biện chứng về thế giới

Trong triết học của Lão Tử, quan niệm biện chứng về thế giới gắn liền với quan niệm về đạo – đức. Nhờ đức mà đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạocái vô. Cái vô sinh ra cái hữu. Cái hữu sinh ra vạn vật

Lão Tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập. Chúng ràng buộc, bao hàm lẫn nhau. Ông viết: Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là có xấu; hai mặt dài ngắn tựa vào nhau, mới có hình thể; hai mặt cao thấp liên hệ với nhau, mới có chênh lệch; và, trong vạn vật, không vật nào không cõng âm, bồng dương. Trong vạn vật, các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà chúng còn xung đột, đấu tranh, chuyển hóa lẫn nhau tạo ra sự thay đổi, biến hoá không ngừng của vạn vật trong vũ trụ. Tuy nhiên, theo Lão Tử, sự đấu tranh, chuyển hóa của các mặt đối lập này không làm xuất hiện cái mới, mà là theo vòng tuần hoàn khép kín. Ông nói, họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa; cái gì cong thì lại thẳng, trũng lại đầy, cũ thì lại mới...

Lão Tử khẳng định càng tách xa đạo, xã hội càng chứa nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn là tai họa của xã hội. Ông viết: Khi đạo lớn bị phá bỏ thì xuất hiện nhân – nghĩa; khi trí tuệ ra đời thì sinh ra giả dối; khi nước loạn mới xuất hiện tôi trung… Vì vậy, để xoá bỏ tai họa cho xã hội, phải thủ tiêu mâu thuẫn trong xã hội.

Theo Lão Tử, mâu thuẫn trong xã hội được thủ tiêu bằng cách đẩy mạnh một trong hai mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa theo quy luật phản phục (quay trở lại cái ban đầu), hay cắt bỏ một trong hai mặt đối lập để làm cho mặt đối lập kia tự mất đi theo quy luật quân bình (cân bằng nhau). Ông viết: Không tôn trọng người hiền thì dân không tranh nhau, không coi trọng của cải quý báu thì dân không có trộm cắp.

Như vậy, phép biện chứng của Lão Tử mang tính chất máy móc. Vạn vật chỉ vận động tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển.



c) Thuyết vô vi

Khi xuất phát từ nguyên lý Đạo pháp tự nhiên và mở rộng quan niệm về đạo vào lĩnh vực đời sống xã hội, Lão Tử xây dựng thuyết vô vi để trình bày quan điểm của mình về các vấn đề nhân sinh và chính trị - xã hội.



Vô vi sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên; từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. Chỉ khi nào từ bỏ được thói tư lợi thì mới nhận thấy đạo; và chỉ khi nhận thấy đạo mới có thể vô vi được.

Đối lập với vô vi hữu vi. Hữu vi là sống và hành động không theo lẽ tự nhiên, là đem áp đặt ý chí của mình vào sự vật, là can thiệp vào đất trời. Lão Tử phản đối mọi chủ trương hữu vi, vì ông cho rằng hữu vi chỉ làm xáo trộn trật tự tự nhiên vốn mang tính điều hòa, làm mất bản tính tự nhiên của con người, dẫn đến sự xa lánh và làm mất đạo.



Về đường lối trị nước an dân, quan điểm của Lão Tử hoàn toàn đối lập với quan điểm của Khổng Tử. Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời; nhưng, nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Ông viết: Chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa.

Nếu Khổng Tử đòi hỏi người trị vì thiên hạ phải là bậc Thánh nhân với các phẩm chất đạo đức như nhân, lễ, nghĩa, trí…; thì Lão Tử chủ trương bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi. Nếu Khổng Tử chủ trương xây dựng xã hội đại đồng, thì Lão Tử chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thủy chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hòa tan con người vào đạo (tự nhiên). Ông chủ trương xây dựng nước nhỏ, dân ít, có thuyền xe nhưng không đi, có gươm giáo nhưng không dùng, bỏ văn tự, từ tư lợi, không học hành... Dân hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bởi một bờ dậu nhỏ hay một con mương cạn, cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến già, đến chết họ không bao giờ qua lại thăm nhau. Từ thuyết vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là: Từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung.

Tóm lại, những tư tưởng sâu sắc và độc đáo về đạo, về đức, về phép biện chứng, về vô vi trong hệ thống triết học của Lão Tử đã nâng ông lên vị trí những nhà triết học hàng đầu trong nền triết học Trung Hoa cổ đại. Chúng là mạch suối nguồn làm phát sinh nhiều tư tưởng triết học đặc sắc của nền triết học phương Đông nói chung và triết học Trung Hoa nói riêng... Tuy nhiên, sang thời Chiến Quốc, Trang Tử đã biến các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đốithuyết ngụy biện. Từ đó, ông xây dựng quan niệm nhân sinh thoát tục – vị ngã – toàn sinh đầy tính duy tâm, tiêu cực trong trường phái Đạo gia.

Xuất phát từ quan niệm của Lão Tử coi vạn vật đều do đạo sinh ra, Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều là một, mà đã là một thì cần chi phân biệt cái này với cái kia làm gì. Từ đây, ông cho rằng, đúng - sai, trên - dưới, sang - hèn, bần – tiện… đều là như nhau; mà nếu chúng là như nhau thì cần loại bỏ chúng ra một bên để tiến vào vương quốc tiêu dao, coi sống chết bằng nhau, quên vật quên ta, trời đất với ta là một; coi đời là một cuộc giải trí, một cõi mộng mơ mà khi tĩnh dậy không biết ta hóa bướm hay bướm hóa ta.

Do thoát tục mà phải sống trong trần tục nên Trang Tử chủ trương, phải toàn sinhvị ngã, nghĩa là phải yên theo thời mà ở thuận, vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả; không nên “buộc đầu ngựa xỏ mũi trâu”, không khen chê phải – trái, tốt - xấu làm gì, phải lánh nạn để bảo toàn sinh mạng; hay can thẳng mà họ không nghe thì ta nên lui chớ cãi…, bởi vì, một người quân tử chết vì nghĩa và một kẻ tiểu nhân chết vì của cải, thì hai cái chết đó như nhau.

Cách sống dững dưng, thoát tục, vị ngã của trường phái Đạo gia là một phản ứng tiêu cực trước sự bế tắc của thời cuộc bấy giờ.

4. Mặc gia

Trường phái Mặc gia do Mặc Tử (479-381 TCN) tên Địch, người nước Tống, sáng lập. Tư tưởng của phái này được trình bày trong sách Mặc Tử; phản ánh nguyện vọng của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ, tiểu chủ.

Mặc gia phát triển trải qua hai giai đoạn: giai đoạn Mặc Tử và giai đoạn Hậu Mặc. Vào cuối thời Chiến quốc, các triết gia Hậu Mặc (Tướng Lý, Tướng Phu, Đặng Long…) đã khắc phục khá triệt để yếu tố thần bí, phát triển khá đầy đủ các yếu tố duy vật trong các quan niệm về tự nhiên và về nhận thức của Mặc Tử. Từ đó, phái Hậu Mặc đã xây dựng một lý luận nhận thức vượt lên trên các lý luận nhận thức của các trường phái khác đương thời. Tuy nhiên, sang thời Tần – Hán, phái Mặc gia suy yếu và dần dần mất đi.

Quan điểm của Mặc Tử không chỉ khác với Đạo gia mà còn đối lập với Nho gia cả về nội dung bản thể luận triết học và triết lý về đạo đức – chính trị – xã hội lẫn nhận thức luận. Cụ thể:



a) Về bản thể luận và triết lý về đạo đức – chính trị – xã hội

Xuất phát từ thế giới quan duy tâm, Mặc Tử không chỉ tin có Trời mà còn tin có quỷ thần, – những thế lực đầy quyền uy, thiêng liêng, luôn giám sát chặt chẽ mọi hành vi của con người để khen thưởng những việc làm nhân nghĩa hay trừng phạt những hành động độc ác của họ một cách công minh. Dù tin có Trời, nhưng Mặc Tử chống lại thuyết Thiên mệnh của Nho gia và đưa ra thuyết Thiên ý – minh quỷ. Theo ông, ý trời luôn muốn mọi người cùng thương yêu nhau, cùng làm lợi cho nhau; chứ không muốn con người ghét nhau, làm hại nhau. Sự giàu - nghèo, thọ - yểu, hạnh phúc - bất hạnh... không phải do thiên mệnh mà là do nhân tạo. Nếu con người luôn nổ lực làm việc, biết thực hành tiết kiệm tiền của thì nhất định sẽ giàu có, và sớm thoát được cảnh nghèo đói.

Do coi thiên ý – minh quỷ sáng láng, công minh luôn là khuôn phép, mực thước cho hành vi đạo đức của con người mà Mặc Tử chống lại cách hiểu nhân – nghĩa, chống lại việc phân biệt đối xử của Nho gia và đưa ra thuyết kiêm ái.

Theo Mặc Tử, kiêm cũng là nghĩa, đối lập với biệt; còn ái cũng là nhân, đối lập với ố. Kiêm ái cũng chính là nhân nghĩa. Kiêm ái không chỉ là yêu hết thẩy mọi người (không phân biệt người thân – sơ, trên – dưới, làng mình - làng người, nước mình - nước ngoài) như thể yêu mình mà còn là loại bỏ sự chia rẽ, phân biệt, thù ghét; Kiêm áilàm lợi, trừ hại cho mọi người… Nếu Nho gia đối lập nghĩa với lợi, thì Mặc gia coi nghĩa là danh, lợi là thực; chúng hoàn toàn thống nhất với nhau. Việc làm không có lợi là việc làm bất nghĩa.

Ông phản đối đường lối lễ trị, và đòi hỏi thực hiện thượng đồng, thượng hiền, tiết dụng, tiết táng, phi nhạc, thiên chí – minh quỷ, kiêm ái, phi công. Thượng đồng có nghĩa là thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã hội, tán đồng từ dưới lên trên, trên dưới tình ý thông nhau. Thượng hiền có nghĩa là tiến cử và sử dụng người tài giỏi trong việc công. Ai tài thì được làm quan. Quan dốt kém thì bị phế bỏ, mà không kể thuộc giai cấp nào…

Sang thời Chiến quốc, thuyết kiêm ái bị các trường phái khác phê phán mạnh mẽ. Nho gia, Pháp gia coi thuyết kiêm ái của Mặc gia là không nhận có cha, không nhận có vua, vì vậy, con người chẳng khác gì cầm thú.



b) Quan niệm về nhận thức luận

Xuất phát từ chủ nghĩa duy cảm, Mặc Tử cho rằng cái gì lỗ tai, con mắt không cảm thấy là không có. Từ đây, ông bác bỏ thuyết thiên mệnh và đưa ra thuyết Tam biểu. Theo thuyết này, muốn xác định một cái gì đó đúng hay sai, cần phải: một là, xem nó có cái gốc (căn cứ lịch sử) như thế nào; hai là, xem nó có cái nguồn (ý kiến của trăm họ) ra sao; và ba là, xem nó có cái dụng (có lợi cho nhà nước, cho trăm họ) hay không.

Thuyết Tam biểu thể hiện lý luận phản ánh của chủ nghĩa duy vật chất phác; tuy nhiên do chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa duy giác mà quan điểm về nhận thức của Mặc Tử đã ngã về phía chủ nghĩa duy tâm, rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan. Ông đã coi thường nội dung khách quan của kinh nghiệm con người.

Tóm lại, những giá trị của thuyết Kiêm ái, thuyết Tam biểu … đã nâng Mặc Tử lên hàng triết gia lớn vào thời Chiến quốc, và triết học của ông đã ảnh hưởng tích cực đến sinh hoạt của xã hội Trung Hoa cổ đại. Tuy nhiên, thái độ của ông đối với tín ngưỡng, tôn giáo lại mang tính chất thỏa hiệp. Nó thể hiện bản tính nhu nhược của tầng lớp tiểu tư hữu đang bị phá sản dưới chế độ chiếm hữu nô lệ đang suy tàn trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Vì vậy, từ thời Tần – Hán trở đi, không chỉ tư tưởng của riêng Mặc Tử mà của cả trường phái Mặc gia không thể lấn át được các tư tưởng của các trường phái khác trên diễn đàn tư tưởng của xã hội phong kiến ổn định và phát triển.



5. Pháp gia

Pháp gia là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Từ thời nhà Chu, người ta áp dụng hai phương pháp trị dân cho hai tầng lớp xã hội khác nhau: một là, dùng lễ để chi phối cách cư xử của tầng lớp quí tộc thống trị - quân tử, và hai là, dùng hình để trấn áp tầng lớp thứ dân bị trị - tiểu nhân. Từ đó đã hình thành nguyên tắc: Lễ không xuống tới thứ dân, hình không lên đến đại phu.

Dù xuất thân là một nhà Nho, nhưng Quản Trọng (?-645 TCN) chủ trương không dùng nhân nghĩa mà dùng hình pháp để cai trị đất nước. Ông là người đầu tiên bàn về pháp luật như một cách trị nước, và chủ trương công bố pháp luật rộng rãi trong công chúng. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Tùy theo thời thế và ý của dân mà đưa ra pháp một cách rõ ràng; phải chỉ cho dân biết rõ pháp rồi mới thi hành, và khi hành pháp phải giữ cho được lòng tin với dân. Như vậy, có thể coi Quản Trọng là người khởi xướng Pháp gia.

Sang thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển bởi Thận Đáo (370-290 TCN), Thân Bất Hại (401-337 TCN) và Thương Ưởng. Trong phép trị nước, Thận Đáo chủ trương dùng thế, Thân Bất Hại chủ trương dùng thuật, còn Thương Ưởng lại chủ trương dùng pháp. Cuối thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được Hàn Phi Tử (280-233 TCN) hoàn thiện. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về pháp, thế, thuật của 3 nhà triết học trên thành một học thuyết có tính hệ thống và trình bày trong sách Hàn Phi Tử. Mặt khác, Hàn Phi còn kết hợp 3 học thuyết Nho, Lão, Pháp lại với nhau, trong đó, Nho gia được coi là “vật liệu để xây dựng xã hội”, Đạo gia là “kỹ thuật thi công”, còn Pháp gia “bản thiết kế”.

Xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu - Chiến quốc là xã hội nô lệ suy tàn đang chuyển sang xã hội phong kiến. Lúc đó, trật tự cương thường xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Để cải tạo xã hội đó, nếu Nho gia chủ trương dùng nhân nghĩa, Mặc gia chủ trương dùng kiêm ái, Đạo gia chủ trương dùng vô vi... thì Pháp gia lại chủ trương pháp trị. Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ sau đây:

Một là, thừa nhân tính qui luật của những lực lượng khách quan mà ông gọi là ly. chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái của vạn vật luôn luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.

Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có chế độ xã hội nào bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Ông cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.

Ba là, do bản tính con người là ác và do trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong chờ họ làm việc thiện (thực hành nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chận không cho họ làm điều ác (thực hiện pháp trị).

Phép trị quốc của Hàn Phi Tử là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh được tổng hợp từ pháp, thếthuật; trong đó, phápnội dung của chính sách cai trị, thếthuậtphương tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp, thế, thuật đều là công cụ trị nước của bậc đế vương.

Pháp được hiểu là qui định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm của con người trong xã hội. Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp.

Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân quyền). Theo Hàn Phi Tử, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau.

Thuậtphương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo hạchthưởng phạt. Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng pháp như trời, dùng thuật như quỷ. Và nếu pháp được công bố rộng rãi trong dân, thì thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn của vua được dấu kín. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ quyền hạn, và loại được kẻ bất tài.

Trong thời đại bấy giờ, chủ trương của phái Pháp gia dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng mặt khác, phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục… là đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, do thực hành triệt để pháp trị mà nhà Tần đã thống nhất được đất nước và cũng do thực hành triệt để pháp trị mà nhà tần mất nước. Từ thời Hán về sau, dù Pháp gia không chính thức được công nhận, nhưng những tư tưởng có giá trị của phái này đã được các học phái khác hấp thụ để bổ sung, hoàn chỉnh quan điểm của mình.



Chương 4

TRIẾT HỌC HI LẠP CỔ ĐẠI


Каталог: file -> downloadfile1 -> 293
293 -> VĂn phòng chính phủ
293 -> Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn
293 -> Chiến dịch đánh Tống 1075
293 -> BỘ thông tin và truyềN thôNG
293 -> BỘ thông tin và truyềN thông số: 956/QĐ-btttt cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Các lệnh nhảy, vòng lặp và lệnh gọi
293 -> 143 NĂm vưƠng triều nguyễN (1802-1945)
293 -> Chương I các bộ VI điều khiển 8051 1 các bộ VI điều khiển và các bộ xử lý nhúng
293 -> HÀ NỘI – 2006 BỘ XÂy dựng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
293 -> Số 13 Tháng 3/2008 Chiều hướng phát triển dân số và học sinh, hiện tại và tương lai Vũ Quang Việt

tải về 1.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương