LỊch sử triết học phưƠng tâY


I. Triết học giai đoạn Hy Lạp - La Mã cổ đại



tải về 353.36 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích353.36 Kb.
#20145
1   2   3   4   5



I. Triết học giai đoạn Hy Lạp - La Mã cổ đại


1. Sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại

a) Điều kiện kinh tế, xã hội dẫn đến sự ra đời triết học Hy Lạp cổ đại



  • Về tự nhiên

Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực. Bắc Nam và Trung bộ.

Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành bang lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ (Peloponnese hay Peloponnesus) với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng.

Tuy nhiên trung tâm của Hy lạp cổ đại, trải qua bao thăng trầm, vẫn là vùng biển Egiê, nơi nhà nước và nền văn hóa Hy Lạp đạt tời sự phồn thịnh cao nhất của mình. Nơi đây những nền móng đầu tiên của tri thức khoa học và triết học đã hình thành từ rất sớm.

Có thể nói, Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.



- Về kinh tế

Vào thời đại Hôme5 (Homer) (thế kỷ XI - IX TCN) ở Hy Lạp đã chớm bắt đầu quá trình tan rã của công xã thị tộc, được thúc đẩy bởi sự phân công lao động, diễn ra trong nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi.

Polis, khái niệm dùng để xác định nhà nước đặc trưng của người Hy Lạp dưới hình thức các thị quốc (thành bang như Athens, Sparte, Mile), vào thời Homer chỉ là những cụm dân cư, tương đối độc lập, có thành lũy bao bọc xung quanh. Song sự phân hóa xã hội cũng đã bắt đầu và ngày càng trở nên gay gắt.

Thế kỷ VIII – VI BC, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Thủ công tách khỏi nghề nông và tiến những bước đáng kể. Hình thức tổ chức quyền lực mang tính nhà nước đã xuất hiện, thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng cũng tạo nên sự phân hóa sâu sắc trong đời sống xã hội. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII BC là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Sự hưng thịnh của kinh tế kích thích quá trình vượt biển tìm đất mới, dẫn đến những cuộc di thực ồ ạt, xâm chiếm các khu vực làng giềng, bắt người làm nô lệ.

Engels đã nhận xét: “Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp, không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.


  • Về chính trị - xã hội

Sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã của nền kinh tế tự nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối kháng giữa các lực lượng xã hội, sự thôn tính đất đai, sử dụng lao động nô lệ… khiến cho chế độ công xã thị tộc, là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến chỗ suy vong, và bị thay thế bởi một thiết chế xã hội mới, phù hợp với những quan hệ xã hội mới : xã hội chiếm hữu nô lệ

Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu với thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.

Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, nông nghiệp phát triển với tầng lớp Chủ nô quý tộc. Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên Athen và Sparte diễn ra cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và Athen thất bại. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chớp lấy thời cơ, Vua Philip ở phía Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II BC, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa. Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.

-Về văn hóa: Cùng với sự hình thành các thị quốc, nền văn hóa mới cũng được xác lập, trở thành bộ phận hữu cơ của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại. Những biểu hiện chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư duy, ý thức về nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thần ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù đạo đức chính trị cao qúy. Sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy lạp là sự kế thừa các giá trị truyền thống, thể hiện trong các sáng tác dân gian, trong thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo, trong những mầm mống của tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và phát triển như một thành tố không tách rời của nền văn hóa mới ấy.

b) Con đường từ tư duy biểu tượng đến tư duy khái niệm, hay tiền đề tinh thần của triết học Ngạc nhiên làm nảy sinh triết lý, triết lý của con người về thế giới ở buổi đầu lịch sử thể hiện trong huyền thoại và sinh hoạt tín ngưỡng nguyên thuỷ. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng, của con người với thế giới xung quanh cuối cùng được thay thế bằng hình thức thế giới quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc hơn của con người.

- Quá trình này bắt đầu từ thời đại Hôme (thế kỷ XI - IX TCN) với việc xóa bỏ dần hố sâu ngăn cách giữa thần và người, nêu ra các ý tưởng sơ khởi về hỗn mang, về các hành chất, về nguồn gốc thế giới, và cả những thông điệp của con người về tình bạn, tình yêu, tinh thần ái quốc. Xu hướng này được tiếp tục ở Hêsiốt (Hesiods). Trong “Thần hệ” của Hesiods các trạng thái vũ trụ được mô tả thông qua các thế hệ thần linh, từ Hỗn mang đến thần Dớt - biểu tượng của trật tự, ánh sáng và sự tổ chức cuộc sống trong vũ trụ. Hiện tượng Prômêtê lấy trộm lửa của thần Dớt (Ziods) đem đến cho con người hàm chứa ý nghĩa sâu xa: lửa - biểu tượng của sức mạnh và lý trí - không còn là đặc quyền của thần linh như trước, mà đã cố hữu nơi con người. Con người trở nên tự chủ hơn trong quan hệ với thế giới xung quanh.

Vào khoảng cuối thế kỷ VII - đầu thế kỷ VI TCN, các thị quốc bước vào thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai và sự ra đời đồng tiền kim khí đã tạo nên những biến đổi lớn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở bình diện văn hóa tinh thần “bảy nhà thông thái” xuất hiện, mở đường cho một nền triết học thực sự. Trong số họ Thalet được Aristote gọi là nhà triết học đầu tiên của thế giới phương Tây.

Con đường từ thần thoại đến triết học, theo Hegel, là con đường đi từ lý tính hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức diễn đạt thông qua biểu tượng đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm6. Triết học ra đời không có nghĩa thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, nhưng được xem xét ở bình diện khác - bình diện giá trị. Đằng sau những câu chuyện thần thoại là cả một triết lý sống, thể hiện những chuẩn mực, những giá trị, những bài học đạo đức, nhân văn.



c) Ảnh hưởng của văn hoá phương Đông đến sự hình thành tư duy triết học và khoa học Hy Lạp

Trong quá trình xây dựng các học thuyết triết học và khoa học người Hy Lạp kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc phương Đông, vốn hình thành sớm hơn, đồng thời tạo cho mình một phong cách và sắc thái tư duy độc đáo, tạo nên truyền thống đặc trưng được tiềp tục bổ sung, phát triển ở các thời đại sau.

Thông qua những chuyến vượt biển tìm đất mới, quan hệ buôn bán, giao lưu, người Hy Lạp tiếp thu chữ viết, thành quả khoa học, và cả yếu tố huyền học (occultism) ở các nền văn minh phương Đông, nhất là vùng Trung Cận Đông và Bắc Phi.

Chữ viết tượng hình xuất hiện tại Ai Cập, Mesopotamie và một số dân tộc khác từ khoảng 2700 TCN. Đến thế kỷ VIII TCN người Phenicie, sau đó người Hy Lạp tiếp thu, cải biến và hoàn thiện thêm. Các lĩnh vực tri thức ở phương Đông như toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp, các mầm mống của y học, các khoa học được người Hy Lạp đón nhận rất thông minh, thúc đẩy quá trình hình thành những phác thảo đầu tiên về thế giới quan vào thế kỷ VII - VI TCN.

Người Ai Cập tính được số pi, diện tích hình tam giác, hình chữ nhật,, hình thang, hình bình hành, hình tròn. Hệ thống lịch pháp thừa hưởng từ người Ai Cập đã được xác lập vào đầu thiên niên kỷ II TCN. Các yếu tố huyền học, khi được du nhập vào Hy Lạp, chúng vẫn phải đóng vai trò giá đỡ cho tinh thần phóng khoáng, tự do của người Hy Lạp.

Trong quá trình tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tinh thần phương Đông, người Hy Lạp tạo nên phong cách tư duy đặc trưng của mình, trở thành cái nôi của triết học và khoa học phương Tây. Dù đi sau phương Đông về văn minh, nhưng Hy Lạp không đơn giản làm công việc của người kế thừa. Ngược lại, sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp là kết quả phát triển nội tại của tinh thần Hy Lạp, được thể hiện sinh động trong huyền thoại, trong văn hóa và trong tín ngưỡng nguyên thủy.



2. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại

Triết học Hy Lạp - La Mã trải qua ba chặng đường lớn, phản ánh sự hình thành, phát triển, khủng hoảng và sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ.



2.1. Triết học thời sơ khai – (thời kỳ Tiền Socrate)

Giai đoạn ra đời các trường phái triết học đầu tiên tại Hy Lạp (thế kỷ VI - V TCN) cũng là thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết học thay thế tư duy huyền thoại. Phần lớn các triết gia muốn tìm hiểu bản nguyên và bản chất thế giới. Tính biện chứng tự phát, bẩm sinh thể hiện một cách sinh động. Bên cạnh đó vấn đề nhận thức luận, nguồn gốc sự sống cũng được đặt ra. Đây là thời kỳ khai nguyên triết học với những khuynh hướng và những phương pháp tư duy cơ bản nhất.



2.2. Triết học thời cực thịnh (thế kỷ V - thế kỷ IV TCN), còn gọi là thời kỳ Socrate, với những thăng trầm của nền dân chủ chủ nô. Vào thời kỳ này cùng với các vấn đề bản thể luận và vũ trụ luận, các nhà triết học tìm hiểu nhận thức luận và vấn đề nhân sinh, xã hội. Con người giờ đây không chỉ là chủ thể, mà còn trở thành đối tượng, thành điểm xuất phát và mục đích của các tư tưởng triết học. Các triết gia giai đoạn này đã làm triết học Hy Lạp phát triển rực rỡ, làm rạng danh triết học phương Tây.

2.3. Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn, hay thời kỳ Hy Lạp - La Mã. (III TCN - V CN).

Thời kỳ Hy Lạp hoá: Đây là thời kỳ Hy Lạp bị La Mã chinh phục về lãnh thổ, nhưng La Mã lại bị khuất phục bởi những giá trị của nền văn hoá rực rỡ của Hy Lạp cổ đại (khoảng 143 TCN). Những thành tựu văn hóa, khoa học của Hy Lạp được dịp phổ biến rộng rãi, từ khu vực Địa Trung hải đến Bắc Phi và vùng Trung Cận Đông; tiếng Hy Lạp được sử dụng chính thức. Bên cạnh những vấn đề phổ quát, siêu hình, các triết gia chú trọng nhiều hơn đến thế giới nội tâm của cá nhân, tìm kiếm phương thức giải thóat khỏi những vướng bận của đời thường, hoặc chủ trương đối thoại giữa con người với vũ trụ, thần linh. Trừ phái Êpiquya, phần lớn các nhà triết học thời kỳ Hy Lạp hóa là những người đề cao vai trò của thần trong đời sống tâm linh của con người.

Sự khủng hoảng của tư tưởng triết học Hy Lạp - La Mã xuất phát từ bản chất của chế độ chiếm hữu nô lệ và những cuộc chiến tranh triền miên do mâu thuẫn giai cấp cùng với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của Kytô giáo (Christianity, Christianisme), với tư cách là tôn giáo nhất thần, thay thế tôn giáo đa thần, với thuyết giáo và biểu tượng mới, cũng góp phần báo trước sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ. Ở buổi đầu lịch sử, Kytô giáo là tôn giáo của quần chúng bị áp bức, chống lại ách thống trị của đế chế La Mã bằng hình thức ôn hòa, tuyên truyền cho lối sống dân chủ, bình đẳng, không phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, nam nữ, trở thành chỗ dựa, hay liệu pháp tâm lý cho tinh thần của nô lệ và người nghèo. Sau hai thế kỷ bị đàn áp, năm 324 Kytô giáo được công nhận là quốc giáo. Từ thời điểm này, nó trở thành một định chế vững vàng trong xã hội đang đi vào qũy đạo của chế độ phong kiến. Năm 476, đế quốc La Mã bị sụp đổ do những mâu thuẫn bên trong và sự tấn công của các sắc tộc “man di” từ phương Bắc. Năm 529 trường phái Platon tại Athen chính thức bị đóng cửa, chấm dứt một thiên niên kỷ tồn tại và phát triển của triết học cổ đại Hy Lạp - La Mã, triết học của xã hội chiếm hữu nô lệ. Phong cách tư duy chịu sự chi phối của Kinh Thánh ở bình diện thế giới quan, nhận thức luận và nhân sinh xã hội. Triết học Kytô giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần của toàn xã hội, thủ tiêu đa nguyên triết lý, vốn là đặc trưng của tư duy cổ đại.



tải về 353.36 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương