LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA


II. CÁC GIÁM MỤC SỬA SOẠN LÊN ĐƯỜNG ĐẾN ĐỊA SỞ TRUYỀN GIÁO



tải về 1.47 Mb.
trang3/21
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích1.47 Mb.
#10372
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21

II. CÁC GIÁM MỤC SỬA SOẠN LÊN ĐƯỜNG ĐẾN ĐỊA SỞ TRUYỀN GIÁO

Như thế Bộ Truyền Giáo đã có trong tay những nhân viên trung thành để đương đầu với những trở ngại và những lạm dụng trong chế độ bảo trợ của người Bồ Đào Nha. Đồng thời các ngài cũng giúp Bộ thu hồi quyền chỉ huy các thừa sai và thành lập hàng Giáo sĩ bản quốc, ở các địa sở truyền giáo. Lúc này Bộ Truyền Giáo còn cần soạn thảo một huấn dụ làm nguyên tắc hoạt động và hướng dẫn lối đi cho các vị đại diện của mình.

Công việc thật khó khăn. Hai Đức Cha Phanxicô Pallu và Lamberto de la Motte không nhận thấy hết. Nhưng Bộ Truyền Giáo đứng cao nhìn bao quát và có trong tay đầy đủ các tài liệu, nên thấy rõ hơn các khó khăn các ngài sẽ gặp khi phải chạm trán với người Bồ Đào Nha và các thừa sai dòng Tên. Cha Lesley là người được Bộ Truyền Giáo trao cho trách nhiệm soạn thảo huấn dụ cho các Giám mục. Ngài đã nhiều lần viết thư hướng dẫn các công việc của các ngài sửa soạn khi chưa nhận được huấn dụ chính thức của Bộ Truyền Giáo.

Về phía người Bồ Đào Nha, Bộ Truyền Giáo được biết, Quốc vương Gioan đã ra lệnh cho các nhân viên của ông ở Rôma, tìm cách ngăn cản không cho các Giám mục lên đường. Đức Cha Phanxicô Pallu không biết thâm ý của họ, đã viết thư cho triều đình Bồ Đào Nha, yêu cầu họ cho chỗ trên tàu qua Ấn Độ. Cha Lesley biết tin đã vội ngăn cản lại. Cha viết : “Các vị là những vị tốt lành, nhiệt thành, có chủ yw ngay lành, thật thà chân thật. Nhưng những người nước khác, nhất là những người Bồ Đào Nha, họ không thế, họ giảo quyệt, che đậy, giả trá. Còn các cha dòng huấn luyện ở nước họ thì đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Giáo Hội, vì thế tôi sợ rằng họ sẽ đưa các vị vào vòng lưới để cản trở chuyến đi của các vị”.

Đối với các thừa sai dòng Tên, hai Đức Cha vẫn mơ ước được cộng tác chặt chẽ với họ. Nhưng cha Lesley cũng đã vạch rõ cho hai Đức Cha những khó khăn các vị sẽ gặp phải với các thừa sai dòng Tên sau này và khuyên các vị nên thận trọng nhất là đối với các cha người Bồ Đào Nha. Cha Lesley cũng gởi riêng cho hai Đức Cha một văn thư bí mật, bàn về thái độ nên theo trong việc đối xử với các thừa sai dòng Tên, mà vì sự giữ gìn đòi hỏi, không thể cho vào trong bản huấn dụ được.

Ngày 10-11-1659, bản huấn dụ được gởi đến hai Đức Cha.

 

1. Huấn dụ Bộ Truyền Giáo

Bản huấn dụ chia làm ba phần, chỉ định những công việc phải làm :

1. Trước khi lên đường

2. Trên đường đến địa sở truyền giáo

3. Ở địa sở truyền giáo

Phần thứ nhất về việc sửa soạn trước khi lên đường. Bộ Truyền Giáo khuyên các Đức Cha chọn lựa nhân viên cộng tác trong số các linh mục nhiệt thành, đạo đức và có tinh thần truyền giáo. Để trợ giúp các thừa sai, cần phải có nguồn lợi và giao dịch với Toà Thánh. Cuối cùng Bộ nhấn mạnh là công việc sửa soạn phải thi hành hết sức kín đáo. Không được tiết lộ các dự định và chương trình, sợ gây ra những khó khăn và vướng trở do người ác ý muốn phá đổ công việc.

Phần thứ hai về cuộc hành trình đến địa sở truyền giáo. Bộ muốn các Đức Cha đừng theo đường biển từ Lisbonna đến Goa, vì sẽ bị người Bồ Đào Nha làm khó dễ, hoặc bắt giữ. Bộ khuyên các ngài theo đường bộ lên Ba Tư, Mông Cổ. Xa hơn nữa, Bộ cũng nhắc các ngài phải giữ bí mật tính danh và mục đích trong cuộc hành trình. Khi đến mỗi nơi sẽ viết thư về Bộ, trình bày tình hình của địa sở truyền giáo với những khó khăn trong cuộc hành trình để làm kinh nghiệm cho người sau.

Phần thứ ba về những nguyên tắc hành động trong địa sở truyền giáo. Bộ nhấn mạnh về bốn điểm :

a. Việc huấn luyện và thành lập hàng Giáo sĩ bản quốc, đi dần đến việc thành lập hàng Giáo phẩm với các Giám mục bản quốc.

b. Luôn luôn liên lạc chặt chẽ với Toà Thánh, trung tâm của Giáo Hội Công Giáo duy nhất.

c. Tránh không dây mình vào vấn đề chính trị và quốc gia.

d. Tôn trong văn hoá và thói tục của người dân, tìm cách thích ứng theo sự khôn ngoan.

Những nguyên tắc trên đây chứng tỏ Bộ Truyền Giáo vẫn trung thành với đường lối Đức Cha Ingoli đã vạch. Nó khác xa với đường lối nhiều thừa sai trong khu vực của người Bồ Đào Nha vẫn theo. Nó ăn hợp với phong trào truyền giáo mới của các Ricci, Rugie và Đắc Lộ.

Bộ Truyền Giáo nhấn mạnh hơn cả về việc thành lập hàng Giáo sĩ bản quốc vì đây là mục đích chính của Bộ khi sai các Đức Cha đến địa sở truyền giáo. Con vấn đề thế tục, trước đây, các thừa sai thường pha trộn chính trị với tôn giáo, nhiều khi còn hy sinh vấn đề tôn giáo vì lời ích quốc gia. Bộ Truyền Giáo, trái lại, yêu cầu các Đức Cha và các Thừa sai của Bộ : “Luôn luôn tránh xa vấn đề chính trị, những câu chuyện quốc gia, tránh tham dự vào công việc thế tục, dù người ta có yêu cầu van nài đi nữa”. Bộ còn nhắc nhở các ngài dù có được biệt đãi, cũng đừng vì thế mà yêu cầu nhiều đặc ân, nhiều miễn chuẩ, có thể gây ra những ghen tị.

Về vấn đề thích ứng với hoàn cảnh xã hội, tôn trọng văn hoá và phong tục của người dân, Bộ đã nêu lên những nguyên tắc vàng ngọc. Lúc đó nhiều thưa sai chủ trương Âu hoá dân bản xứ, rồi mới đưa họ vào Kitô giáo. Cha Đắc Lộ đã đau lòng nhận xét, trong cuốn hành trình truyền giáo của cha. Cha viết : “Ở Ấn Độ, khi người dân bản xứ trở lại, người ta bắt họ phải bỏ y phục của xứ sở mà tất cả mọi người dân đều dùng. Người ta không ngờ rằng cái đó làm cho họ khổ cực. Tôi không hiểu tại sao người ta lại đòi hỏi một điều mà không bao giờ Chúa đòi hỏi. Hơn nữa, nó còn làm cho họ xa lánh phép Rửa và Thiên đàng.” Trái lại Bộ Truyền Giáo bảo các thừa sai của mình phải tôn trọng văn hoá và phong tục của người dân : “Đừng tìm cách cũng đừng khuyên giục dân chúng thay đổi lễ nghi, phong tục và tập quán, miễn là không trái nghịch với đạo giáo và thuần phong mỹ tục.” Làm trái lại, theo Bộ Truyền Giáo, sẽ cản trở công cuộc truyền giáo, vì theo thói thường : “Mọi người dân tộc đều yêu mến và tôn trọng những gì thuộc quốc gia của mình.” Và “việc bắt họ phải thay đổi thói tục cha ông sẽ làm cho họ thù ghét và tránh xa đạo giáo”.

Với những nguyên tắc hoạt động sáng suốt trên đây. Bộ Truyền Giáo đã mở một con đường mới cho công cuộc truyền giáo.

 

2. Những bước đầu của Hội Truyền Giáo ngoại quốc Paris

Nói đến việc thành lập Hội Truyền Giáo ngoại quốc Paris, cha Launay trong cuốn lịch sử Hội Truyền Giáo ngoại quốc Paris đã đưa ra những nhận định mở đầu sau đây.

Theo cha, tuỳ theo sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Linh. Thường là nó đã vạch sẵn trong đầu của vị sáng lập. Ngài tụ họp những người đồng chí hướng, huấn luyện họ theo đường lối của ngài, đặt cho họ một luật lệ để theo. Sau đó, sai họ đi hoạt động các nơi trong vườn nho Chúa, dưới sự hướng dẫn và chỉ huy của ngài. Nhưng cũng có những hội dòng được lập dần dần với sự góp công góp ý của những người cùng chung một chí hướng. Lúc đầu chỉ là những đường nét chính, làm nền tảng cho một cuộc xây dựng. Sau đó căn nhà được dựng nên dần dần, tuỳ theo đòi hỏi của hoàn cảnh tiếp tục đưa đến và với kinh nghiệm, có khi phải phá đi một phần để xây dựng lại cho hoàn hảo hơn. Theo cha, Hội Truyền Giáo Paris đã được thành lập theo đường lối thứ hai này.

Ngay thời kỳ công cán ở Rôma, Đức Cha Pallu đã nghĩ đến việc thành lập một Chủng Viện “mà mục đích duy nhất là truyền bá đức tin cho những người lương dân. Chủng Viện này sẽ thâu nhận tất cả những linh mục muốn theo mục đích đó, để thử thách ơn gọi của họ và huấn luyện họ bằng tất cả những phương pháp thích hợp để có thể hoạt động bất cứ trong một địa sở truyền giáo nào.” Đức Cha đã trình bày vấn đề, trong một bản tường trình đệ lên các Đức Hồng Y của Bộ ngày 01-07-1658.

Sau khi thụ phong ở Rôma trở về Paris, Đức Cha Phanxicô Pallu đã tuân theo huấn dụ của Bộ Truyền Giáo, bắt tay ngay vào việc đặt nền móng cho tổ chức mới. Ngài cho phát hành một cuốn sách nhỏ, trình bày vấn đề Toà Thánh đặt những Giám mục đại diện và sai đến hoạt động tại các địa sở truyền giáo vùng Đông Á. Ngài kêu gọi sự cộng tác của tất cả những ai muốn hy sinh cho công cuộc lớn lao đó, bằng cách dâng cúng tiền bạc trợ giúp các thừa sai hoặc tự hiến mình làm thừa sai cho vườn nho Chúa.

Lời kêu gọi được đáp ứng mau lẹ. Nhiều linh mục, nhiều giáo dân đến xin cộng tác với Đức Cha. Ngài nghĩ đến việc thành lập một Chủng Viện để nhận định và huấn luyện ơn gọi truyền giáo cho những giáo sĩ “khôn ngoan và đạo đức” muốn theo các ngài đến các địa sở truyền giáo vùng Đông Á. Bà Miramion, bạn của bà công tước d’Aiguillon, biết ý định của Đức Cha, đã để cho ngài xử dụng lâu đài của bà ở La Couarde cách Paris chừng 10 cây số (nay thuộc Seine et Oise). Theo huấn dụ của Bộ Truyền Giáo, Đức Cha chọn lựa rất nghiêm ngặt. Trong số 40 người đầu tiên đến xin cộng tác, Đức Cha chỉ chọn 6 người.

Đang khi đó, Hội Thánh Thể, một hội đoàn đạo đức rất có thế lực ở bên Pháp thời bấy giờ, tìm cách giúp đỡ công việc của Đức Cha. Hội đặt một uỷ ban gồm 4 giáo sĩ và 12 giáo dân với nhiệm vụ tìm một toà nhà xứng hợp để làm chủng viện cho Hội Truyền Giáo, huấn luyện các thanh niên theo đuổi con đường truyền giáo của hội.

Đồng thời các Đức Cha theo huấn dụ Bộ Truyền Giáo, lo tuyển chọn các vị quản lý đại diện các ngài ở Tây phương để xếp đặt công việc thay cho các ngài và để liên lạc với Toà Thánh. Ngày 14-6-1660, Đức Cha Lambertô de la Motte đặt làm quản lý đại diện cho ngài 2 cha Vincentê de Meur, Luca Fermanel de Favery và 2 giáo dân là ông De Garibal và Voyer d’Agenson. Ngày 21-12-1661, trước khi lên đường, Đức Cha Phanxicô Pallu cũng đặt 3 cha Gazil, Fermanel và Vincentê de Meur làm quản lý đại diện cho mình.

Sau khi các Đức Cha lên đường đến địa sở truyền giáo, các vị quản lý của các ngài với các nhân viên Hội Thánh Thể đã tìm được một khu nhà ở phố Du Bac (Paris). Khu nhày này thích hợp để làm Chủng Viện và trụ sở của Hội Truyền Giáo. Những nhà này là của Đức Cha Gioan Duval, giám mục ở Babylona, do một bà đạo đức tên là De Ricouart dâng cúng cho ngài để sửa chữa làm Chủng Viện cho các thừa sai ở Ba Tư, nhưng chương trình không thực hiện được. Các cha đã mua lại được với giá rẻ và với những điều kiện dễ dàng. Tháng 7-1663, vua Louis XIV cho phép thành lập ở đó một “Chủng Viện để truyền giáo cho những người lương dân ở những xứ nước ngoài”. Ngày 11-6-1664, cha Vincentê de Meur được bầu làm Bề Trên đầu tiên của Chủng Viện. Có thể nói Hội Truyền Giáo ngoại quốc Paris được thành lập từ ngày ấy. Ngày 11-8-1664, Chủng Viện được Toà Thánh công nhận làm nơi đào tạo các thừa sai, theo những đòi hỏi của Giáo Luật và các sắc lệnh của công đồng Trentô về chủng viện. Nghe tin này, Đức Cha Phanxicô Pallu và Lambertô de la Motte cũng như các thừa sai của hội ở địa sở truyền giáo, thêm hăng hái tin tưởng vào công cuộc của các ngài.

Hội Thánh không nhữn có công trong việc tìm kiếm khu nhà để thành lập Chủng Viện, mà còn lo tìm kiếm nguồn lợi để bảo trợ các giám mục và các thừa sai ở địa sở truyền giáo cũng như những công cuộc của Hội Truyền Giáo ở nước Pháp. Nhờ ảnh hưởng và lời kêu gọi của hội, tiếp theo lời kêu gọi của Đức Cha Pallu, tiền dâng cúng ở các nơi gởi đến rất nhiều, chứng tỏ tinh thần truyền giáo đã được thức tỉnh trong dân chúng Pháp. Người ta ghi những con số đáng để ý : Nhà vua hứa trợ cấp cho mỗi vị đại diện Toà Thánh số tiền chi phí hành trình là 1.000 livres, sau được nâng lên 3.000 livres. Các bà d’Aguillon, de Ris và d’Orangis, mỗi người nhận trợ cấp một số tiền lợi tức hằng năm tức là 600 livres. Các bà de Bouillon, de Miramion và Fouquet dâng cúng những sản vật trị giá 3.000 đến 6.000 livres. Riêng Hội Thánh Thể trong một lần đã dâng cúng một số tiền lớn lao là 120.000 livres.

Như thế lời kêu gọi của Đức Cha Phanxicô Pallu, sau khi nhận sứ mệnh ở Rôma trở về Paris đã được đáp lại một cách rộng rãi. Các ngài đã có những nhân viên đại diện các ngài ở Tây phương để quản lý các nguồn lợi, cũng như liên lạc với Toà Thánh và huấn luyện các chủng sinh. Các ngài cũng có những thừa sai đi theo cộng tác với các ngài ở địa sở truyền giáo. Vấn đề trợ cấp cho các thừa sai cũng như công cuộc của các ngài đã được bảo đảm đầy đủ. Các ngài đã có thể nghĩ đến việc lên đường đến địa sở truyền giáo thực hiện sứ mệnh Toà Thánh đã trao phó.

 

3. Các Đức Giám mục lên đường đến địa sở truyền giáo

Trong việc sửa soạn cuộc hành trình cho các Đức Giám mục vai trò trọng yếu vẫn là Hội Thánh Thể. Theo huấn dụ của Bộ Truyền Giáo thì Bộ muốn các Đức Cha theo đường bộ qua Ba Tư và Mông Cổ đến địa sở truyền giáo. Các ngài tránh đường thuỷ của các tàu thuyền người Bồ Đào Nha, vì theo con đường này chắc chắn các Đức Cha sẽ bị làm khó dễ, bị bắt giữ và không thể đến được địa sở của mình. Bộ chỉ cho phép dùng đường thuỷ nếu có một tàu thuyền của người nước khác, không theo con đường của người Bồ Đào Nha và đi thẳng tới địa sở truyền giáo. Hội Thánh Thể do đó có ý tưởng lập một hội hàng hải để buôn  bán với nước Trung Hoa, với Việt Nam và những nước phụ cận. Tàu thuyền của họ sẽ có nhiệm vụ chở các thừa sai của các Đức Cha đến địa sở truyền giáo cũng như lo bảo vệ sinh mệnh và nâng đỡ công cuộc của các ngài ở những nơi ấy. Ở Paris lúc đó, nhiều người đã bàn đến việc thành lập một hãng buôn người Pháp với vùng Đông Á, cũng như các hãng buôn người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hoà Lan, đồng thời cũng như họ, cộng tác vào công cuộc truyền giáo ở đấy. Để thực hiện chương trình, Hội đã trao nhiệm vụ cho ông Fermanel de Favery đóng một chiếc tàu buôn đầu tiên trọng tải 300 tấn lấy tên là Saint Louis.

Việc sửa soạn cuộc hành trình cho các Đức Giám mục thi hành một cách to tát như thế làm cho Bộ Truyền Giáo lo ngại. Bộ muốn các ngài sửa soạn một cách hết sức kín đáo và bí mật, để lúc ra đi không một ai hay biết. Theo Bộ làm ầm ĩ như thế sẽ làm cho người các nước khác để ý và tìm cách ngăn cản cuộc hành trình của các ngài. May mắn, chương trình của Hội Thánh Thể định thực hiện đã bị các hoàn cảnh trái ngược làm hỏng. Tàu Saint Louis đã hoàn thành ở Hoà Lan và đang sắp sửa đưa về Pháp thì bị chính phủ Hoà Lan làm khó dễ, khi hay biết mục đích của chiếc tàu. Họ sợ cạnh tranh thương mại của hãng buôn người Pháp với người Hoà Lan. Đại sứ của Pháp ở Hoà Lan phải đứng ra can thiệp. Đang khi đó một cơn bão lớn, ngày 19-12-1660 đã làm chiếc tàu Saint Louis bị hư hại nặng. Con đường thuỷ đến địa sở truyền giáo như thế phải chờ một thời gian khá lâu mới thực hiện được. Chỉ còn lại con đường bộ mà Bộ Truyền Giáo đã chỉ định và mong muốn cho các ngài theo.

Đức Cha Lambertô de la Motte là người lên đường trước tiên với hai cha Giacôbê de Bourges và Phanxicô Deydier. Ngày 27-11-1660, ngài lấy tàu ở Marseille để đi đến Syria. Tàu cập bến ở hải cảng Alexandrette. Từ đấy Đức Cha và hai cha theo đường bộ qua suốt vùng xứ Syria, Mesopotamia và Ba Tư. Đến ngày 20-10-1661, nghĩa là gần một năm trời, mới tới hải cảng Gomeron. Hải cảng này trước kia thuộc người Bồ Đào Nha, nhưng từ năm 1662, Quốc vương Ba Tư đã chiếm lại được và hiện nay người Anh và người Hoà Lan có trụ sở buôn bán ở đấy. Lúc ấy vua Charles II nước Anh và vua Louis XIV nước Pháp giao hảo với nhau rất thịnh tình, nên Đức Cha và hai cha được người Anh đón tiếp rất nồng hậu.

Từ hải cảng Gomeron mà bây giờ người ta gọi là Bender Abbas, các ngài lấy tàu đến hải cảng Semate thuộc Ấn Độ, lúc đó là xứ Mongolô. Ở Sanate (Surat), người Anh và Hoà Lan cũng có trụ sở thương mại. Ở đây Đức Cha và hai cha trú chân trong tu vieenjc ác cha dòng Capucinô. Các cha dòng báo cho các ngài biết, các nhà cầm quyền ở Goa đã được lệnh của triều đình Lisbonna bắt giữ các giám mục người Pháp và giải về Bồ Đào Nha. Nhưng các ngài không lo sợ lắm, vì nếu cứ đi trong vùng các Quốc vương Ấn Độ, thì người Bồ Đào Nha, lúc đó thế lực đã sa sút nhiều, nhất định không dám cho người đến bắt giữ hoặc làm khó dễ các ngài. Vì thế, từ Surat hải cảng bên này biển Ấn Độ, các ngài theo đường bộ qua vùng các Quốc vương Mongolô và Golgodo đi ngang qua xứ Ấn Độ đến hải cảng Masulipatam bên kia biển Ấn Độ. Ở đây chỉ có trụ sở thương mại của người Anh và người Hoà Lan. Cuộc hành trình từ Surat đến Masulipatam ngang qua xứ Ấn Độ mất 41 ngày. Sau đó các ngài lấy tàu qua biển Ấn Độ đến Tenasserim ngày 19-5-1662, lúc đó thuộc Thái Lan.

Tới đất Thái Lan ngay ở Tenasserim, Đức Cha và hai cha không khỏi bở ngỡ vì tính cách rộng rãi của nhà vua Thái đối với các nhà buôn ngoại quốc và với đạo Công Giáo. Các nước có thể đến buôn bán tự do ở trên đất Thái và công cuộc truyền giáo cũng không bị ngăn cấm, làm khó dễ. Ở Tenasserim, Đức Cha và hai cha được cha Gioan Cardose, dòng Tên người Bồ Đào Nha đón tiếp tử tế. Từ Tenasserim các ngài lấy thuyền theo sông để lên kinh đô xứ Thái, lúc bấy giờ là Agouthia, mà người ngoại quốc cũng gọi là Siam. CÁc ngài ở đấy để lấy tàu vào xứ Nam nước Việt, nơi mà Toà Thánh đã chỉ định cho các ngài. Tính như thế cuộc hành trình đầy gian lao vất vả của các ngài kéo dài gần hai năm trời, từ khi xuống tàu ở Marseille đến khi lên kinh đô xứ Thái, ngày 22-08-1662.

Sau Đức Cha Lambertô de la Motte, đến lượt Đức Cha Ignaxiô Cotolendi lên đường cùng với 2 cha Luigi Chevreuil và Antôn Hainques ngày 03-09-1661. Trước khi lên đường, ngài không đặt các cha quản lý coi sóc nguồn lợi cho địa sở truyền giáo của mình như hai Đức Cha Lambertô de la Motte, Pallu. Ngài cũng không tham dự trực tiếp và tích cực vào việc tuyển chọn các thừa sai, thành lập Chủng Viện và Hội Truyền Giáo. Được Đức Cha Phanxicô Pallu tuyển chọn và đề nghị lên Toà Thánh làm Giám mục đại diện ở một khu vực Trung Hoa, ngài khép mình trong địa vị đó và nhiệm vụ đó thôi. Ngài cũng theo đường bộ như Đức Cha Lambertô de la Motte. Nhưng trong thánh ý Chúa, người chiến sĩ đã chết trên đường ra tiền tuyến. Sau cuộc hành trình vất vả ngang qua xứ Ấn Độ đến hải cảng Masulipatam để lấy tàu đến đất Thái Lan, thì Đức Cha bị cơn sốt nặng, lại thêm bệnh ruột hoành hành dữ dội. Ngày 16-08-1662, ngài đã tắt thở. Trên mộ ngài người ta đã khắc một bia ký bằng La ngữ mà chúng tôi tạm dịch : “Hỡi khách qua đường, hãy dừng chân nơi mặt trời mọc, một công việc đáng làm lắm. Đây là một của một Chúa chiên không có đoàn chiên, một Giám mục không có địa phận nhậm sở, một Chánh tế không có người giúp lễ. Tên ngài ? Xa cách những người thân thích của ngài, ngài muốn chết không để lại tên tuổi. Nhưng bạn hãy đọc biết tên ngài : Nhờ lời cầu của đầy tớ Chúa, Ignaxiô de Loyola mà Ignaxiô Cololendi đã ra đời. Đất nước của ngài ? Nước Pháp. Quê quán của ngài ? Miền Provence. Tỉnh huyện của ngài ? Xứ Ai… Xác ngài yên nghỉ trong vùng đất mạn rợ, nhưng linh hồn ngài hưởng phúc trên trời.”

Cuối cùng là Đức Cha Phanxicô Pallu, sau khi đã đặt xong các công việc, đã xuống tàu ở Marseille ngày 02-01-1662 với 7 linh mục thừa sai và 2 giáo dân. Đó là cha Saisseval, Chereau, Brunel, Périgaud, Robert, Brindeau và Laneau. Hai giáo dân là Swertz và Philippô de Chameson Foisy. Các ngài cũng theo con đường bộ tương tự như của Đức Cha Lambertô de la Motte. Nhưng chuyến đi này cũng gieo vãi nhiều tang tóc trên dọc đường. Trên chuyến tàu từ Ba Tư đến hải cảng Surat thuộc Ấn Độ, Đức Cha đau đớn mất hai thừa sai là cha Saisseval và Périgaud. Sau đó trên con đường ngang qua Ấn Độ đến hải cảng Masulipatam, Đức Cha lại mất thêm ba cha : cha Chereau, Brunel và Robert. Ra đi với 7 thừa sai đầu mùa, Đức Cha còn lại hai cha Phêrô Brindeau và Luigi Laneau, thêm hai vị thừa sai của Đức Cha Ignaxiô Cotolendi, cha Luigi Chevreuil và Antôn Hainques mà Đức Cha gặp trên đường đến Thái Lan. Ngày 27-01-1664, các ngài đến kinh đô xứ Thái, và gặp Đức Cha Lambertô de la Motte ở đấy.



LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM

QUYỂN II

LM. NGUYỄN HỒNG

CHƯƠNG III : HAI ĐỨC GIÁM MỤC Ở KINH ĐÔ THÁI LAN

I. ĐỨC CHA LAMBERTÔ DE LA MOTTE Ở KINH ĐÔ THÁI LAN

Bản nhật ký địa sở Truyền giáo Xiêm đã không quên ghi nỗi vui mừng của hai Đức Cha và các thừa sai được gặp nhau, sau những năm trời xa cách và qua những cuộc hành trình đầy gian lao nguy hiểm đã gieo rắc nhiều tang tóc. Các ngài đã dâng lên Chúa những lời cảm tạ, kèm theo những cầu khẩn cho công cuộc truyền giáo của các ngài được kết quả. Đức Cha Lambertô de la Motte và các thừa sai đến trước, kể lại cho Đức Cha Pallu và các thừa sai của ngài những sự kiện đã xảy ra trong 18 tháng vừa qua. Các ngài cũng trao đổi những nhận định về xứ sở cũng như về tình hình của địa sở truyền giáo.

 

1. Yuthia, kinh đô Thái Lan và chính sách rộng rãi của nhà vua

Tất cả các Đức Cha và các cha đều bỡ ngỡ trước thái độ rộng rãi của Quốc vương Thái Lan, đối với các nhà buôn ngoại quốc và đối với đạo Công giáo. Cha Giacôbê de Bourges đã nhận định : “Thật không thể rộng rãi hơn nữa. Hằng ngày, người ta nghe tiếng chuông vang dội ; các nhà thờ mỏ cửa cho người ta ra vào tự do. Người ta hát kinh và giảng đạo công khai, không một ai ngăn cấm”. Còn kinh đô xứ Thái thì thực là nơi gặp gỡ của tất cả các nhà buôn Tây phương cũng như Đông phương : “Tất cả các nơi đều tuôn đến đây, người Nhật, người Trung Hoa, người Phi Luật Tân, người Chàm, người Cao Miên, những người xứ Java, Sumatra, Golconde, Begalê và miền bờ biển Coromadel”. Người Hoà Lan, người Anh cũng như người Bồ Đào Nha đều có trụ sở buôn bán.

Kinh đô Thái Lan, lúc đó là Yuthia mà người ngoại quốc cũng gọi là Xiêm ; tuy cách xa biển 60 dặm, nhưng nhờ con sông Mễ-Nam, tàu bè ba bốn trăm tấn là những thứ lớn thời bấy giờ vẫn có thể cập bến ở kinh đô dễ dàng. Phần lớn khu vực của kinh đô, nằm trên khu đảo hình trám, chu vi chừng 2-3 dặm, có nhiều con kinh rộng lớn chạy ngang quan, người Tây phương gọi nó là Vênêxia ở miền Đông Á. Phía Bắc khu đảo là đền đài nhà vua ; có cây bóng mát với những dinh thự xinh đẹp theo lối kiến trúc của dân Thái. Có những con lạch uốn khúc với những chiếc tàu cầu nho nhỏ nhờ đó luôn có khí mát ban ngày cũng như ban đêm. Còn phía Nam là khu  buôn bán và tiểu công nghệ. Dân chúng ở chật chội, chen chúc ; nhưng cũng có những con đường lát gạch rộng lớn, cây cao bóng mát. Suốt dọc đường dân chúng họp chợ buôn bán, không thiếu một thứ gì. Nhưng đặc biệt nhất là kinh đô xứ Thái là chỗ nào người ta cũng thấy chùa chiền và miếu mạo. Tất cả ba bốn ngôi chùa, mà chùa nào cũng giàu có tráng lệ với những tượng Phật sơn son thiếp vàng hay bằng thứ đá quí.

Dọc theo triền sông, phía Đông Nam là khu ngoại kiều. Mỗi nước ở một khu trại riêng, chúng ta gọi là “LÀNG”. Trong số các ngoại kiều miền Đông Á, đáng kể hơn cả có làng người Tàu, người Nhật, có cả làng người Việt, hầu hết là người Đàng Trong thuộc chúa Nguyễn. Lúc đó vì chiến tranh Nam Bắc, ở xứ không được yên ổn làm ăn, thêm nữa, các Chúa Nguyễn thỉnh thoảng lại ra lệnh cấm đạo. Nên họ đã rời bỏ quê hương quá Thái Lam làm ăn buốn bán và giữ đạo. Vì thế có thể nói, tất cả đều là người Công Giáo. Sau này qua các thời Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn bách hại đạo, số người trốn qua Thái Lan càng ngày càng nhiều, các làng Việt Nam cũng thêm lên. Qua từng thế kỷ, họ vẫn bảo vệ được lối sống người Việt, nói tiếng Việt và nhất là trung thành giữ đạo của cha ông. Vì thế có thể nói con số nòng cốt của Giáo Hội Thánh Lan ngày nay là giáo dân người Việt trốn qua, trong các thời kỳ bách hại đạo của các vua Việt Nam. Cho đến những năm gần đây, chính phủ Thái Lan bắt học tiếng Thái và đổi tên Thái, các con em người Việt mới quên dần tiếng Việt. Nhưng ở gia đình, cha mẹ họ vẫn nói tiếng Việt với nhau. Một số lớn các linh mục Giáo Hội Thánh Lan ngày nay đều gốc người Việt và một số góc người Trung Hoa hoặc quốc gia khác, còn chính gốc người Thái thì vẫn còn hiếm lắm. Hầu hết các linh mục gốc Việt đều biết nói tiếng Việt, tuy là tiếng cổ xưa. Nhưng chắc chắn thế hệ sắp đến này sẽ không còn biết tiếng gốc dân mình nữa. Dầu sao, Giáo Hội Việt Nam không khỏi không hãnh diện. Ngay từ thời kỳ đầu, mới lãnh nhận tin lành Phúc Âm, đã đồng thời cũng giữ một vai trò nòng cốt và quan trọng trong lịch sử nguồn gốc Giáo Hội Thái Lan. Vai trò đó còn tiếp tục qua dọc suốt mấy trăm năm lịch sử cho đến ngày nay với các làng người Việt, khởi đầu bằng các giáo dân Đàng Trong Chúa Nguyễn.

Nếu trong số các làng Á Đông ngoại kiều, phải kể hơn cả làng người Tàu, người Nhật và người Việt, thì trong số các làng người Tây phương, quan trọng và đông hơn cả là làng người Bồ Đào Nha. Họ cũng là những người kỳ cựu nhất trong những người đến buôn bán với dân Thái Lan. Con số họ thêm đông nhất là từ khi Malacca bị người Hoà Lan chiếm đóng và sau đó, khi mất đảo Macassar. Đứng về phương diện tôn giáo, thì những người buôn bán Bồ Đào Nha với một ít người Tàu và tất cả người Nhật, người Việt đến kinh đô Thái Lan để lánh nạn bách hại trong nước, là thành phần chính yếu và duy nhất của Giáo Hội Công Giáo thời ấy.

Rộng rãi với vấn đề buôn bán, nhà vua cũng rộng rãi đối với vấn đề tôn giáo. Mỗi người các quốc gia đều tự do giữ đạo của mình. Các nhà truyền giáo cũng được đến kinh đô để săn sóc vấn đề tôn giáo cho những người nước mình cũng như truyền giáo cho người nước khác và cả chính dân Thái Lan. Năm 1624, Đức Cha Gonzalve da Silva, Giám mục Malacca, đã sai một cha dòng Tên là cha Giulio Cesar Margico đến lập xứ đạo ở kinh đô Thái Lan, nhưng ít lâu sau ngài bị một người có đạo thù ghét đánh thuốc độc chết. Phải đợi mãi đến năm 1655 mới có cha Tôma  Valguarnera ở Áo Môn đến. Ngài lập xứ làm nhà thờ cho các giáo dân người Bồ Đào Nha đến cư ngụ buôn bán cũng như cho các giáo dân người Nhật và người Việt trốn tránh cuộc bách hại trong nước đến lánh nạn ở đấy.

Cha Tôma Valguarnera cũng lo tìm cách truyền giáo cho người Thái Lan, nhưng bao cố gắng vất vả cha không thu được một kết quả nào. Theo cha, chỉ vì dân Thái Lan quá sùng đạo Phật và rất nhiều mê tín ăn sâu trong đầu óc họ, khó lòng mà gột rửa. Hơn nữa, họ bị ràng buộc quá chặt chẽ với tổ chức gia đình và làng mạc cũng như xã hội, không thể tự do để bỏ đạo Phật theo đạo khác. Các cha dòng Đaminh cũng mất rất nhiều mà cũng không thu lượm được gì hơn các cha dòng Tên.

Đấy là tình trạng chính trị kinh tế, thương mại và tôn giáo ở kinh đô xứ Thái, khi các Đức Cha và các thừa sai Pháp tới.

 


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 1.47 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương