LỊch sử triết học phưƠng tâY



tải về 353.36 Kb.
trang1/5
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích353.36 Kb.
#20145
  1   2   3   4   5
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

  1. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC



  1. Tư duy triết học đến với loài người như thế nào?

Về mặt lịch sử, hình thức triết lý đầu tiên của con người thể hiện trong tư duy huyền thoại, những lời đáp về thế giới được cô đọng trong những câu chuyện thần thoại. Đó là sự đối thoại đầu tiên đầy tính hoang tưởng của con người với thế giới xung quanh

Thần thoại ngự trị trong ý thức đại chúng cùng với thuyết nhân hình xã hội nguyên thuỷ, vật linh thuyết, vật hoạt luận. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và trí tưởng tượng, những quan niệm của họ còn rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc. Các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên ở thần thoại còn chưa bị phân đôi. Đỉnh cao phát triển của thần thoại cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó: Triết học – hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại ra đời, thay thế cho tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thuỷ.



  1. Ngữ nguyên (etymology) của chữ triết học

Thuật ngữ “triết học” mà chúng ta đang sử dụng hiện nay có ý nghĩa tương đương với tiếng Hy Lạp “philosophia”1 (φιλοσοφία), sự hợp nhất của “yêu mến”, “yêu thích”, “khát vọng” (φιλεω, hoặc φιλία) và “sự thông thái”, “sự mẫn tiệp” (σοφία).Thuật ngữ “triết học” này do người Hy Lạp nêu ra (philosophia) theo nghĩa hẹp là “yêu mến sự thông thái”, còn theo nghĩa rộng, là khát vọng vươn đến tri thức; nói khác đi, là “quá trình tìm kiếm chân lý”; nhà triết học là người yêu mến sự thông thái, khác với nhà bác học (sophos), người nắm vững chân lý. Tuy nhiên với thời gian triết học được hiểu theo nghĩa rộng: đó là thứ tri thức phổ quát, tìm hiểu các vấn đề chung nhất của tồn tại và tư duy.

Tương truyền Pythagore đã đặt ra danh từ này. Thuật ngữ “philosophia” đi sau thuật ngữ “philosophos” – triết gia khác với nhà thông thái, nhà bác học: ở chỗ khát vọng “vươn đến sự thông thái” và “sự thủ đắc kiến thức”. Pythagore đã nói: “Đa số người đời đều là nô lệ, người thì làm nô lệ cho danh vọng, kẻ làm nô lệ cho tiền tài. Nhưng cũng có một số ít người khinh thường những thứ đó, và chỉ chuyên tâm tìm hiểu thiên nhiên. Chính những người này là tự xem mình là bạn của trí tuệ; và đó là ý nghĩa của danh từ philosopos – triết gia”



3. Tri thức triết học mang tính thời đại

Tri thức triết học là tri thức mở, với ước muốn đem đến những lời đáp chung nhất, có tính hệ thống về thế giới xung quanh và thế giới của chính con người, và là dạng tri thức lý luận xưa nhất của nhân loại.

-Ở buổi đầu lịch sử tri thức triết học là tri thức bao trùm, là “khoa học của các khoa học”. Nói như thế không có nghĩa là tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, nghệ thuật chưa xuất hiện. Vấn đề là ở chỗ các tư tưởng đó đã được xem là một phần của triết học.

-Vào thời Trung cổ, thần học Kytô giáo chiếm vị trí thống trị trong sinh hoạt tư tưởng. Nhà nước phong kiến và nhà thơ Thiên chúa giáo chỉ lấy “những cái phù hợp” trong triết học Aristotle, trường phái Platon (Plato) để làm chỗ dựa tư tưởng của mình. Triết học trở thành nô lệ của thần học, của cái gọi là tư duy chuẩn mực, nhà thờ trở thành “nền chuyên chính tinh thần”, lịch sử các vị thánh quan trọng hơn lịch sử các danh nhân.

Thế kỷ XV – XVI được xem là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang xã hội tư sản. Tư tưởng nhân văn trở thành trào lưu chủ đạo và xuyên suốt, thể hiện ở hầu khắp các lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, với thông điệp con người là trung tâm.

Từ thế kỷ XVII – XVIII trở đi tư tưởng triết học, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị mang tính thế tục và duy lý thay thế dần thần học vạn năng. Khi trung tâm tri thức chuyển từ Anh và Pháp sang Đức từ nửa sau thế kỷ XVIII truyền thống “cổ điển” phương Tây, bắt đầu từ Hy Lạp – La Mã, đạt đến đỉnh cao hoàn thiện nhất, mà điển hình là hệ thống Hêghen (Hegel). Trong những năm 20 – 40 của thế kỷ XIX đã diễn ra quá trình phi cổ điển hóa các lĩnh vực tri thức, thể hiện ở văn hóa, khoa học, triết học. Bước ngoặt lớn này gắn liền với những biến đổi kinh tế, chính rị, xã hội và chịu sự sự chi phối của những biến đổi ấy. Và chính họ, đặc biệt các nhà triết học cổ điển Đức, điển hình là Hegel và Feuerbach, tạo nên một trong những tiền đề lý luận của chủ nghĩa Mác.

Ngày nay xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đưa các dân tộc xích lại gần nhau hơn, tăng cường giao lưu, đối thoại, hướng đến lợi ích chung – hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững. Song bên cạnh đó xung đột về lợi ích vẫn chưa chấm dứt, mà ngày càng diễn biến phức tạp. Đấu tranh tư tưởng và đối thoại tư tưởng đan xen nhau, làm nên bức tranh tư tưởng đa dạng và phức tạp và đầy mâu thuẫn. Các chủ đề của tư tưởng triết học trở nên phong phú, với khá nhiều trào lưu, khuynh hướng lần lượt ra đời và bị thay thế, kể cả những trào lưu, khuynh hướng từng được xem là tuyên ngôn bán chính thức về lối sống của một xã hội.

II. Tính quy luật của sự ra đời, phát triển tư tưởng triết học thể hiện ở những điểm sau:

1) Mỗi hệ thống, trào lưu tư tưởng triết học đều xuất hiện một cách tất yếu, và với tính tất yếu ấy nó chịu sự sàng lọc của lịch sử, bị thay thế bởi những tư tưởng phù hợp với điều kiện lịch sử mới.

2) Tư tưởng của quá khứ không biến mất hoàn toàn, mà thường để lại di sản của mình; một số nội dung của nó tiếp tục được tìm hiểu, nghiên cứu như những bài học kinh nghiệm của lịch sử, một số khác tiếp tục gia nhập vào cái toàn thể sống động tiến về phía trước;

3) Sự vận động của tư tưởng triết học theo quá trình từ trừu tượng đến cụ thể. Theo đó triết học phương Tây càng lùi về phía sau càng trừu tượng, càng gần với thời đại này càng giàu nội dung, càng cụ thể. Mối quan hệ giữa triết học với các lĩnh vực tri thức cũng thay đổi theo thời gian.

4) Tư tưởng triết học là sản phẩm của thời đại, được sinh ra, nuôi dưỡng, thẩm định bởi thời đại; trong triết học phương Tây, không có chân lý bất biến, tuyệt đích cho mọi thời đại, do đó không có thứ tư tưởng triết học xuyên qua nhiều thời đại, được thần thánh hóa như những tín điều bất di bất dịch.

Tìm hiểu sự phát triển của tư tưởng triết học qua các thời đại, C.Mác nhận định: “… Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình”2, và rằng “các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất; họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình”3. Triết học chân chính là thứ triết học được sinh ra bởi thời đại, được tạo nguồn năng lượng sống bằng chính thực tiễn phong phú của thời đại, và về phần mình, góp phần vào sự phát triển của thời đại thông qua thiên chức cao cả của mình.



- Tính tất yếu của sự thay đổi các chủ đề tư tưởng triết học

- Trong sự phát triển tư tưởng triết học, các chủ đề thường xuyên trải qua thay đổi, bổ sung, mở rộng nhằm lý giải một cách kịp thời các quá trình thực tiễn xã hội. Có những chủ đề tư tưởng hôm qua là chủ đạo, hôm nay chỉ còn đóng vai trò thứ yếu; ngược lại, cái mà hôm qua ở dạng phôi thai, thì hôm nay trở thành trung tâm, thành điểm nóng của sự tranh luận.

- Bốn nguyên tắc cần nắm trong quá trình tìm hiểu một học thuyết, một trào lưu tư tưởng trong lịch sử là: thứ nhất, nguyên tắc lịch sử cụ thể, Thứ hai, xác định cái cơ bản nhất, cốt lõi nhất là đối tượng nghiên cứu. Nhờ đó, ta mới hiểu được một cách sâu sắc và cô đọng cái “hồn” sống động nhất của từng thời đại. Thứ ba, kết hợp hai cách đánh giá, đánh giá từ góc độ thế giới quan4 và đánh giá từ góc độ giá trị đối với từng học thuyết, chỉ ra vai trò, vị trí của từng học thuyết trong đời sống xã hội trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng. Thứ tư, chỉ ra mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, nghĩa là rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử của việc nghiên cứu một học thuyết, giá trị đối với thời đại của chúng ta.

CHƯƠNG I

TRIẾT HỌC HY LẠP - LA MÃ CỔ ĐẠI (thế kỷ VI - thế kỷ V TCN)



tải về 353.36 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương