LỊch sử KẾt tập kinh luật lần thứ 1 tt thích Phước Sơn



tải về 174.48 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích174.48 Kb.
#25920
1   2   3

VÀI ĐIỀU GHI NHẬN
1. Lý do kết tập: Cả hai bộ Tứ Phần Luật (ĐTK. 1428, tr 969c - 970a) và Thập Tụng Luật (ĐTK. 1435,tr 453c - 455c) đều nhất trí với Ngũ Phần Luật cho rằng do 10 điều phi pháp của nhóm Tỳ kheo Bạt Kỳ mà phải mở đại hội kết tập pháp tạng lần thứ hai này. 
2. Thời gian kết tập: Ngũ Phần Luật và Tứ Phần Luật đều ghi nhận là sau Phật Niết bàn 100 năm. Riêng thập tụng luật thì bảo sau Phật Niết bàn 110 năm 
3. Địa điểm kết tập: cả ba bộ đều nhất trí bảo là tại Tỳ Xá Ly. 
4. Thành phần chủ trì cuộc kết tập: Hai bộ kia cũng không khác mấy với Ngũ Phần (xem lại trên), chỉ có cách phiên âm tên của các trưởng lão hơi khác đôi chút mà thôi. 
5. Số người tham dự kết tập: Cả ba bộ đều nhất trí cho rằng cuộc kết tập lần này có tất cả 700 vị A La Hán. 
6. Về 10 điều phi pháp: Cả ba bộ, kể cả Luật Thiện Kiến (ĐTK. 1462, tr 677c) và Luật Nam Tông (Luật xuất gia quyển thượng, T.K.Hộ tông, 241) cũng ghi nhận là có tất cả 10 điều, nhưng về thứ tự 10 điều thì có đảo lộn chút ít (xem bản so sánh ở sau). Tuy thế nội dung của từng điều thì các bộ gần như nhất trí, chỉ khác nhau về cách diễn giải rộng hay hẹp mà thôi. 

Ở điều 2, Ngũ Phần Luật ghi: "Lưỡng chỉ" "sao thực thực tịnh" (dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp), và được giải thích rõ là: Tỳ Kheo ăn xong, rời khỏi chỗ ngồi, nếu nhận được thức ăn khác không cần xin phép ăn thêm, dùng hai ngón tay cầm thức ăn mà ăn vẫn hợp pháp. Chúng tôi đã so sánh các bộ Tứ Phần Luật, Thập Tụng Luật, Thiện Kiến Luật - là những tư liệu rất căn bản, cổ xưa, còn giữ nguyên vẹn - cũng đều giải thích ý nghĩa như Ngũ Phần. Nhưng không hiểu sao phần lớn các loại luật giải về sau, thường giải thích điều này khác hẳn. Cụ thể như Phật Quang Đại Từ Điển, tr 442a, giải thích điều 2 Nhị chỉ tịnh như sau: Từ lúc mặt trời đúng ngọ cho đến lúc bóng xế hai ngón tay vẫn có thể ăn được (mà không phạm luật). Nhân đây người viết muốn nêu lên thắc mắc này, xin chất chính các vị tôn túc luật sư, và rất mong vấn đề này được làm sáng tỏ. 

Tại sao gọi 10 điều ấy là phi pháp? Thiết nghĩ lúc bấy giờ cách Phật Niết bàn mới khoảng 100 năm, các vị tôn túc trưởng lão nghiêm trì giới luật vẫn còn nhiều, chánh pháp còn được nhiều người sùng thượng, mà các Tỳ kheo Bạt Kỳ lại tự tiện đặt ra những điều luật mới khác với giới luật Phật chế, nên mới bị lên án gắt gao như vậy. Kỳ thục, trong 10 điều ấy chỉ có vài điều là trái luật, ngoài ra, các điều khác cũng không có gì là trầm trọng lắm, nếu đem so sánh với thời đại chúng ta ngày nay. Vả lại, muốn cho chánh pháp tồn tại lâu dài và được truyền bá rộng rãi, thì các sứ giả Như Lai phải biết tùy theo căn cơ, thời đại và hoàn cảnh mà áp dụng giới luật một cách uyển chuyển, linh động, miễn sao không phương hại đến mục đích giải thoát là được. Nếu không thì giới luật của Phật sẽ có nhiều điều trở nên vô hiệu. Thế nên, Phật đã cẩn thận căn dặn: "Này các Tỳ kheo, tuy là những điều do ta chế định, nhưng nếu không phù hợp với phong tục tập quán của địa phương đó, thì không nên áp dụng. Trái lại, có những điều không do ta quy định, nhưng vốn là phong tục tập quán của địa phương ấy thì không thể không thi hành" (Ngũ Phần Luật, ĐTK. 1421, tr 153a) 

Rồi đức Phật bổ túc: "Tỳ Kheo khi làm một việc gì, nên đem đối chiếu với kinh, luật, nếu việc làm đó phù hợp với tinh thần của kinh, luật thì hãy làm. Ngược lại, nếu việc làm đó trái với tinh thần của kinh, luật, thì không nên làm" (Tứ Phần Luật, ĐTK.1428, tr 970a). 


Tóm lại tinh thần của Phật giáo là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến mà vẫn tùy duyên". Chúng ta có thể linh động áp dụng giới luật sao cho tốt nhất để đạt đến mục đích giải thoát, nhưng phải thận trọng trong việc đề xuất những quy định mới, và nhất là không nên tùy tiện sửa đổi giới luật của Phật. 

PHỤ LỤC: BẢN SO SÁNH 10 ĐIỀU PHI PHÁP

Các bộ luật - Những điều khoản 


- Ngũ Phần Luật: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 
- Tứ Phần Luật: 7 1 3 2 6 8 9 5 4 10 
- Thập Tụng Luật: 1 2 5 3 4 7 9 8 6 10 
- Thiện Kiến Luật: 1 2 4 3 7 8 9 6 5 10 
- Nam Tông Luật: 1 2 4 3 7 8 9 6 5 10 

Chỉ có cột 3 của Ngũ Phần Luật (3 Tứ Phần: 5 Thập Tụng: 4 Thiện Kiến: 4 Nam Tông) về nội dung, so với mỗi bộ có sai khác đôi chút, còn 9 cột kia, tuy vị thứ của mỗi bộ có khác nhau, nhưng nội dung căn bản có thể nói tương đối nhất quán. (Khi nào có dịp, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này). 



Thích Phước Sơn

LỊCH SỬ KẾT TẬP KINH - LUẬT - LUẬN LẦN THỨ BA


TT Thích Phước Sơn

Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập pháp tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là năm 325 trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ. 

Vua A Dục ra đời khoảng 200 năm sau khi Phật Niết bàn, tức khoảng hơn 340 năm trước Tây lịch. Lúc ông còn trẻ, vốn tính tình hung bạo, nên không được phụ vương yêu thích. Do đó ông bị đưa đi trấn nhậm một vùng đất xa xôi. Đến khi phụ vương băng hà, ông liền đem quân về triều, giết người anh cả là Hoàng Thái tử Tu-Ma-Na (Sumara) và tất cả những người anh em khác, chỉ để lại một người em cùng mẹ là Túc Đại Đa (còn gọi là Đế Tu) rồi lên ngôi vua. Sau khi tức vị, trong khoảng 3 năm đầu, nhà vua chỉ phụng sự ngoại đạo, theo truyền thống của tiên vương để lại. Đến năm thứ 3, nhân trông thấy một Sa di tên Nê-Cù-Đà (Nigrodha) oai nghi tề chỉnh, tướng mạo đoan trang, nên vua phát tâm tín kính Phật pháp.

Vị Sa di này chính là con của Tu-Ma-Na. Nhân khi vua sát hại các người anh em trong hoàng tộc, thì người chị dâu, vợ Tu-Ma-Na, đang mang thai, trốn được. Sau đó, bà sinh ra Nê-Cù-Đà. Lúc Nê-Cù-Đà lên 7 tuổi, thì được A la hán Bà-Lưu-Na (Mahàvaruna) độ cho xuất gia làm Sa di. Chuyện kể rằng, lúc Bổn sư thế phát, tóc rơi chưa tới đất thì Nê-Cù-Đà đã đắc quả A La hán. Vị Sa di này, trong một tiền kiếp xa xưa, vốn là anh của A Dục. Hai anh em cùng mộ đạo tu hành, tạo nhiều công đức. Do nhân duyên ấy, khi vừa trông thấy ông, vua A Dục đã có thiện cảm ngay tức khắc. Hơn nữa, nhờ đã gieo trồng phước đức trong quá khứ, nên nhà vua dễ dàng thâm tín Tam bảo, và phát tâm cúng dường Tăng chúng một cách nhiệt thành. Số người nhận được sự cúng dường của vua lên đến 6 vạn người trong mỗi ngày. Đồng thời, vua cho xây cất 84.000 ngôi già lam, và kiến tạo 84.000 ngôi bảo tháp trong khắp quốc độ, cũng như tại các nước chư hầu xung quanh.

Khi các ngôi bảo tháp và tự viện hoàn thành, nhà vua mở tiệc khách hạ, cúng dường rộng rãi chư Tăng. Nhân thấy oai nghi tề chỉnh và đạo hạnh thanh cao của Thánh chúng, nhà vua càng thêm tin tưởng Phật pháp nhiệm mầu. Do đó, vua cho một người con trai là Ma-Sẩn-Đà (Mahinda) và một người con gái tên là Tăng-Già-Mật-Đa (Sanghamitta) cùng xuất gia một lúc, Ma-Sẩn-Đà bấy giờ vừa đúng 20 tuổi, Hòa thượng Bổn sư của Thầy là Mục-Kiền-Liên-Tử-Đế-Tu (Moggaliputta-tissa) và Tăng-Già-Mật-Đa vừa 18 tuổi, Hòa thượng Bổn sư của cô là Đàm-Ma-Ba-La (Dhammapàli).

Nhà vua ngày càng nhiệt thành ủng hộ Phật pháp, cúng dường Tăng chúng một cách trọng hậu, thì ngoại đạo đi khất thực mỗi ngày mỗi trở nên khó khăn. Do đó, họ gia nhập vào hàng ngũ Tăng chúng càng lúc càng đông. Trong số đó, có người xuất thân từ đạo thờ lửa, có người theo đạo lõa thể, và có người theo đạo dầm nước lạnh. Do tiêm nhiễm lối sống của ngoại đạo, nên mặc dù đã vào trong Tăng chúng, các Tỳ kheo tân tòng này vẫn hành xử như ngoại đạo. Thậm chí, họ còn đem giáo luật ngoại đạo ra giảng dạy cho tín chúng, khiến cho Phật pháp trở nên hỗn loạn. Vì thế, các Tỳ kheo chân chính không thể hòa hợp Bố tát, tự tứ, và làm các Phật sự chung với họ. Tình trạng bất ổn cứ kéo dài mãi, khiến Tăng chúng sống trong sự rạn nứt, bất hòa, suốt 7 năm mà không bố tát được.

Vua A Dục chứng kiến tình trạng chia rẽ của Tăng đoàn như vậy, nên rất đau lòng. Nhằm chấn chỉnh lại hàng ngũ Tăng chúng, vua bèn sai một viên quan đại thần đem sắc lệnh của mình đến các tự viện, truyền cho Tăꮧ chúng phải cùng nhau hòa hợp bố tát. Nhưng họ không nói gì cả. Vị quan Khâm Sai không biết làm thế nào, đành phải trở về triều, bàn bạc với một viên quan đồng liêu. Viên quan này bèn hiến kế bằng cách g念7885;i ý: "Tôi thấy đại vương khi chinh phục các nước, hễ ai không tuân lệnh thì giết chết; trường hợp này cũng phải làm như thế".

Nghe bạn nói có lý, viên Khâm Sai liền trở lại tu viện, chất vấn vị Thượng tọa: "Đại vương đã có sắc lệnh khiến Tăng chúng phải hòa hợp thuyết giới, vì sao các vị không phục tùng?". Thượng tọa đáp: "Thưa Thượng quan, vì các Thiện Tỳ kheo không chịu bố tát chung với các Tỳ kheo ngoại đạo, chứ không phải không phục tùng".

Ngay lập tức, viên Khâm Sai liền tuốt gươm giết vị Thượng tọa ấy, và lần lượt giết đến chỗ Tỳ kheo Túc-Đai-Đa. Túc-Đai-Đa liền bảo vị ấy dừng tay lại không được cuồng sát bừa bãi những người vô tội. Viên Khâm Sai đành phải dừng tay, rồi trở về triều để yết kiến nhà vua.

Bây giờ nói về nguyên nhân khiến cho Túc-Đai-Đa đi tu: Sau khi vua A Dục lên ngôi bèn phong cho em là Túc-Đai-Đa làm Thái tử. Một hôm Túc-Đai-Đa vào rừng du ngoạn, bỗng thấy các con nai làm việc theo bản năng của chúng sinh để duy trì nòi giống. Ông nghĩ: "Các con nai này ăn cỏ xanh, uống nước lã, mà còn như thế, thì các Tỳ kheo trong phòng kín, có chăn êm, nệm ấm, ăn uống no đủ, thì lẽ nào lại không có việc ấy!". Thế rồi, ông trở về hoàng cung, đem ý nghĩ ngây thơ của mình trình bày với hoàng huynh Dục, vừa nghe thế, tự nhủ: "Thật quái lạ! Chuyện không đáng nghi ngờ mà bỗng dưng sinh nghi ngờ. Có khác nào nơi bình địa bỗng khởi phong ba!" Do đó, để dạy cho Túc-Đai-Đa một bài học, vua âm thầm sắp đặt mưu kế, khiến Túc-Đai-Đa phạm phải tội nặng đáng bị tử hình. Lúc ấy, vua phẫn nộ bảo với em mình: "Nay ta ban cho ngươi một ân huệ cuối cùng, cho phép ngươi làm vua trong vòng 7 ngày, sau đó ta sẽ trị tội".

Thế rồi, Túc-Đai-Đa được lên ngôi báu, ngự nơi lầu son điẹ䮠ngọc, có cung tần mỹ nữ, đờn ca xướng hát, và đủ các thức sơn hào hải vị không thiếu thứ gì. Nhưng ông chẳng màng để tâm đến những thứ ấy mà chỉ ngong ngóng sợ chết, đến nỗi thân thể trở nên cực kỳ tiều tụy.

Sau 7 hôm, A Dục hỏi Túc-Đai-Đa trong thời gian qua được hưởng cảnh vinh hoa phú quý tột bực như vậy có cảm thấy thích thú hay không, thì Túc-Đai-Đa thực thà bộc bạch hết những tâm sự khổ đau của mình. Vua liền bảo: "Chỉ vì biết trước sinh mệnh mình trong 7 hôm nữa sẽ kết thúc mà ngươi còn hốt hoảng, quên ăn bỏ ngủ, thân thể trở nên tàn tạ đến thế, huống hồ các Tỳ kheo trong từng hơi thở đều nghĩ đến lẽ vô thường, không biết cái chết đến lúc nào, thử hỏi còn tâm trí đâu nữa mà đắm trước những vật dục ở đời?"


Được lời như cởi tấm lòng, Túc-Đai-Đa liền sinh tín tâm đối với Phật pháp, và chẳng bao lâu ông phát tâm xuất gia, làm một Tỳ kheo.

Nhắc lại việc trước, khi viên Khâm Sai bị Túc-Đai-Đa ngăn lại. O⮧ liền trở về triều tâu lên nhà vua sự kiện diễn tiến vừa rồi. Vua nghe thế, vô cùng kinh ngạc, đau đớn tột cùng, ngất xỉu, té quỵ xuống đất. Hồi lâu vua mới tỉnh lại, thống trách viên quan ấy: "Trẫm sai khanh đến tự viện là để truyền lệnh cho các Tỳ kheo phải hòa hợp thuyết giới, chứ đâu phải bảo đến giết họ!".

Thế rồi, vua tức tốc ngự giá đến tu viện hỏi chư Tăng, trong trường hợﰠvừa rồi vua có tội hay viên Khâm Sai kia có tội. Trong các Tỳ kheo, có người thì nói do có lệnh của vua mà Tăng chúng bị chết oan, nên vua có tội. Có người thì bảo cả hai đều có tội. Nhưng có người bình tĩnh hơn, hỏi vua có ý định giết hại hay không, thì vua đáp là chỉ muốn xây dựng Tăng đoàn, tạo lập công đức, chứ không có tâm sát hại. Vị ấy kết luận: "Nếu tâm đại vương như thế, thì đại vương vô tội, mà kẻ giết người kia có tội".

Qua những trình bày khác nhau như thế, vua càng thêm phân vân, liền hỏi các Tỳ kheo, ai có thể làm cho vua hết nghi hoặc. Các Tỳ kheo bảo rằng chỉ có trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, người đã đạt được tam minh, chứng quả A La Hán, mới có thể chấm dứt được sự nghi ngờ của vua mà thôi. Sau khi nghe lời chỉ dẫn, vua liền cáo từ các Tỳ kheo, trở về cung đình, chuẩn bị lễ cúng dường. Chuẩn bị xong các việc, vua phái người đến tu viện cung thỉnh Mục Kiền Liên Tử Đế Tu và đại chúng vào triều thọ trai. Thọ trai xong, vua mời trưởng lão Đế Tu cùng Tăng chúng đến một đạo tràng đã được thiết lập tại Viên Lâm (Uyyàna). Khi đến nơi, để biết chắc trưởng lão có thể đoạn trừ được điều nghi ngờ của mình hay không, vua thỉnh cầu trưởng lão thi thố vài phép thần thông. Trưởng lão đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu ấy khiến vua rất khâm phục nghĩ rằng ác pháp sẽ được diệt trừ, Phật pháp sẽ lại trùng hưng. Thế rồi, vua đem sự việc trước kia ra chất vấn trưởng lão. Trưởng lão bèn hỏi lại nhà vua: "Khi ấy đại vương có tâm sát hại không?". Vua đáp; "Đệ tử chỉ mong có công đức, chứ không có tâm sát hại". Trưởng lão khẳng định: "Nếu không có tâm giết hại thì đại vương vô tội". Rồi trưởng lão đem kinh Bản Sinh ra giảng cho vua nghe. Sau khi nghe pháp, mọi thắc mắc trong lòng của vua đều được giải tỏa. Tiếp đến, trưởng lão trình bày thế nào là đúng luật, thế nào là trái luật, thế nào là đúng pháp, thế nào là phi pháp, những gì do Phật dạy và những gì không phải do Phật dạy... Vì được diễm phúc nghe pháp liên tục như thế suốt bảy ngày. Với tâm trạng hân hoan sau khi nghe pháp, vua nghĩ rằng lần kết tập pháp tạng này chắc chắn sẽ thành công, liền sai người ngăn đạo tràng ra thành hai khu vực a và b. Những ai cùng một kiến giải thì ở chung một khu vực. Đồng thời, mỗi khu vực cử ra một vị đại diện để trả lời những điều vua hỏi.

Thế rồi, vua hỏi vị đại diện của một khu vực: "Thưa Đại đức, Phật pháp như thế nào?". Họ bèn lao nhao lên. Có người bảo là thường; có người bảo là đoạn; có người nói là có tưởng; có người nói là không phải tưởng cũng không phải không tưởng; có người nói là thế gian Niết bàn.

Vua nghe họ đáp lung tung như thế, biết chắc nhóm Tỳ kheo này đích thực là ngoại đạo, chứ không phải Tỳ kheo chân chính. Do đó, vua ra lệnh họ cởi bỏ pháp phục, ban cho y phục màu trắng, và đuổi ra khỏi Tăng đoàn. Rồi vua sang khu vực của 6 vạn Tỳ kheo bên kia, lên tiếng hỏi vị đại diện: "Thưa Đại đức, Phật pháp như thế nào?" Vị ấy đáp: "Thưa đại vương, đức Phật phân biện giảng dạy theo từng trình độ". Quay sang trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, vua hỏi: "Có đúng thế không, thưa Đại đức?". Trưởng lão đáp: "Đúng thế, thưa đại vương". Biết Phật pháp đã được thanh tịnh, vua bèn thỉnh cầu chư Tăng thuyết giới bố tát trở lại, và sai người bảo vệ chúng Tăng, rồi từ biệt, hồi loan.


Sau khi vua rời khỏi đạo tràng, 6 vạn Tỳ kheo liền suy cử trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu làm chủ tọa, và tuyển chọn 999 Tỳ kheo tinh thông tam tạng, đã đắc tam minh, mở cuộc đại hội kết tập pháp tạng. Thể thức kết tập lần này giống hai lần trước, không khác gì cả. Do vậy, Phật pháp trở lại thanh tịnh, mọi hỗn loạn, cấu uế đều được dẹp trừ.

Đại hội kết tập lần này trải qua 9 tháng thì hoàn tất, do trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu làm chủ tọa, 999 vị Tỳ kheo A La Hán tham dự, nên gọi là cuộc kết tập của 1000 vị A La Hán.

Sau khi kết tập, trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu bèn soạn ra luận thư để phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo đương thời. Đến khi biết mình sắp viên tịch, trưởng lão bèn sai vị cao đồ là Đại đức Ma-Sẩn-Đà đem luật tạng truyền bá. Đến khi sắp viên tịch, đại đức lại đem truyền cho đệ tử là A-Túc-Tra (Arittha); A-Túc-Tra truyền cho đệ tử là Đế-Tu-Đạt-Đa (Tissadatta); Đế-Tu-Đạt-Đa truyền cho đệ tử là Già-La-Tu-Mạt-Na (Kàlasumana); Già-La-Tu-Mạt-Na truyền cho đệ tử Địa-Già-Nà (Dìghnàmaka); Địa-Già-Nà truyền cho Tu-Mạt-Na (Dìghasumana); Tu-Mạt-Na truyền cho Đàm-Vô-Đức (Dhammarakkhita); Đàm-Vô-Đức truyền cho Đế-Tu (Tissa); Đế-Tu truyền cho Đề-Bà (Deva); Đề-Bà truyền cho Tu-Mạt-Na (Sumana); Tu-Mạt-Na truyền cho Chuyên-Na-Già (Cùlanàga); Chuyên-Na-Già truyền cho Đàm-Vô-Ba-Li (Dhammapàlinàma); Đàm-Vô-Ba-Li truyền cho Xí-Ma (Khemanàma); Xí-Ma truyền cho Ưu-Bà-Đế-Tu (Upatissa); Ưu-Bà-Đế-Tu truyền cho Pháp Cự (?); Pháp Cự truyền cho A-Bà? (Abhaya); A-Bà-Gia truyền cho Tiểu-Đề-Bà (Cùladeva); Tiểu-Đề-Bà truyền cho Tư-Bà (Sìva).
Đó là các vị luật sư trí tuệ đệ nhất, thần thông vô ngại, ái tận La Hán, thầy trò truyền , nhau, đến nay không dứt.
(Thiện Kiết Luật Tỳ-bà-sa, quyển I, II, ĐTK 24, tr 678b - 684)
* Vài điều ghi nhận:
1. Lý do tập kết: 
Vì các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn làm cho Tăng chúng bất hòa và Phật pháp trở nên hỗn loạn, nên mới mở đại hội kết tập.
2. Thời gian kết tập: 
Lần kết tập này diễn ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức trước Tây lịch 325 năm. Và công việc được thực hiện trong thời gian 9 tháng.
3. Địa điểm kết tập:
Tại Viên Lâm (Uyyànà), thành Hoa Thị (Pàtaliputta), nước Ma-Kiệt-Đà (magadha).
4. Vị chủ tọa cuộc kết tập:
Trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaliputta-tissa).
5. Số người tham dự kết tập:
Gồm 1000 vị A la Hán (kể cả vị Chủ tọa) đã chứng Tam minh, tinh thông Tam tạng.
6. Người khởi xướng và bảo trợ cuộc kết tập:
Hoàng đế A Dục (sinh khoảng năm 350 trước Tây lịch0.
7. Giá trị của cuộc kết tập:

Hai lần kết tập thứ nhất và thứ nhì sử Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền đều có ghi chép, và đều công nhận. Nhưng lần kết tập thứ ba này chỉ thấy ghi lại trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (Bộ sớ giải Luật tạng của Nam truyền), và Đảo sử Tích Lan. Còn thư tịch của Bắc truyền cho đây là sự kết tập của Bộ pháp mà thôi, nên không công nhận như một cuộc kết tập chính thức.

  TT Thích Phước Sơn

 

LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ TƯ



TT Thích Phước Sơn

I. Thuyết thứ nhất:

Sau Phật Niết Bàn khoảng 400 năm tại nước Kiền-Đà-La (Gandhàra) có vua Ca-Nị-Sắc-Ca (Kaniska) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi, các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều chính, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp. Nhưng vua thấy quan điểm mỗi người một khác, không ai giống ai, nên rất băn khoăn, không biết làm sao để giải tỏa. Vì vậy, vua bèn thỉnh giáp Hiếp Tôn Giả (Parsva). Hiếp Tôn Giả liền thưa: "Tâu Đại Vương, vì trải qua năm tháng đã lâu, các đệ tử thường dựa theo quan điểm của thầy mình, có những nhận thức bất đồng, do đó mà sinh ra mẫu thuẫn với nhau". 

Vua nghe nói thế rất lấy làm buồn lòng, trầm ngâm hồi lâu, rồi bạch với Tôn Giả: "Trẫm nhờ hưởng được phúc đức của tổ tiên, nên được kế thừa tông miếu, cai trị muôn dân, nay tuy xa cách Thánh nhân (Phật), nhưng còn may mắn nếm được pháp vị. Trẫm muốn quên sự hèn kém của mình, dốc lòng thiệu long chánh pháp, mở đại hội kết tập pháp tạng, để thống nhất những quan điểm riêng của các bộ phái". 

Hiệp Tôn Giả tán thán: "Đại Vương đã gieo trồng căn lành từ đời trước, nên đời này đẩy đủ phước lộc, lại lưu tâm đến Phật pháp, thực là hợp với nguyện vọng của bần tăng". 


Thế rồi, vua truyền lệnh triệu tập các bậc thánh triết xa gần. Nhận được sắc chỉ, các bậc minh triết thông đạt tam tạng, những bậc hiền tài xuất chúng từ bốn phương vân tập về kinh thành. Vua bèn thiết lễ cúng dường suốt 7 ngày, và bàn kế hoạch mở đại hội kết tập. Nhưng thấy số người khá đông đúc, sợ khó tránh khỏi ô hợp, nên vua đem những điều thao thức của mình trình lên Tăng chúng, rồi truyền lệnh: "Những vị nào đã chứng đắc Thánh quả thì ở lại, những vị nào còn triền phược xin hãy trở về chỗ cũ". Tuy vậy, hội chúng vẫn còn quá đông, nên vua lại ra lệnh: "Các bậc vô học (chứng quả A La Hán) xin hãy ở lại, còn các bậc hữu học hãy ra về". Thế nhưng, số người vẫn còn nhiều, vì thế vua lại hạ lệnh: "Những vị đầy đủ Tam minh và Lục thông thì ở lại, còn những vị khác đều hãy trở về". Nhưng hội chúng vẫn còn đông, buộc lòng vua hạ lệnh một lần cuối cùng: "Những ai đối với nội giáo thì tinh thông tam tạng, đối với ngoại điển thì quán triệt ngũ minh, xin mời ở lại, còn những vị khác xin hoan hủ lui về trú xứ". 

Chung cục, sau bốn lần gạn lọc, số người còn lại tính được 499 người. Lúc ấy nhà vua thấy trong nước mình hay mưa nắng bất thường, sợ làm khổ nhọc các vị tôn túc, nên định đưa hội chúng đến thành Vùng Xá - nơi thạch thất mà Tôn Giả Ca Diếp xưa kia đã kết tập giáo pháp - mở đại hội kết tập. Nhưng Hiếp Tôn Giả cùng các vị tôn túc can rằng: "Thưa Đại Vương, không nên. Vì ở đó có nhiều ngoại đạo, nhiều luận sư khác phái rất phức tạp. Chúng ta sẽ phải bận rộn thù tiếp, giao tế với họ mất hết thì giờ, ắt hẳn sẽ gây trở ngại công việc kết tập và soạn ra luận giải. Hơn nữa, đại chúng giờ đây đều nhất trí muốn thực hiện việc kết tập tại nước này. Vì đất nước này ở bốn phía có núi non kiên cố, có thần Dược Xoa gìn giữ, đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, là nơi hiền thánh vân tập, các bậc thần tiên qua lại, và hiện giờ Tăng chúng đang quy tụ tại đây". Sau khi nghe trình bày, vua thấy hợp lý, nên chuẩn thuận đề nghị ấy. 

Thế rồi, vua truyền lệnh cho công nhân xây dựng lo thiết lập Già lam tại thành Ca-Thấp-Di-La (Kasmira) để kết tập pháp tạng. 

Lúc bấy giờ, các vị A La Hán thấy tôn giả Thế Hữu (Vasumitra) mặc y phục luộm thuộm, đang đứng trước hành lang, bèn nói với tôn giả: "O⮧ chưa đoạn trừ kiết sử, nếu luận nghị giáo pháp sẽ vấp phải sai lầm, vậy ông nên rời khỏi đây mà đi nơi khác". 

Thế Hữu nói: "Nay chư hiền đối với chánh pháp không có điều chi nghi ngờ, muốn thay Phật để tuyên dương, nên mới tập hợp đông đảo nơi đây mà luận bàn Phật pháp. Tôi tuy không được thông tuệ, nhưng cũng đã hiểu giáo pháp ít nhiều, văn chương u huyền của tam tạng và những lý luận khúc chiết của ngũ minh cũng đã từng nghiên cứu và đạt được những ý thú nhất định". 

Các vị A La Hán nói: "Lời nói suông không có gì làm bằng chứng, nếu vậy, thì thầy hãy ẩn cư nơi vắng vẻ một thời gian, lo tu tập gấp để chứng đạt quả vô học, rồi mới tham dự cũng chưa muộn". 

Thế Hữu nói: "Tôi xem quả vô học cũng như đàm dãi, chí tôi chỉ cầu Phật quả, chẳng thèm đi con đường nhỏ". Bèn vò cái y rách ném đi. Khi chiếc y rơi chưa tới đất, thì tôn giả (tuyến bố mình) chứng được thánh quả vô học. 

Lúc ấy, các vị A La Hán lại khiển trách: "Kẻ tăng thượng mạn chính là người này đây. Quả vô học được chư Phật hết lời tán thán, đâu có thể chứng đắc dễ dàng như thế?" 


Muốn cho mọi người hết mối ngờ vực, Thế Hữu bèn ném chiếc y lên hư không, chư thiên liền tiếp lấy và cung kính thỉnh cầu: "Tôn giả nên chứng Phật quả để sau này kế thừa đức Từ Thị (Di Lặc), làm bậc tôn quý nhất trong ba cõi, và làm chỗ nương tựa cho bốn loài, chứ giờ đây tôn giả chứng quả nhỏ làm chi?" 

Bấy giờ các vị A La Hán thấy sự ly kỳ như thế, bèn tạ lỗi, và mời tôn giả tham gia đại hội kết tập cho đủ số 500 người. Đồng thời, hội chúng suy cử Thế Hữu làm đệ nhất và Hiếp Tôn Giả làm đệ nhị chủ tọa cuộc kết tập để quyết đoán những ý kiến bất đồng của cử tọa. Những vấn đề của kinh điển, sau khi được hội nghị thảo luận và biểu quyết, bèn biên tập thành ba bộ luận, đó là: 

1. Bộ luận "Ưu Bà Đề Xá" gồm 10 vạn bài tụng, dùng để giải thích kinh tạng. 
2. Bộ luận "Ti Nại Da Tì Bà Sa", cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích luật tạng. 
3. Bộ luận "A Tì Đạt Ma Tì Bà Sa", cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích luận tạng. 
Như vậy cả ba bộ gồm 30 vạn bài tụng, chín trăm sáu mươi vạn lời (9.600.000), giải thí?#273;ầy đủ ba tạng giáo điển. Trong đó, không có chi tiết nào là không bàn bạc tận cùng, không có chỗ sâu xa nào là không cứu xét rốt ráo. Những nghĩa lý thâm u được làm cho sáng tỏ, những lời nói còn mù mờ được làm cho rõ ràng. Thành quả này nhằm truyền lại muôn đời hậu thế dùng làm cương lĩnh. 

Kế đến, vua Ca Nị Sắc Ca bèn sai thợ đúc dùng đồng đỏ dát thành lá mỏng, để cháp luận văn, rồi đem cất vào trong hang đá, xây thép lên trên để cúng dường. Vua lại sai thần Dược Xoa phòng vệ khắp nước, không để cho ngoại đạo mang bộ luận ấy ra khỏi lãnh thổ. Những ai muốn học tập nó thì phải đến đó mà học. 

Sau khi xong việc, vua bèn thiết lễ trai tăng cúng dường rất trọng hậu để chúc mừng đại hội kết tập vừa thành công viên mãn. (Đại Đường Tây Vức Ký quyển ba, Sa môn Biện Cơ soạn tại chùa Từ A⮬ ĐTK 51, ký hiệu 2087, tr 886b). 

Tóm tắt:
1. Lý do kết tập: Vì chư Tăng của các bộ pháp có những kiến giải bất đồng về kinh điển, nên mới mở đại hội kết tập. 
2. Thời gian kết tập: khoảng 400 năm sau Phật Niết bàn. 
3. Địa điểm kết tập: tại Thành Ca-Thấp-Di-La (Kasmira), tên cũ gọi là Kế Tân, nưóc Kiền-Đà-La (Gandhàra), thuộc miền Tây Bắc AᮠĐộ. 
4. Vị chủ tọa cuộc kết tập: Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra), với sự trợ thủ của Hiếp Tôn Giả. 
5. Số người tham dự kết tập: 500 vị hiền thánh (kể cả vị chủ tọa) đã đạt địa vị vô lục, tức quả A La Hán. 
6. Người khởi xướng và bảo trợ cuộc kết tập: Vua Ca-Nị-Sắc-Ca (Kaniska), vị hộ pháp với hoàng đế A Dục. 
7. Thành quả cuộc kết tập: Soạn ra ba bộ luận: Kinh sớ, Luật sớ và Luật sớ, gồm ba mươi vạn bài tụng, 9.600.000 lời. 
8. Phương thức bảo quản: Vua ra sắc lệnh sai thần Dượv Xoa bảo vệ không cho ngoại đạo hay người nào mang bộ luận này ra khỏi nước. 



tải về 174.48 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương