Lc 15,1 11-32 14-03-2010 lòng thưƠng xót của thiên chúa lm. Px vũ Phan Long, ofm 02



tải về 0.57 Mb.
trang3/9
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.57 Mb.
#19782
1   2   3   4   5   6   7   8   9

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Với bạn, từ ngữ hay hình ảnh nào diễn tả tuyệt nhất về Thiên Chúa?

  2. Bạn được gì khi tin rằng Thiên Chúa yêu thương bạn?

Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ

CHÚA NHẬT THỨ IV MÙA CHAY - C

Lm. Ignatiô Hồ Thông

Theo truyền thống phụng vụ, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui. Chúa Nhật này đặt một tạm nghỉ trong thời gian chay tịnh và tham dự trước niềm hân hoan Phục Sinh.
Gs 5: 9-12

Hãy vui lên vì  Thiên Chúa đã giữ lời hứa. Dân Do thái đã tiến vào Đất Hứa và cử hành lễ Vượt Qua ở đây. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với họ.

2Cr 5: 17-21

Hãy vui lên vì  nhờ Đức Ki-tô, con người đã đạt được ơn hòa giải với Thiên Chúa; nhờ  đó người Ki tô hữu trở  nên những con người được  đổi mới.

Lc 15: 1-3, 11-32

Hãy vui lên với Chúa Cha, Ngài đón tiếp đứa con hoang đàng trở về trong niềm vui vỡ tràn.
BÀI  ĐỌC I (Gs 5: 9-12)

Sách Giô-suê, được đặt nhan đề theo tên nhân vật chính của sách, kể việc dân Do thái vào đất hứa và chinh phục dần dần miền đất này của dân bản địa Ca-n-an.



1. Bối cảnh:

Sách Đệ Nhị Luật đã được hoàn tất trên chuyện tích về cái chết của ông Mô-sê, sách Giô-suê  tường thuật các biến cố tiếp theo sau. Ông Mô-sê đã trao phó sự nghiệp của mình cho ông Giô-suê tiếp nối. Thời kỳ hoang địa được tiếp nối với thời kỳ chinh phục. Thời nô lệ bên Ai-cập và thời túng thiếu trong hoang địa được tiếp nối với kỷ nguyên của cuộc đời tự do và an cư lạc nghiệp. Lịch sử đã sang trang.


Việc dân Do thái vào xứ sở Ca-na-an được định vị vào cuối thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên. Cuộc chinh phục thật sự chỉ được hoàn tất dưới triều đại vua Đa-vít, hai thế kỷ sau đó.
Chuyện tích này được viết theo thể loại sử thi, bao gồm những yếu tố kỳ diệu. Ngoài ra, lịch sử của dân Ít-ra-en là lịch sử của dân Thiên Chúa, một kỳ tích lịch sử thường được nối kết với một kỳ tích phụng vụ. Sự kiện này hiển hiện rất rõ nét trong chuyện tích chúng ta đọc hôm nay.
2. Lễ Vượt Qua ở Ghin-gan:

Dân Do thái đã vượt qua sông Gio-đan vào lúc nước sông dâng cao, vì thế họ đã không thể vượt qua sông nếu Thiên Chúa đã không can thiệp bằng cách ngăn dòng nước thành chỗ khô cạn cho dân băng qua (Gs 3: 14-17), như thế, tái diễn lại phép lạ Biển Đỏ (Xh 14: 21-22). Rõ ràng tác giả đã muốn đối chiếu cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc xuất hành ra khỏi hoang địa; cuộc vượt qua sông Gio-đan họa lại cuộc vượt qua Biển Đỏ; lễ Vượt Qua tiến vào Đất Hứa đối xứng với lễ Vượt Qua giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập.


Tuy nhiên, nhiều yếu tố cổ xưa chứng thực nền tảng lịch sử của câu chuyện. Về phương diện truyền thống, lễ Vượt Qua ở Ghin-gan được kể ra trong văn chương Do thái; tuy nhiên, việc cử hành lễ Vượt Qua được xác định vào ngày mười bốn trong tháng là phần thêm vào sau khi lịch phụng vụ được quy định. Ghin-gan được định vị không xa thành Giê-ri-cô. Địa danh Ghin-gan theo tiếng Hy-bá có nghĩa “vòng tròn”. Truyền thống nối kết địa danh này với cử chỉ của ông Gio-suê: để tưởng niệm mãi mãi cuộc tiến vào Đất Hứa, ông Gio-suê truyền lệnh dựng đứng mười hai tảng đá thành một vòng tròn, đại diện mười hai chi tộc của dân Ít-ra-en (Gs 4: 1-9). Vào thiên niên kỷ thứ hai, người ta vẫn còn ở trong nền văn minh đồ đá. Miền Pha-lệ-tinh còn lưu lại nhiều dấu vết của nơi cúng tế được xếp bởi những tảng đá dựng đứng.
3. Một giai đoạn mới:

“Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang”.


Đây là lần đầu tiên kể ra mối liên hệ giữa lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, hai ngày lễ tự nguồn gốc vốn biệt phân. Nhưng nhà biên soạn không nhằm nhấn mạnh mối liên hệ này; khi kể thêm “hạt lúa rang”, ông muốn đọc giả lưu ý đến lương thực được thay đổi tận căn, điều này đối với dân Do thái đánh dấu việc tiến vào Đất Hứa, vì miền Giê-ri-cô vốn nổi tiếng về thổ sản của mình, nhờ thời tiết thuận tiện.
“Không còn man-na nữa”. Man-na, thức ăn rất đạm bạc giúp dân Do thái sống còn trong hoang địa, từ nay không còn cần thiết nữa. Dân Do thái đã đặt chân lên xứ sở của các tổ phụ, mà lòng nhân ái của Đức Chúa đã cho họ gặp lại khi “cất khỏi họ cái ô nhục của người Ai-cập”.
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về đứa con hoang đàng. Chán ngấy cơm thừa canh cặn, cậu trở về nhà cha, ở đó cậu nhận được mọi ân huệ đổi mới cuộc đời của cậu; vì thế, cậu cũng được “cất khỏi cái ô nhục” của quá khứ.
BÀI  ĐỌC II (2Cr 5: 17-21)

Giáo  Đoàn Cô-rin-tô, mà thánh Phao-lô đã sáng lập vào những năm 50-52, bị chao đảo bởi nhiều cuộc khủng hoảng giữa những năm 54 và 57. Do những khủng hoảng này mà thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thơ gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô này. Thư thứ nhất và thư thứ ba đã bị thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi “thư thứ nhất”, thực ra, là thư thứ hai và bức thư mà chúng ta gọi “thư thứ hai”, thực ra, là thư thứ tư.


Thư  thứ hai này gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô được viết trong tâm trạng bình an; nhưng để hiệu chính mọi sự việc và trả lời dứt khoát cho những tấn công mà thánh nhân đã là đối tượng, thánh Phao-lô bị thúc bách biện giải sứ vụ của mình mà ngài nâng lên cho đến mức thánh nhân định nghĩa sứ vụ của mình là sứ vụ Tông Đồ hoàn toàn đích thật.
1. Tông Đồ và cộng tác viên của Chúa Ki-tô:

Tâm tình sâu kín nâng đỡ vị tông đồ: xác tín mình là  cộng tác viên của Chúa Ki-tô, có sứ mạng “hòa giải” giữa Thiên Chúa và loài người, sứ mạng mà Đức Ki-tô đã thiết lập theo ý định của Chúa Cha.


Vì  chính ở nơi Chúa Cha mà công trình cứu độ loài người phải được quy về, tức là một “cuộc tạo dựng mới”: “Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”. Người Ki tô hữu là một “thọ tạo mới”, vì họ đã được tha thứ mọi tội lỗi của mình.
Thánh Phao-lô bị xúc động bởi sự cao cả của sứ mạng hòa giải này, nhờ đó mà các cộng tác viên của ngài và chính ngài trở thành những “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô”. Thánh nhân lập lại cùng một diễn ngữ này trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô: “Anh em cũng hãy cầu nguyện cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích” (Ep 6: 19-20).

2. Hãy hòa giải với Thiên Chúa:

“Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người”. Qua câu này, thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng sáng kiến đến từ Thiên Chúa; nhưng con người phải đáp trả sáng kiến này, đó là mở lòng mình ra để đón tiếp lời đề nghị này. Cũng như người con hoang đàng quyết định trở về nhà cha, nhưng chính người cha đề xướng hòa giải với anh, tức là tha thứ cho anh.


Mầu nhiệm của Thiên Chúa là tình yêu của Ngài dành cho nhân loại được thể hiện ở nơi Đức Ki-tô, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta”. Điều mà thánh Phao-lô muốn nêu bật, chính là một sự trao đổi hai phía: Đức Ki-tô tự đồng hóa mình một cách nào đó với tội nhân; còn tội nhân, nếu hòa giải, có thể dự phần vào sự thánh thiện của Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 15: 1-3, 11-32)

Dụ  ngôn “đứa con hoang đàng” là một tập hợp bao gồm ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc bị đánh mất và đứa con hoang đàng, chúng hình thành nên câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, họ bất bình vì thấy Ngài đón tiếp niềm nở những người tội lỗi (Lc 15: 1-3).


1. Bối cảnh:

Trước đây, Đức Giê-su đã gặp phải phản ứng bất bình như thế và đã trả lời ngắn gọn và đanh thép: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5: 31-32).


Ở đây Đức Giê-su phát biểu ý kiến của mình theo cách khác, gợi hình và cụ thể: Ngài sánh ví thái độ của Ngài với thái độ của người chăn chiên, trèo non lặn suối, quyết tìm cho bằng được một con chiên lạc; hoặc với thái độ của người đàn bà, thắp đèn quét nhà, moi móc mọi xó xỉnh quyết tìm cho kỳ được một đồng bị đánh mất; hay còn với thái độ của một người cha mở tiệc ăn mừng vì “đứa con hoang đàng” trở về sau năm tháng phiêu bạt.
Hai dụ ngôn “con chiên lạc” và “đồng bạc bị đánh mất”, thánh Lu-ca có chung với thánh Mát-thêu, chỉ duy dụ ngôn “đứa con hoang đàng” là riêng một mình của thánh Lu-ca.
1. Người con thứ:

Bức tranh về cách hành xử của người con thứ cố ý tô cho thật đen. Cậu nài nỉ xin cha chia phần gia tài mà mình được hưởng, một thái độ như thế không bao giờ được xem là lễ độ cả. Rồi cậu bỏ nhà ra đi và hoang phí tất cả gia sản của mình vào một cuộc sống chơi bời trác táng; lúc đó cậu lâm vào cảnh túng thiếu đến mức đành phải chấp nhận làm tôi đến nỗi phải đi chăn heo, mà đối với người Do thái là những con vật ô uế. Như vậy cậu đã xuống cho đến tận cùng cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá, cho đến mức: “Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho”.


Trong cảnh bần cùng tận mức này, bị cái đói giày vò, cậu mới nghĩ đến việc trở về nhà cha mình; lý do thúc đẩy cậu cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng cả, chẳng qua chỉ vì tình thế bắt buộc thôi: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!”. Để đạt được mục đích của mình, cậu sẵn sàng hạ mình thú tội và cầu xin cha tha thứ. Những điều cậu suy tính trong lòng chẳng qua chỉ là vụ lợi thôi, nhưng đây là bước khởi đầu của một cuộc hoán cải, một cuộc đổi đời, một cuộc trở về cùng cha mình.
Trong Thông Điệp của mình, Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II phân tích một cách tinh tế tiến trình này: “Bên dưới bề mặt của những lời nói, còn ẩn khuất bi kịch phẩm giá đã mất, ý thức về tư cách làm con đã hỏng...Khi hắn quyết định trở về nhà cha, xin cha nhận hắn không phải vì hắn có quyền làm con mà như một người làm công, thì bề ngoài xem ra hắn chỉ do nạn đói và cảnh cùng cực thúc đẩy mà hành động, dầu vậy lý do này lại được thâm nhập bởi ý thức về một sự mất mát sâu xa hơn: là một người làm thuê trong nhà của chính cha mình chắc chắn là điều rất nhục nhã và rất đáng xấu hổ. Tuy nhiên, người con hoang đàng sẵn sàng đón chịu điều nhục nhã và xấu hổ ấy, hắn nhận thấy rằng hắn không còn một quyền nào ngoài cái quyền là người làm thuê trong nhà cha hắn. Nó lấy quyết định trong ý thức đầy đủ về những gì nó đã đáng chịu và về những gì nó còn có thể có quyền được theo các tiêu chuẩn của công bình. Cách suy luận kia chứng tỏ rằng, ở trong tâm thức người con hoang đàng, đã xuất hiện nhận thức về phẩm giá bị mất, về phẩm giá phát xuất từ tương quan giữa người con và cha mình. Và chính sau khi lấy quyết định kia mà hắn lên đường” (trích từ bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, 2008, tr. 28-29).
2. Tấm lòng của người cha:

Tấm lòng của người cha được phác họa bằng những ý tứ rất súc tích.

Thái  độ của người cha đối với cậu con thứ này khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ông tôn trọng sự tự  do của cậu và đáp ứng mọi yêu cầu của cậu, thậm chí khác với thái độ của người chăn chiên và  người phụ nữ nội trợ, ông không lặn lội đi tìm cậu. Chính thái độ vồn vả ân cần đón tiếp cậu khi trở về mới là điều dụ ngôn này quan tâm.
Từ  khi nhìn thấy bóng dáng thất thiểu của đứa con mình từ xa, ông “chạnh lòng thương” (động từ Hy ngữ này có một nghĩa rất mạnh: một mối cảm xúc sâu xa dâng lên tận đáy lòng), và “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để” (cách đón tiếp vồn vả khác thường này vượt quá khuôn phép uy nghiêm của một người cha mà tập tục Đông Phương quy định). Như vậy, vì tình cha, ông đã tha thứ cho cậu trước khi cậu ngỏ lời xin tha thứ.
Quả  thật, trong câu chuyện, ông cắt ngang không để cho cậu nói hết những lời xưng thú và xin cha tha thứ, để tránh cho cậu đi đến tận cùng của sự nhục nhã, nhưng cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông không ngỏ lời trực tiếp với cậu, nhưng truyền lệnh cho các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”: áo đẹp nhất để thay thế bộ quần áo rách tả tơi của kẻ bần cùng, chiếc nhẫn xỏ vào tay để chỉ địa vị cao quý trong xã hội, đôi dép xỏ vào chân để chỉ cậu không còn là người làm thuê hay kẻ nô lệ nữa, bởi vì từ nay đứa con trở về không chỉ được phục hồi nhân phẩm của mình, nhưng cũng được kính trọng như xưa kia; lại còn tổ chức một bữa tiệc để cả nhà cùng chia sẻ niềm vui đoàn tụ.

Lý  do mà người cha đưa ra để vui mừng, đó là: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đối với ông, việc con vắng mặt trong gia đình được xem như đã chết, nhưng nhất là sự tha thứ của ông làm cho người con trở thành một con người mới.


Tất cả mọi chú ý của câu chuyện đều hướng đến tình cha cao vời gây xúc động này, chứ không tấm lòng hoán cải của đứa con hoang đàng. Dụ ngôn muốn minh họa thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thiên Chúa yêu thương họ như người cha yêu thương đứa con của mình. Việc Chúa Giê-su mở rộng vòng tay đón tiếp những người tội lỗi là mặc khải tấm lòng yêu thương vô bờ của Chúa Cha. Dụ ngôn này chỉ cho thấy rằng Thiên Chúa đã đến gặp gỡ nhân loại để cứu thoát họ khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi. Ơn tha thứ của Thiên Chúa phục hồi con người trong phẩm giá của mình. Ở nơi hậu cảnh của dụ ngôn này, người ta đọc thấy bí tích Hòa Giải, bí tích Giao Hòa của Thiên Chúa với con người.
3. Người con cả:

Thái  độ của người con cả phản chiếu thái độ của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, họ đại diện cho những giá trị đạo đức của Cựu Ước, phân biệt rạch ròi sự công chính và tội lỗi. Lời trách cứ của người con cả ngỏ lời với cha cậu tương tự như sự bất bình của giai cấp lãnh đạo này về cách hành xử của Chúa Giê-su đối với những người tội lỗi. Người con cả phẩn uất trách cứ cha mình: “Ông coi, đã bao nhiêu năm trời tôi hầu hạ ông, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ ông cho tôi lấy được một con dê để tôi ăn mừng với bạn bè”. Rõ ràng, những lời trách cứ này minh họa sống động cung cách sống đạo đức của những người Pha-ri-sêu, họ tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác.


Phần thứ hai của dụ ngôn này là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu. Vả lại, người cha nói với người con cả với một cung giọng nhất mực trìu mến thương yêu. Một người cha yêu thương hai đứa con mình như nhau; ông muốn giúp cậu khám phá chiều kích tình yêu này. Tình phụ tử không làm tổn thương đến sự công bình nhưng vượt qua.
Qua lời trách cứ của cậu cho thấy rằng đã bao năm cậu sống trong nhà cha mình, nhưng cậu cư xử với cha mình như một người đầy tớ chỉ biết hầu hạ ông chủ mà không hề trái lệnh ông. Câu trả lời của người cha như một lời nhắc khéo cho người con hiểu: điều mà người cha cần là tình cha con chứ không phải là nghĩa chủ tớ: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha”; và để đáp lại lời trách cứ của cậu về một con dê con để ăn mừng với chúng bạn chỉ là niềm ước mơ, người cha trả lời: “Tất cả những gì của cha đều là của con”. Để đáp lại thái độ dứt tình đoạn nghĩa của người con cả đối với người em hoang đàng của mình: “Còn thằng con của ông đó, sau khi đã nuốt hết của cải của ông với bọn điếm, nay trở về, thì ông lại giết bê béo ăn mừng”, người cha trả lời: “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Như  vậy, dụ ngôn này trước đây thường được đặt nhan đề là “đứa con hoang đàng”, nhưng phải được gọi “tấm lòng nhân hậu của người cha” mới đúng, bởi vì nhân vật chính trong câu chuyện không phải là đứa con hoang đàng cũng không phải người con cả bất khoan dung mà là người cha. Phải nói rằng đứa con thứ hoang đàng trở về nhà cha cũng như người con cả bất khoan dung chẳng qua chỉ để mình họa tấm lòng nhân hậu của người cha mà thôi. Vì thế, câu chuyện này được đọc trong Mùa Chay Thánh này không chỉ mời gọi những tội nhân mà cả những người tự cho mình công chính hoán cải, vì điều Thiên Chúa cần ở nơi mỗi người chúng ta là tấm lòng của người con đối với Cha trên trời của mình và tình nghĩa anh em trong một tình yêu của Cha. 

Lm. Ignatiô Hồ Thông

PHỤC HỒI PHẨM CHẤT CAO ĐẸP

Lm. Ignatiô Trần Ngà

* Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.

Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.


Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.


Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.

Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giê-su cũng khẳng định điều nầy: "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mác cô 7, 21-23)

Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.


Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do-Thái.


Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.


Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.


Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.



* Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.

Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.


Một người bị mất chức, mất việc... khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.


Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.


Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.


Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.


Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng…


Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng, được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.


Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Ki-tô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô hôm nay: “Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi." (2C 5,17)


Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống mình hay không.



Lm. Ignatiô Trần Ngà

NGƯỜI CHA NHÂN TỪ

Lc 15, 1-3.11-32

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi xúc động và ngạc nhiên khi hiểu ra tấm lòng bao dung, nhân hậu của Chúa Giêsu. Có nhiều bài Tin Mừng làm nổi bật lòng nhân từ của Chúa. Chúa nhật thứ IV mùa chay, năm C, thánh Luca trình bầy bài Phúc Âm nói về “ Người Cha nhân hậu “. Đây là bài Tin Mừng ghi đậm nét đẹp, nét dễ thương và nét tinh tế, nhạy cảm của người cha. Chúa nhật hôm nay được mệnh danh là Chúa nhật hân hoan. Chúa nhân từ luôn giang đôi tay đón nhận chúng ta trở về như người cha đã đón nhận đứa con hoang phung phí trở về.


Lòng nhân hậu của người cha trong Chúa nhật này diễn tả tâm trạng của Chúa Giêsu khi thấy những người con của mình thực tâm thống hối quay về với Ngài. Tin Mừng Luca trong đoạn 15, 1-3.11-32 cho thấy người cha hiền hậu luôn yêu thương con của mình dù rằng con thứ đã được chia gia tài, rồi tự đi xa, phung phá tất cả tài sản, gia tài và sau khi đã kiệt quệ không còn lối thoát, y đã trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, không nổi giận, không lên án, không trừng phạt, hay trừ khử con.Trái lại, khi thấy bóng cậu từ xa, ông đã mau mắn, vội vã ôm chầm lấy con, hôn lấy hôn để, vui mừng đến khôn tả. Ông đã cho mặc áo mới, lấy nhẫn xỏ vào tay cậu, đã cho xỏ giầy vào chân cậu.


Tấm lòng yêu thương, nhân hậu của ông đã khiến ông quên đi tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng, ông đã không còn áy náy lo âu vì con ông đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm lại được. Ông đã ôm chầm lấy đứa con hoang và giờ đây trước mắt ông đứa con ông đang ôm là đứa con ông hằng mỏi mòn chờ trông. Người cha sung sướng mở tiệc linh đình để thết đãi ăn mừng cậu con trai trở về cùng với bà con lối xóm. Đây là cuộc đón tiếp, ăn mừng hết sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của người con hoang trở về. Người anh cả ngoài đồng về, nghe thấy tiếng đàn ca, hỏi ra anh mới biết em anh đã trở về sau một thời gian dài xa vắng ở nơi phương trời xa, nên cha anh đã mở tiệc linh đình đón tiếp em anh trở về. Anh đã không vui, không mừng mà còn giận dữ, trách móc người cha, khiến cha già lại phải kiên nhẫn, nhún nhường, nhẫn nhục ra tận cổng đón anh, phân trần, năn nỉ, mời anh vào nhà chung vui và gặp đứa em của anh “ đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy “. Để trấn an anh và để nói lên cả tấm lòng của ông, người cha già đã quả quyết với anh rằng: ” Tất cả những gì của cha đều là của con “ ( Lc 13, 31 ).


Câu chuyện này là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, nhân từ và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không phải từ trên cao nhìn xuống, một Thiên Chúa không phải hết sức nghiêm khắc, chỉ phạt chứ không tha thứ bao dung. Không Thiên Chúa “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương “ ( TV 135 ). Một Thiên Chúa luôn yêu thương, chạnh thương và hay tha thứ.


và sự công bằng yêu thương của người cha. Anh đã không vào nhà vì tự mãn, tự ái. Anh đã không vào nhà vì sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh đã không vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em. Anh đã không vào nhà vì anh không hiểu nổi lòng bao dung, quảng đại lớn lao của người cha.

Vâng, người anh cả đã sống với cha từ lâu nay nhưng lòng anh thì xa cha. Anh đã không trái lệnh của cha nhưng chỉ là bổn phận chứ không vì mến yêu cha. Anh không hề gọi người em là em của tôi mà là đứa con của cha kia. Anh không cảm thông với đứa em trót dại và cũng không biết chia sẻ nỗi đau, nỗi khổ của người cha mất con.

Người anh cả lộ rõ bộ mặt ích kỷ, đạo đức giả của mình. Anh là hiện thân của Pharisêu và kinh sư là những người tự cho mình là đạo đức, thánh thiện và muốn cho những người tội lỗi phải chết đi chứ không được cứu chữa.


Mùa chay là mùa hối cải, quay về với Chúa. Tất cả mọi người kể cả người anh và người em đều phải quay trở về với cha, ăn năn sám hối, bước vào nhà với cha, phải từ bỏ thái độ ích kỷ, tự mãn, phải vứt bỏ nếp suy nghĩ cũ, xa xưa để trở về sống như lòng nhân hậu, bao dung, tha thứ của cha.


Mùa chay mọi Kitô hữu phải trở về, phải thay đổi. Trở về là ôm lấy người em với lòng yêu thương và tha thứ. Trở về để sống trong ân huệ và tình thương vì cha là tất cả.




Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống như Chúa yêu, xin cho chúng con biết tha thứ cho người khác như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR


tải về 0.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương