LỊch sử triết học phưƠng tâY


II. Triết học Hy La cổ đại thời sơ khai



tải về 353.36 Kb.
trang3/5
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích353.36 Kb.
#20145
1   2   3   4   5
II. Triết học Hy La cổ đại thời sơ khai

1. Triết học tự nhiên của trường phái Milet

- Thalet (khoảng 624 - 547 TCN).

Cuộc tranh luận đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ đại về bản nguyên thế giới, tức cơ sở ban đầu, căn nguyên phát sinh mọi sự vật, hiện tượng, Tinh thần tranh luận quyết liệt ngay trong vấn đề đầu tiên này đã cho thấy khát vọng khám phá và chinh phục thế giới của người Hy Lạp, tiêu biểu cho phong cách tư duy phương Tây trong lịch sử phát triển của nó.

Milet là tên một thị quốc phồn thịnh bậc nhất của Hy Lạp cổ đại, thuộc xứ Iôni, miền Tiểu Á. Người sáng lập trường phái Milet là nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà triết học đầu tiên của Hy lạp là Thalet (khoảng 624 - 547 TCN).

Thalet đã đặt cơ sở cho sự ra đời toán học lý thuyết. Trong thiên văn và vật lý, Thalet có nhiều phát hiện độc đáo về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, thủy triều, tiết phân, hạ chí. Trong triết học, Thalet thuộc thế hệ đầu tiên xem xét bản nguyên thế giới ở dạng hành chất. đi tìm cái mà từ đó mọi thứ sinh ra và trở về.

Ông nói về nước như một cái phổ quát, tuyệt đối, như cơ sở của sinh thành và cả chuyển hóa nữa, mặc dù ý tuởng về chuyển hóa chỉ xuất hiện dưới dạng phôi thai. Tất cả chỉ là biến thái của nước. Trái đất như cái đĩa dẹt trôi bồng bềnh trên nước, được bao quanh bởi nước, các đại dương, và chia thành 5 vùng (bắc, hạ chí, xuân phân, đông chí, cực nam). Tuy nhiên Thalet vẫn sử dụng các yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận làm chỗ dựa cho quan điểm của mình. Đặc tính vật lý của nước được nâng lên cấp độ thần linh: Thế giới chứa đầy thần linh. Nước và tất cả những gì phát sinh từ nước đều có linh hồn, có thần tính. Mặt trời làm cho nước bốc hơi thì được Thalet giải thích một cách ngây thơ, mộc mạc rằng Mặt trời cần nước để tồn tại.

- Anaximandre (khoảng 610 - 546 TCN).

Bản nguyên bây giờ không còn là nước, mà là cái có ý nghĩa phổ quát hơn. Theo Anaximandre, Bản nguyên sâu xa nhất là cái vô cùng, vô tận, không chịu sự chi phối của những điều kiện không gian - thời gian, nó phải là cái gì đó vĩnh viễn, và không xác định được (apeiron); trong sự tự do đó, nó hợp nhất mọi thứ để tạo nên những cái cụ thể mà ta biết, hoặc cảm nhận. Cái không xác định (apeiron) của Anaximandre là nỗ lực vươn đến quan điểm thực thể về bản nguyên: vượt qua cái cụ thể cảm tính để suy tưởng về một căn nguyên có tính trừu tượng. Tất cả các đặc tính của apeiron được quy về một đặc tính chủ yếu là vận động.

Theo Anaximandre, sự sống hình thành trước tiên ở đại dương, sau đó tiến dần lên cạn. Con người có thể chất yếu đuối nên sinh ra và phát triển trong bụng một loài cá khổng lồ. chỉ khi trưởng thành loài người mới lên đất liền và sống độc lập. Lần đầu tiên trong triết học cổ đại Hy Lạp, Anaximandre đã cố gắng giải thích thế giới từ nguyên nhân tự thân, gạt bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận, đưa ra tư tưởng biện chứng tự phát về tính phổ biến của vận động, biến đổi, sự thống nhất các mặt đối lập, về quá trình thành sự sống từ thế giới vô cơ, con người từ loài vật.

-Anaximen (588 - 525 TCN) cho rằng Bản nguyên thế giới phải là cái xác định, chứ không phải vô định, bởi lẽ tòa lâu đài vũ trụ không thể tự nhiên mà sinh thành được. bản nguyên ấy phải là cái năng động và biến hóa, cái ta không thấy, mà cảm nhận sự hiện hữu khắp nơi của nó, đóng vai trò hàng đầu của sự sống. Đó là khí mà theo Anaximen, Chính cái khí này diễn ra quá trình “tán” và tụ” thường xuyên, để có được một thế giới sống động và hài hòa. Không chỉ là bản nguyên thế giới, khí còn là nguồn gốc sự sống và các hiện tượng tâm lý. Linh hồn là sự thở, khí của linh hồn và khí của thế giới vật chất thống nhất với nhau. Thần linh cũng xuất hiện từ khí. Như vậy khí của Anaximen vừa là yếu tố vật lý (không khí), vừa là yếu tố tâm linh (sinh khí).

- Như vậy, cả Thalet, Anaximandre và Anaximen đều là những nhà “vật lý”, vì họ xác định nhiệm vụ chủ yếu là tìm hiểu những vấn đề của vũ trụ, tự nhiên. Bên cạnh đó, họ còn đưa vào triết học của mình những yếu tố của huyền học, một phần kế thừa từ thế giới quan huyền thoại trước đó, phần khác du nhập từ các nước phương Đông.



2. Trường phái hay liên minh Pythagore: Tư tưởng huyền học đan xen với tư tưởng khoa học là những biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm như một học thuyết bản thể luận ở Pythagore trường phái Pythagore.

Ngay từ thời kỳ di thực vào cuối thế kỷ VI TCN trung tâm tri thức của người Hy Lạp đã chuyển dần từ vùng Iôni sang phía Tây, hay Đại Hy Lạp, bao gồm những vùng đất mà người Hy Lạp chiếm ở ven Địa Trung Hải và Biển Đen. Tại đây các trường phái triết học lần lượt xuất hiện, trong đó có trường phái Pythagore, còn gọi là liên minh Pythagore. Đây là trường phái triết học tồn tại lâu nhất, kéo dài từ thế kỷ VI TCN đến khi kết thúc triết học cổ đại phương Tây.

Liên minh được tổ chức chặt chẽ theo hình thức khép kín, lấy quan niệm về sự hòa tiết và thanh tẩy linh hồn làm cơ sở đạo đức. Trong liên minh mọi thứ thuộc về của chung, mọi sinh hoạt đều tuân theo kỷ luật nghiêm ngặt, theo một trình tự được các thành viên chấp thuận. Nhưng liên minh này không thuần về tôn giáo, mà chủ yếu là nơi tập hợp những người yêu thích hoạt động trí tuệ.

- Pythagore (570 - 496 TCN) sinh tại Samos, thuộc vùng Iôni, sau di cư sang Cơrôtôn, miền nam Ý. Là nhà toán học, Pythagore đưa ra nhiều định lý có giá trị. Trong triết học Pythagore là nhà duy tâm tôn giáo, xây dựng những tư tưởng huyền bí về ý nghĩa cuộc sống và bản nguyên vũ trụ, mang đậm dấu ấn huyền học phương Đông.

Trong tư tưởng của Pythagore những con số chiếm vị trí đặc biệt. Triết lý về con số ở Pythagore bắt đầu bằng mệnh đề “cái gì đo được thì tồn tại, cái gì tồn tại thì đo được”, vì thế những con số định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm chí là bản chất và chuẩn mực của chúng. Triết lý là nhận thức quy luật vận động của vũ trụ thông qua những con số. Khi ta nói “linh hồn hòa điệu”, thì đó chính là quan hệ hòa điệu của các con số.Ví dụ như số lẻ là cái hữu hạn, chẵn là cái vô hạn. Số 1 là con số năng động nhất, Bản nguyên hoạt động chi phối tất cả, nhưng con số kỳ diệu nhất là số 10, bao gồm 10 mối quan hệ của các mặt đối lập: hữu hạn - vô hạn, chẵn - lẽ, đơn - đa, phải - trái, nam - nữ, động -tĩnh, thẳng - cong, sáng - tối, tốt - xấu, tứ giác - đa diện. Từ các con số hình thành nên những vật thể, những hành chất (nước, không khí, lửa) và toàn thể vũ trụ. Vũ trụ được cấu thành từ 10 thiên hà, tạo nên sự hòa điệu thiêng liêng. Trong sự liệt kê đơn giản, ngây thơ, ngẫu hứng này đã thể hiện những phạm trù đầu tiên của tư tưởng, sự nỗ lực lý giải thực tại của Pythagore. Ông đã nâng con số lên trình độ khái niệm. Tuy nhiên con số cũng chỉ là những khái niệm trừu tượng, khó được cụ thể hóa, hiện thực hóa hoàn toàn trong cuộc sống.

Theo Pythagore, con người có tính chất nhị nguyên, trong đó thể xác khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái nhơ bẩn, những điều ác, hóa thân vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luân hồi. Triết lý, vì vậy, là hành trình của sự giải thoát. Cách tiếp cận như thế cho thấy triết lý nhân sinh của Pythagore mang đậm dấu ấn của huyền học phương Đông.

3. Cuộc tranh luận giữa Hecralite và trường phái Élee - tính biện chứng trong tư duy của người Hy Lạp

Đây là cuộc tranh luận về bản chất của thế giới và về bản nguyên thế giới. Các nhà triết học giải đáp không chỉ câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu ?”, mà cả những câu hỏi như “thế giới tồn tại như thế nào ?”, “thế giới về nguyên tắc vận động hay đừng im ?”, “nếu vận động, thì vận động theo những tính quy luật nào ?” vận động tự thân của sự vật, hay do sự tác động của lực lượng huyền bí bên ngoài ?”…



  1. Hecralite (Heraclitos) - “mọi thứ đều tuôn chảy

Hecralite là ông tổ thực sự của phép biện chứng7, người đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về thế giới.

Hecralite không chỉ là nhà duy vật tự phát, mà còn là nhà triết học đã đặt cơ sở cho cách hiểu về thế giới như một quá trình, được diễn đạt bằng câu cách ngôn “mọi thứ đều tuôn chảy”theo quy luật, hay logos (Logos, Hecralite Tản văn, câu 2). Logos là khái niệm chủ đạo trong triết học Hecralite, dùng để giải thích bản nguyên lẫn bản chất của thế giới.



Logos là một khái niệm đa nghĩa: 1)Thần ngôn (ngôn từ của Thần, thần ngôn); 2) lời nói, học thuyết, có nghĩa là logos đã được thế tục hóa thành cái thuộc sở hữu của con người 3)lý trí, chân lý (môn học dạy ta cách tư duy đúng, theo truyền thống gọi là Logic); 4)tính quy luật, tính tất yếu; 5)trật tự, chuẩn mực; 6)lửa.

Bốn nghĩa sau cùng gắn liền với tên tuổi của Hecralite. Một cách tổng quát, Hecralite muốn nói rằng, mọi sự vật diễn ra trong thế giới tuân theo tính quy luật, tính tất yếu, trật tự, chuẩn mực, được lý trí nhận biết (chúng ta không nhìn quy luật, mà nhận thức quy luật); đồng thời chúng ta hình dung toàn bộ thế giới này như ngọn lửa thiêng liêng, sống động, bùng cháy và tắt đi theo quy luật. Lửa - cơ sở của sinh thành và diệt vong, sức mạnh chở che và sức mạnh hủy diệt. Đại hỏa tai vũ trụ sẽ là phán xét vũ trụ, tất cả biến thành tro bụi, và từ trong tro bụi một chu kỳ mới của sinh thành, biến hóa lại bắt đầu.



Trong quan điểm của Hecralite thể hiện các quy luật sau:

- Mọi sự vật đều nằm trong quy luật tất yếu của sự sinh thành, phát triển và diệt vong. Tính phổ biến của thay đổi diễn ra trong thế giới được ví như hình Ảnh dòng sông mà tất cả đều đang trôi đi, bởi thế nên “không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông, bởi vì mỗi lần bước xuống sông, ta lại tiếp xúc với dòng nước mới(Hecralite. Tản văn, câu 41). Hecralite còn diễn tả một cách cô đọng quá trình liên tục của thế giới bằng định thức “hư vô - tồn tại - hư vô”, liên tưởng dòng thời gian “quá khứ - hiện tại - tương lai” là quá trình truy đuổi nhau diễn ra liên tục, không bao giờ đạt đến điểm kết thúc tuyệt đối. Sự vật thay đổi nhanh đến mức mỗi khi chúng ta nói về nó, thì nhận định của chúng ta đã ít nhiều lạc hậu mất rồi!

- Quy luật thứ hai nhấn mạnh tính thống nhất và đa dạng của thế giới.

Theo Hecralite: tồn tại và hư vô chỉ là một. Sự vật vừa có vừa không, vừa tồn tại vừa không tồn tại. Vũ trụ thống nhất trong tính đa dạng, ở đó sự tác động qua lại và chuyển hóa của các mặt đối lập làm nên bản chất của sinh thành, phát triển, diệt vong. Ông tuyên bố “trong chiến tranh có mầm của sự hòa điệu (thống nhất), trong hòa điệu ẩn chứa tiềm tàng khả năng của chiến tranh”, Trong đấu tranh, cái mới xuất hiện, tạo nên sự thống nhất mới, quá trình chuyển hóa không bao giờ ngừng. Hecralite xem quá trình chuyển hóa là tất yếu:”Lửa - biểu thị chuyển hóa của vạn vật, ví như sự trao đổi hàng hóa sang vàng và vàng sang hàng hóa…” (Tản văn, câu 22).



Quy luật thứ ba - quy luật tương đối: Chẳng hạn mật ngọt đối với người bình thường, nhưng đắng đối với người bệnh; nước biển đối với một số sinh thể là môi trường sống, nhưng đối với một số sinhh thể khác thì độc hại; vàng đối với người là quý, nhưng đối với loài vật lại vô giá trị. Sau cùng, người thông thái nhất cũng chỉ đáng là đứa trẻ so với thần linh; con khỉ đẹp nhất cũng trở nên xấu xí so với con người, con người đẹp nhất cũng chỉ đáng coi là con khỉ không đuôi so với thần linh (xem Tản văn, các câu 97, 98, 99). Sự táo bạo, khác thường trong lập luận của Hecralite là sự thách thức đối với quan điểm đương thời về bản chất của thế giới, khiến cho ông bị cô lập, chấp nhận “bước đi trên con đường cô đơn”, nhưng với “một lòng cao ngạo ngất trời”8. Do vậy, Các Mác đã xem Hecralite là một trong những tên tuổi lớn, tạo nên phong cách tư duy đặc sắc thời cổ đại9.

“Sự khôn ngoan vượt lên trên tất cả” (Tản văn, câu 18); với quan điểm đó, ông đã bàn đến đạo đứcchính trị như sự triển khai logos trong cuộc sống. Logos hướng dẫn hành vi con người, Bản chất đạo đức của con người. Lý trí - Logos- Lửa cũng là thước đo tính cách con người, xác định xem tâm hồn người nào “nhiều lửa” và tâm hồn người nào “ít lửa”, hoặc “thiếu lửa”. Lửa là cội nguồn vĩnh cửu của cuộc sống, còn cuộc sống là quá trình hướng tới sự hợp nhất bền vững con người - vũ trụ - thần linh.



b) Biện chứng dưới hình thức phủ định của trường phái Élee: Élee, là tên một đô thị ven biển miền nam nước Ý hiện nay, nơi khai sinh trường phái) Élee.

-Xenophane,( khoảng 570 - 478 TCN), người phác thảo những đường nét ban sơ của nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. Ông vạch ra cơ sở tâm lý của tôn giáo: xem các vị thần cũng có những nét cơ bản như con người, nhưng biểu hiện được cái Tuyệt đối, cái mục đích cao cả của cuộc sống (xem The Portable Greek Reader, N. Y, 1967, p. 68 - 69). Cùng với nguyên lý “vạn vật đồng nhất”, Xenophane còn là người đầu tiên nêu ra vấn đề khả năng và giới hạn của nhận thức, lấy học thuyết của Hecralite làm đối tượng phê phán chủ yếu. Ở góc độ bản thể luận, cách tiếp cận của trường phái Élee đã ảnh hưởng đến hàng loạt tên tuổi lớn của triết học về sau như Empedocles, Democrite, Platon, Aristote…trong việc giải quyết vấn đề về bản chất của tồn tại.

Cơ sở phê phán của trường phái Elee đối với Hecralite chính là quan niệm “mọi thứ đều tuôn chảy”. (không chỉ là vấn đề bản thể luận, mà còn là vấn đề nhận thức luận): đối với con người nói chung, cần phải trả lời câu hỏi “nó là gì ?” “nó như thế nào ?”. Nếu không xác định diện mạo của cái đang tồn tại thì ý tưởng tiếp theo trở nên vô giá trị, thậm chí biểu thị sự bất lực của chủ thể hoạt động và nhận thức.

Thực ra, con người đứng trước vũ trụ rộng lớn luôn khao khát nhận thức nó trong tính chỉnh thể, trong sự trọn vẹn đủ đầy của nó, chứ không phải để khẳng định rằng nó đang “tuôn chảy”. Muốn nhận thức sự vật, cần “chặn” dòng chảy ấy để xác định diện mạo, đặc tính của những gì trong tầm nhận thức của chúng ta.

Parmenide phản đối Hecralite theo một thái cực khác, thể hiện ở ba luận điểm sau: Một là, vũ trụ không thể vận động (chuyển dịch), hãy hình dung thế giới như một quả cầu vật chất đóng chặt, nén đầy, không còn chỗ trống; bởi lẽ tất cả đã được lấp đầy, không có cái gọi là không gian rỗng, phi vật thể. Hai là, luận điểm về tính đồng nhất tư duy - tồn tại. Mọi ý tưởng luôn luôn là ý tưởng về cái đang-tồn-tại; không thể về cái không-tồn-tại. Chỉ cái đang-tồn-tại mới là đối tượng của nhận thức. Tồn tại và tư duy đồng nhất với nhau vừa như quá trình, vừa như kết quả. Tồn tại là có, hư vô là không. Ba là, bác bỏ sự chuyển hóa, sinh thành, diệt vong, bởi lẽ chúng giả định khả năng của cái không-tồn-tại. Tóm lại, ba đặc tính của tồn tại là toàn vẹn thống nhất, không sinh không diệt, bất biến bất phân.

Zenon, học trò của Parmenide, cụ thể hóa và phát triển nguyên lý “vạn vật đồng nhất thể” và nguyên lý “vạn vật bất biến” bằng phương pháp trưng dẫn chân lý và các nghịch lý (aporia).

Nghịch lý (aporia) “Achille và con rùa” nói về lực sỹ Achille không thể đuổi kịp con rùa, dù chạy nhanh và tỉnh táo, vì đã chấp nó một quãng đường. Theo lập luận của Zenon, logic của vấn đề là ở chỗ, khi Achille đạt tới điểm xuất phát của con rùa trước đó, thì con rùa đã không còn ở đó nữa, mà tiến thêm được quảng đường ngắn một cách chậm chạp. Cứ thế Achille đuổi mãi theo con rùa, nhưng mỗi lần đến điểm cũ của rùa, thì rùa đã dịch chuyển khỏi nơi đó. Như vậy vật chạy nhanh hơn cũng không đuổi kịp vật chạy chậm hơn, và trong trường hợp này vận động hóa ra là vô nghĩa !

Aporia “mũi tên bay”cho thấy sự tài tình trong lập luận của Zenon. Mũi tên bay kỳ thực là không bay, vì lẽ vật đang bay luôn luôn “bây giờ” và “ở đây” bằng với chính mình. Trong “bây giờ” và “ở đây” mũi tên vẫn thế, không sinh thành, không chuyển hóa, mà được cấu thành từ những yếu tố không phân chia. Để mũi tên bay được trong mỗi khoảnh khắc thời gian nó phải vừa nằm ở một vị trí không gian, vừa không nằm ở đó. Nhưng điều này khó mà chấp nhận được.

Parmenides và Zenon đã rơi vào phép siêu hình tự phát, tức phương pháp giải thích thế giới trong trạng thái cô lập, ngưng đọng, bất biến, không xem xét nó như một quá trình. Từ cách tiếp cận “vạn vật đồng nhất thể” họ đóng vai trò là người phản biện đối với nguyên lý “vạn vật biến địch”;

- Trường phái Élee muốn bảo vệ cái đơn nhất chống cái đa tạp, tồn tại chống không tồn tại, bất biến chống khả biến, liên tục chống gián đoạn. Yếu tố biện chứng chủ quan thể hiện ở phương diện nhận thức luận của nghệ thuật đối thoại, tranh biện, phản bác đối thủ, bằng nghệ thuật trau chuốt ngôn từ, đánh bóng những khái niệm. Hơn nữa, dưới hình thức phủ định, phản bác, các aporia của Zenon buộc người ta phải tìm ra câu trả lời xác đáng về mối quan hệ giữa vận động và đứng im, giữa liên tục và gián đoạn, giữa hữu hạn và vô hạn.

Nói cách khác, các aporia thực sự kích thích tư duy, khuyến khích tinh thần hoài nghi, tranh luận, đi tới chân lý, “đem đến một lực đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển toán học, lôgíc học cổ đại, đặc biệt quan trọng là phép biện chứng, bởi lẽ chúng vạch ra những mâu thuẫn trong các khái niệm cơ bản của khoa học về không gian, đa thể và vận động, hơn nữa còn thúc đẩy việc tìm kiếm những phương thức khắc phục các nan giải thường gặp”10

II. Triết học thời cực thịnh

1. Nền dân chủ chủ nô và sự tác động của nó đến sinh hoạt tinh thần của xã hội

Nền dân chủ chủ nô của Hy Lạp chính thức được khẳng định và phát triển rực rỡ vào nửa sau thế kỷ V TCN, gắn liền với tên tuổi của Solon. Trong nền dân chủ chủ nô tại Athen quyền lực tối cao thuộc về Hội nghị công dân, tương tự như Nghị viện hoặc Quốc hội ngày nay. Người Hy Lạp gọi kiểu nhà nước đó là Dân chủ. Nền dân chủ Athen được coi là hình thức cai trị ưu việt nhất trong thế giới cổ đại.

Các khái niệm “dân chủ”, “công dân” đều là phát minh của người Hy Lạp. Nền dân chủ đã tạo nên sự khởi sắc trong đời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Thế kỷ V TCN Athen là thị quốc giàu có nhất Hy Lạp với một nền sản xuất hàng hóa phát triển, có đội thương thuyền mạnh, làm chủ cả vùng đại dương rộng lớn. Lao động nô lệ được sử dụng như lực lượng sản xuất chủ yếu trong tất cả các ngành. Thế kỷ V - IV TCN là thời kỳ cổ điển của văn hóa Hy Lạp với tính đa dạng, xu hướng nhân bản và tự do, thể hiện trong văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học và các bộ phận cấu thành khác. Trong văn chương thể loại bi kịch, hài kịch, anh hùng ca đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.

Người Hy Lạp cũng tạo ra nhiều phát minh có giá trị trong hoạt động khoa học. Thiên văn, toán học, vật lý, y học cổ đại in đậm dấu ấn Hy Lạp. Trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Các kịch trường Hy Lạp hầu như dành chỗ cho tất cả cư dân thị quốc với sức chứa không dưới chục ngàn người. Có thể nói thành quả của văn hóa Hy Lạp đầy nhân tính (humanitas).

Sau thời kỳ tồn tại và phát triển hưng thịnh, nền dân chủ chủ nô bộc lộ dần những mặt trái của nó. Sự khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô xuất từ chính bản chất của nó. Đó là hệ thống chính trị hạn chế, chật hẹp và khép kín chỉ dành cho dân tự do, tức công dân, lúc ấy có khoảng 30 - 40 ngàn người trong số hơn 250 - 300 ngàn người. Bị tước quyền làm người, trong suốt nhiều thế kỷ, người nô lệ liên tục nổi lên chống giai cấp chủ nô, dẫn đến sự suy yếu chế độ chiếm hữu nô lệ.

Giữa các tầng lớp dân cư tự do cũng nảy sinh mâu thuẫn trong tài sản và quyền lực. Mâu thuẫn tiếp theo là mâu thuẫn giữa người Hy Lạp “chính gốc” và dân nhập cư, kết quả của việc mở rộng lãnh thổ. Năm 431 TCN bắt đầu cuộc chiến tranh giữa liên minh Athen và liên minh Xpáctơ (Sparta). Các năm 430 - 428 nạn dịch giết chết một phần tư dân số Athen. Năm 404 TCN, Athen tuyên bố đầu hàng. Sparta thay Athen kiểm soát thế giới Hy Lạp. Nền dân chủ Hy lạp cổ đại tỏ ra lỏng lẻo, có nơi bị biến thành “trò chơi dân chủ”, mị dân, nhằm phục vụ mục đích của các tập đoàn thống trị. Các nhà tư tưởng lớn của Hy Lạp như Platon, Aristote đều phê phán nền dân chủ này, đòi hỏi thay thế nó bằng các hình thức nhà nước khác. Phải đến hai mươi thế kỷ sau nền dân chủ mới được nhắc đến và vận dụng vào đời sống chính trị trong điều kiện lịch sử đã hoàn toàn khác.



2. Empeđốc (Empedocles), Anaxago (Anaxagoras )và sự giải thích mới về bản nguyên thế giới

Các triết gia này thay đổi phương án “nhất nguyên” bằng phương án “đa nguyên”.



Empedocles (490 - 430 TCN) sinh tại Agơrigen, đảo Xixin. Ông là nhà hùng biện, nhà tu từ học, nhà thơ, bác sỹ, kỹ sư, đồng thời là người ủng hộ nhiệt thành nền dân chủ chủ nô, căm ghét chế độ độc tài, vì vậy về cuối đời bị phái qúy tộc chủ nô trục xuất, ông qua đời khi vừa kịp chứng kiến cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa các thị quốc Hy Lạp. Quần chúng dựng tượng ông để tỏ lòng kính trọng người con của quê hương.

Trong bản thể luận Empedocles cố gắng hợp nhất trường phái Milet, Hecralite và trường phái Élee trong quan niệm về bản nguyên thế giới. Ở các nhà duy vật thời sơ khai bản nguyên thế giới được quy về một trong các yếu tố vật chất, không có sự chuyển hóa vào nhau. Empedocles thì đưa ra cùng lúc bốn hành chất vừa nêu như bốn cội nguồn của vạn vật, chỉ ra chu kỳ vận động, biến hóa của chúng. Sự kết hợp các hành chất theo các tỷ lệ khác nhau tạo nên các sự vật khác nhau.

Tồn tại xét như quá trình, như quan hệ giữa các sự vật, được Empedocles diễn đạt bằng cặp khái niệm “Tình yêu - Thù hận”, trong vũ trụ diễn ra thường xuyên sự thay thế nhau giữa chúng cũng như giữa hợp nhất và tách biệt. Quá trình ấy cũng chi phối đời sống từ sinh thể đơn giản đến con người. Tính biện chứng tự phát trong việc lý giải sự sống được thể hiện qua quan hệ Tình yêu - Thù hận.

Trong lý luận nhận thức, Empedocles cho rằng đối tượng cao nhất của nhận thức là cái toàn thể, cái mà mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy, lý trí không bao quát hết. Nhận thức là quá trình thống nhất cảm tính và lý tính. Lý tính sâu sắc hơn, nhưng cảm tính hiện thực hơn, là nguồn gốc của nhận thức cái toàn thể. Khác với Parmenide, là người xem nhẹ vai trò của cảm giác, Empedocles cho rằng tư duy và cảm giác nương tựa, bổ sung cho nhau, thậm chí trong nhiều trường hợp chúng là một.

Triết học Empedocles là sự dung hợp chủ nghĩa duy vật tự phát và thuyết nhân hình nguyên thủy, vận dụng các đặc tính tâm lý, tình cảm của con người (tình yêu, thù hận) vào việc giải thích quá trình vũ trụ. Ông cũng chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi, vốn phổ biến trong triết lý phương Đông. Ông giải thích nhiều về sự đầu thai của linh hồn, về sám hối, thanh tẩy, số kiếp, về vòng luân chuyển triền miên của tồn tại như sự thử thách của thần linh: “Xưa ta là đứa trẻ vị thành niên, cũng có thể là thiếu nữ, thậm chí là cây cỏ, chim muông, là cá của đại dương câm lặng” (Empedocles, Thanh tẩy, câu 117).

- Anaxago (Anaxagoras, 500 - 428 TCN) sinh tại Cladômen, xứ Iônia, miền Tiểu Á, đến Athen theo đề nghị của Pericles, trở thành vị quân sư cho nhà lãnh đạo này. Song quan điểm tự do, có tính chất báng bổ thần linh, đã khiến ông suýt bỏ mạng, nếu không có sự can thiệp của Pericles. Bị đuổi khỏi Athen, Anaxagoras về quê mở trường dạy học. Sau khi ông qua đời cư dân Cladômen dựng bia tưởng niệm, ngày giỗ của ông học sinh đều được nghỉ học.

Vấn đề bản thể luận chiếm vị trí trung tâm trong triết học Anaxago, được ông trình bày trong tác phẩm Về tự nhiên, ở đó nhấn mạnh sự chuyển hóa về chất của các sự vật. Dù thừa nhận tư tưởng nền tảng của trường phái Élee về tồn tại (không có gì xuất hiện từ hư vô), song Anaxago bác bỏ cái gọi là tồn tại duy nhất, bất biến do Parmenide nêu ra (Anaxagoras: Về tự nhiên, câu 17).

Bản nguyên, theo Anaxagoras, là những phần tử bé nhất, siêu cảm giác của các trạng thái vật chất (lửa, nước, vàng, máu.) ông bác bỏ sự chuyển hóa thường xuyên của các mặt đối lập. Ông khẳng định: “thịt chuyển thành thịt, vàng chuyển thành vàng, còn mọi sự kết hợp khác chỉ là một kết hợp gượng ép, vô trật tự, chứ không phải là phép cấu thành sống động”11 Ông dùng Nous là khái niệm nền tảng dùng để lý giải quá trình tự nhiên:

3. Nguyên tử luận duy vật

Nguyên tử luận là chương mới trong triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đai, do Lơxíp (Leucippos, 500 - 440 TCN) sáng lập, Democrite (460 - 370 TCN) phát triển, Vào thời kỳ Hy Lạp hóa Epiquya (Epicuros, 342/341 - 271/270 TCN) điều chỉnh và nhân bản hóa theo xu hướng thống nhất với duy cảm luận, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa khoái lạc.

Democrites sinh tại Apđerơ (Abdere), thuộc xứ Tơraxơ (Thrace). Dù lớn lên trong gia đình giàu có, nhưng Democrites từ bỏ cuộc sống an nhàn để chu du khắp nơi. Ông từng có mặt ở Ai Cập, Ba Tư, An Độ, Babilon, tiếp thu nhiều kiến thức bổ ích về toán học, thiên văn. Trở lại Hy Lạp, ông đến Athen, tham dự các buổi thuyết giảng của Anaxago, gặp gỡ Socrate, nhưng không tán thành quan điểm của ai cả. Democrites viết khoảng hơn 70 tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm còn được lưu giữ qua những trích đoạn như Về tự nhiên, Về lý trí, Về trạng thái cân bằng của tinh thần, Về bản tính con người, Về hình học, Về nhịp điệu và hòa hợp, Về thi ca, Về hội họa, Về binh nghiệp, Về khoa chữa bệnh …

Ở khía cạnh bản thể luận thuyết nguyên tử được xây dựng trên cơ sở thừa nhận nguyên tử, với tính cách là tồn tại, khoảng không, hay hư không, hư vô, là những bản nguyên thế giới.

Ý tưởng về các nguyên tử như những phần tử bé nhất, không phân chia (atomos theo tiếng Hy Lạp là cái bé nhất, không phân chia được nữa. Trực quan sinh động và suy tư triết học đã đưa các nhà nguyên tử luận đến quan điểm sau: sự khác nhau của các nguyên tử về hình dáng, kích thước, trật tự, vị trí …là sự lý giải đầy đủ và xác đáng nhất tính đa dạng của thế giới vật chất. Democrites xem vận động là thuộc tính của các nguyên tử, nó vĩnh cửu và không do ai sinh ra, cũng như các nguyên tử. Tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân tích sự tự vận động, nguyên nhân tự thân của vận động vật chất.

Quan niệm về nguồn gốc vũ trụsự sống cũng được giải thích trên cơ sở thuyết nguyên tử. Quan hệ giữa con người, loài vật và toàn thể vũ trụ là quan hệ giữa tiểu thế giới và đại thế giới. Sự giống nhau giữa hai thế giới chính là ở chỗ cả hai đều cấu thành từ các nguyên tử.

Bản thể luận và vũ trụ quan của Democrite ở một khía cạnh nào đó là sự dung hòa giữa Hecralite và Parmenide, theo đó thế giới các sự vật luôn tuôn chảy, nhưng đồng thời là thế giới bền vững, hài hòa, hoàn hảo, được cấu thành từ các nguyên tử. Cách diễn đạt như vậy chưa hẳn chính xác, bởi lẽ trên thực tế sự biến đổi mang tính tuyệt đối, sự bền vững về kết cấu vật chất của sự vật là tương đối, có điều kiện. Các nguyên tử tạo nên sự vật lẽ cố nhiên bền vững, theo quan niệm của các nhà nguyên tử luận, song bản thân sự vật, hình thành từ sự kết hợp các nguyên tử, thì biến đổi tự tại.

Aristotes xem Democrites như bậc tiền bối của logic quy nạp, để phân biệt với logic diễn dịch của mình. Sau này, vào thế kỷ XVII, Ph. Bêcơn (F. Bacon), người chủ trương phương pháp thực nghiệm - quy nạp, đánh giá cao Democrites khi cho rằng nhà triết học cổ đại này đã “đi vào tận chiều sâu thăm thẳm của giới tự nhiên”.

Quan điểm đạo đức chính trị của Democrites phản ánh nỗ lực của con người nhằm duy trì những chuẩn mực xã hội tốt đẹp trong bối ảnh nền dân chủ chủ nô đang đứng trước nguy cơ khủng khoảng, suy thoái. Trong quan hệ xã hội Democrites đánh giá cao lòng nhân ái, tình bạn. Bạn tốt là người xuất hiện khi được mời trong những ngày vui, chủ động đến trong những ngày buồn, những khoảnh khắc đầy thử thách. Ai không có bạn thì đó là người xấu, vì không biết yêu ai, không ai yêu mình. Để phân biệt Thiện - Ac Democrites nêu ra những cách ngôn như “nhận ra người trung thực và người dối trá không nên chỉ căn cứ vào việc làm của họ, mà cả ước muốn của họ”, “cái qúy của loài vật ở tố chất cơ thể, cái qúy của con người ở tính cách tinh thần”, “người tốt thì tốt cả trong ý nghĩ”, “chính trong bất hạnh ta càng trung thành với nghĩa vụ thiêng liêng”. Democrites đề cao vai trò của giáo dục, học vấn trong việc hinh thành đức hạnh. Giáo dục tốt nhất trong môi trường gia đình, mà người cha là tấm gương. Giáo dục thống nhất với học vấn. Trìng độ học vấn là thứ trang sức cho người hạnh phúc, là chốn nương thân của kẻ bất hạnh. Triết lý đạo đức của Đêmôcrít xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự như mẫu người quân tử trong triết lý Nho giáo phương Đông. Hiền nhân không màng danh lợi, không ham của cải, lấy “nguồn lực tâm hồn” làm cơ sở cho hành vi. Democrites đánh giá cao sự trung dung và điều độ trong cuộc sống:”Hãy sử dụng mọi thứ vừa đủ”, “chớ vì muốn biết mọi thứ mà trở thành kẻ mơ hồ (trong nhận thức) đối với mọi thứ”.

Democrites ủng hộ nhiệt thành nền dân chủ chủ nô, bất chấp tình trạng khủng hoảng của nó. Ông tin tưởng rằng những mâu thuẫn đang nảy sinh trong nền dân chủ sẽ được khắc phục, bởi lẽ, xét về bản chất, sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ vẫn đáng quý hơn cái mà người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ, bởi tự do tốt hơn nô lệ. Quyền lực chân chính nhất không nằm trong tay những kẻ giàu sang, mà thuộc về nhân dân, những “nguyên tử xã hội” hùng mạnh.

Vào thời kỳ Hy Lạp hóa nguyên tử luận tìm thấy người kế thừa ở Epiquya (Epicuros) và trường phái Êpiquya.

Có thể nói các nhà duy vật cổ đại, từ Thalet trở đi, đã cố gắng tìm kiếm dấu hiệu tổng quát để diễn đạt bản nguyên thế giới, nghĩa là họ vươn dần đến trình độ khái niệm, trình độ thực thể trong cách hiểu về cơ sở của tồn tại.

Chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy lạp cổ đại không chỉ bàn đến bản nguyên thế giới, mà bước đầu đến vấn đề nhận thức, nhân sinh, đặt nền móng cho sự phát triển triết học Hy Lạp ở các thời kỳ sau.

Trong lý luận nhận thức, các nhà duy vật chỉ ra mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, trong đó xem nhận thức lý tính như nhận thức “chân thực”, khác với nhận thức cảm tính như nhận thức “mờ tối” (Democrites).

Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với thực trạng của tri thức về tự nhiên, những mầm mống của khoa học chuyên biệt. Nhiều luận điểm của triết học duy vật, dù mang tính tự phát, bẩm sinh, đã đem đến cho con người những gợi mở tích cực, kể cả định hướng thế giới quan và phương pháp luận nghiên cứu khoa học.

4. Socrate và những chuyển biến mang tính bước ngoặt trong triềt học phương Tây cổ đại

a. Phái biện thuyết

Vào nửa sau thế kỷ V TCN trong bối cảnh hưng thịnh của nền dân chủ chủ nô, triết học, lôgíc học và tu từ học được dịp phát triển, dần dần chiếm ưu thế trong hệ thống giáo dục của xã hội. Lúc ấy tại Athen và một số thị quốc khác xuất hiện nghề “dạy tư duy”, dạy cách diễn đạt, gọi là nghề biện thuyết (từ nguyên Hy Lạp:sophistikè), và các nhà biện thuyết (từ nguyên Hy lạp: sophistès). Đối với họ chân lý khách quan không quan trọng bằng chiến thắng đối thủ trong tranh cãi.

Có thể gọi các nhà biện thuyết là những nhà khai sáng cổ đại. Họ chú trọng nhân tố con người, chủ thể tư duy, dùng chủ nghĩa tương đối (relativism) để giải thích những vấn đề thế giới quan, nhận thức luận, đạo đức, xã hội. Họ đã đại chúng hóa tri thức, truyền bá cho các công dân những gì mà khoa học và triết học thời ấy tích lũy.

Các nhà biện thuyết có nhiều đóng góp cho khoa học ngôn ngữ, nhất là tu từ học. Họ làm sâu sắc thêm thái độ có tính phê phán đối với mọi tri thức và kiến giải, chống lại những quan điểm thiếu tính chân thực, phê phán cả những cơ sở của nền văn minh. Lần đầu tiên cá nhân trở thành quan tòa phán xét mọi thứ.




tải về 353.36 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương