Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU


Các mối đe dọa đến đa dạng sinh học ở Việt Nam



tải về 1.03 Mb.
trang4/13
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích1.03 Mb.
#1411
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

1.2.Các mối đe dọa đến đa dạng sinh học ở Việt Nam

1.2.1.Mối đe dọa gián tiếp


Sự gia tăng dân số và nghèo đói chính là các mối đe dọa gián tiếp đến sự suy giảm đa dạng sinh học.

Dân số của đất nước tăng lên rất nhanh chóng vào thế kỷ 20 từ 15,6 triệu người vào năm 1921 đến 54 triệu vào năm 1982, đến gần 80 triệu vào năm 2004; dân số có thể đạt đến con số 150 triệu vào năm 2050. Khi dân số của đất nước tăng nhu cầu đối với tài nguyên thiên nhiên cũng tăng theo. Sự tiêu thụ không bền vững nguồn tài nguyên nước và trên đất liền khắp đất nước được thúc đẩy do nhu cầu của các thị trường tại địa phương, trong khu vực và quốc tế, tạo ra mối đe dọa to lớn và trực tiếp đối với đa dạng sinh học của Việt Nam.[4]

Ngoài ra, sự nghèo đói và yếu kém trong công tác quản lý nhà nước (thiếu hệ thống pháp luật, thiếu sự điều hành và nguồn ngân sách) cũng là những mối đe dọa gián tiếp khác đến sự suy giảm đa dạng sinh học ở nước ta.Việt Nam là một nước phụ thuộc vào nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên. Trong các khu bảo tồn, 90% dân địa phương sống dựa vào nông nghiệp và khai thác rừng. Đời sống của họ rất thấp, khoảng trên 50% thuộc diện đói nghèo. Họ bắt buộc phải khai thác, bóc lột ruộng đất của mình, làm cho tài nguyên càng suy thoái một cách nhanh chóng hơn.[1]

Các chương trình và chính sách của Chính phủ thường mang tính thỏa hiệp và vào nhiều thời điểm đã làm tăng thêm sự tác động của các mối đe dọa đối với đa dạng sinh học. Trong nửa sau của thế kỷ 20, những chương trình tái định cư do nhà nước đỡ đầu đã di chuyển một số lượng lớn người dân trên khắp đất nước, thường là từ những vùng đồng bằng chủ yếu làm nông nghiệp và có mật độ dân số cao tới các khu vực miền núi được cho là chưa có đủ người sản xuất. Việc chuyển đổi từ rừng sang canh tác nông nghiệp ở mức độ không bền vững và với qui mô lớn diễn ra sau đó đi kèm theo việc mất đi đa dạng sinh học. Tương tự, Chính phủ Việt Nam trong nhiều thập kỷ đã khuyến khích nông dân trồng các loại cây nông nghiệp có giá trị để phục vụ xuất khẩu. Những chính sách này chú trọng đến sản lượng mà không cần quan tâm đến tính bền vững và thúc đẩy việc chuyển đổi các khu rừng tự nhiên sang các loại cây trồng phục vụ thị trường, thí dụ như cà phê ở vùng cao nguyên hoặc nuôi tôm ở châu thổ sông Hồng và sông Mê Kông. Các tác động tiêu cực lên môi trường ngày càng gia tăng do chính sách đổi mới của Chính phủ được phát động vào giữa những năm 1980.[3]


1.2.2.Mối đe dọa trực tiếp


Có nhiều mối đe dọa trực tiếp đến sự suy giảm đa dạng sinh học bao gồm: mất và suy thoái sinh cảnh sống, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, sự xâm nhập của các loài ngoại lai…nhưng sự khai thác quá mức và buôn bán động thực vật hoang dã chính là mối đe dọa nghiêm trọng nhất.

*Mất và suy thoái sinh cảnh sống


Mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học là do sự tàn phá các hệ sinh thái, làm mất nơi cư trú của các sinh vật. Mất nơi cư trú là nguyên nhân đầu tiên làm cho các động vật có xương sống bị đe dọa và thực vật bị suy thoái dẫn đến tuyệt chủng. Nguyên nhân chủ yếu là do chặt phá rừng bừa bãi, đốt rừng làm nương rẫy, chuyển đổi mục đích sử dụng, cháy rừng, phá hủy các hệ sinh thái…

- Sinh cảnh rừng:

Mặc dù độ che phủ rừng tăng lên nhưng chất lượng rừng, đặc biệt là rừng có tính đa dạng sinh học cao thì đang bị giảm sút nghiêm trọng.Rất khó để ước tính được diện tích rừng đã bị tàn phá nhưng nhìn chung hầu hết rừng ở Việt Nam không còn là rừng nguyên sinh. Có hai nguyên nhân chính khiến cho rừng bị hủy hoại là việc khai thác lấy gỗ và chuyển đổi sang đất nông nghiệp. Sự mất rừng đã kéo theo sự sụt giảm một lượng lớn các loài động vật và thực vật. Việc khai thác gỗ (cả hợp pháp và trái phép) đã ảnh hưởng lớn đến các khu rừng ở Việt Nam. Khi kết thúc cuộc chiến tranh Mỹ thì chính sách về rừng của Chính phủ tập trung chủ yếu vào sản xuất. Phần lớn gỗ được khai thác bởi các lâm trường cho nhà nước quản lý và trong năm 1992 những lâm trường này đã khai thác 1,2 triệu m3 gỗ. Ngoài ra việc chuyển đổi từ rừng và các môi trường tự nhiên khác sang sản xuất nông nghiệp và trồng trọt cũng là nguyên nhân tàn phá rừng ở Việt Nam. Các chương trình tái định cư lớn thời kỳ sau khi đất nước độc lập đã di chuyển 5 triệu người tới những khu vực di dân được gọi là vùng kinh tế mới. Sau khi những người tái định cư di chuyển vào những khu vực này, nhiều diện tích rừng rộng lớn được khai thác lấy gỗ và sau đó phát quang để trồng cây lương thực và cây thương mại như cà phê và hạt điều phục vụ cho xuất khẩu và làm bãi chăn thả. Việc tái định cư đã dẫn đến việc khai thác gỗ và phá rừng, xói mòn, làm giảm chất lượng đất và mất đi đa dạng sinh học.



- Sinh cảnh đồng cỏ:

Việc mất đi sinh sinh cảnh đồng cỏ tự nhiên có lẽ đáng lo ngại hơn so với mất sinh cảnh rừng vì chỉ còn lại rất ít đồng cỏ. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ rệt ở đồng bằng sông Cửu Long nơi mà con người đã biến đổi hầu hết toàn bộ vùng đồng bằng ngập nước theo mùa có cỏ và cói che phủ thành đất nông nghiệp. Những hoạt động nông nghiệp có thể làm cảnh quan biến đổi mạnh mẽ, điều này gây ra bởi việc giảm độ màu mỡ của đất hoặc làm thay đổi các dòng chảy mà rất khó hoặc không thể khôi phục hoặc phục hồi lại được. Hai vùng đồng cỏ tương đối rộng cuối cùng còn sót lại ở Việt Nam là vùng đồng bằng Hà Tiên ở tỉnh Kiên Giang và Vườn Quốc gia Tràm Chim ở tỉnh Đồng Tháp. Những vùng đồng cỏ ngập nước theo mùa và không thể thay thế được này là nơi cư trú của các loài chim không có ở những nơi khác của đất nước, trong đó có Sếu đầu đỏ (Grusantigone sharpii) và Ô tác (Houbaropsis bengalensis).



- Hệ sinh thái biển và ven biển

Chúng bị đe dọa trực tiếp do khai thác cũng như gián tiếp bởi những hoạt động công nghiệp hóa, nông nghiệp và các hoạt động khác diễn ra trên đất liền.

Việc sử dụng đất không có quy hoạch đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho các khu vực ven biển và ngoài khơi của Việt Nam. Các hoạt động nông nghiệp và phát triển đã tạo ra lắng đọng ở vùng ven biển thông quá quá trình xói mòn đất, nước thải và phân bón bị rửa trôi làm hàm lượng dinh dưỡng tăng lên rất cao và tảo mọc quá nhiều khiến nồng độ ôxi giảm và gây ô nhiễm biển. Những thay đổi này đe dọa sự tồn tại của các quần xã ở đây và mức độ đa dạng của chúng. Việt Nam đã mất 40 đến 50% các bãi cỏ biển vào những năm 1980 và 1990 do quá trình lắng đọng ở các vùng ven biển lân cận. Những bãi bồi chưa bị xáo trộn đã bị đe dọa bởi việc trồng rừng ngập mặn độc canh nhằm cải tạo đất vào bảo vệ bờ biển tránh xói mòn. Rừng độc canh không phải là sinh cảnh thích hợp cho nhiều loài chim, trong đó có loài Cò thìa (Platalea minor, thuộc nhóm nguy cấp) bị đe dọa toàn cầu.

Các rạn san hô phân bố ở phía trên những đáy biển nông ở cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam đang trong tình trạng rất xấu: hoạt động của con người đe dọa hầu hết toàn bộ các rạn san hô này (85 đến 95%) và chỉ có 1/4 trong số này có san hô đang sống và phát triển chiếm 50% hoặc nhiều hơn. Cùng với những hoạt động trên đất liền, các rạn san hô này bị đe dọa trực tiếp bởi hoạt động lấy đá vôi từ san hô và việc sử dụng xyanua để bắt cá ở rạn san hô và phương pháp này vô tình giết cả san hô.


*Ô nhiễm môi trường


Hiện nay, chất lượng môi trường nói chung đã xuống cấp. Nhiều thành phần môi trường bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm do các chất thải khác nhau không được xử lý đổ ra môi trường bên ngoài là nguyên nhân đe dọa tới đa dạng sinh học: gây chết, làm giảm số lượng cá thể, gián tiếp làm hủy hoại nơi cư trú và môi trường sống của các loài sinh vật hoang dã.

Việt Nam có khoảng 7.000 nhà máy và xí nghiệp lớn và rất nhiều trong số này vẫn sử dụng những công nghệ cũ và thải trực tiếp rác thải chưa được xử lý vào môi trường. Các nhà máy lọc dầu cùng với các nhà máy sản xuất kim loại, dệt, làm giấy, chế biến thực phẩm và hóa chất cần quan tâm đặc biệt vì rác thải của chúng chứa các kim loại có tính độc như asen, đồng, thủy ngân và chì. Việt Nam có tới 560 mỏ, phần lớn là mỏ than tập trung ở tỉnh Quảng Ninh và Bắc Thái, nhưng cũng có mỏ khai thác kim loại (trong đó có vàng) và đá quý. Các công ty khai thác mỏ đã bỏ lại những vùng đồi trọc và các diện tích rừng bị giảm sút và những hoạt động của các công ty này đã dẫn đến việc tăng sự xói mòn đất, tăng lượng lắng đọng và làm ô nhiễm các vùng nước lân cận bởi các kim loại nặng thải ra.[4]

Trong nông nghiệp nông dân thường xuyên sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón trên đất nông nghiệp chiếm hơn 20% diện tích của cả nước. Nhiều loại thuốc trừ sâu có tính độc cao có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về sinh thái. Bên cạnh đó, trong một hệ thống do thị trường quyết định, có xuất hiện xu hướng sử dụng ngày càng tăng các loại thuốc trừ sâu rẻ hơn nhưng nguy hiểm hơn; một số thuốc đã bị cấm sử dụng ở Mỹ, trong đó có DDT, asen, những vẫn được sử dụng thường xuyên ở Việt Nam.

*Sự xâm nhập của sinh vật ngoại lai


Sự xâm lấn các loài ngoại lai là sự du nhập loài này hay loài khác vào vùng này hay vùng khác theo những con đường và mục đích khác nhau như buôn bán, giải trí, phát triển kinh tế…Phần lớn các loài du nhập không có khả năng sống sót vì không thích hợp với điều kiện sống mới. Tuy nhiên, một số loài có đặc điểm thích nghi sinh thái tương tự với điều kiện địa phương, thiết lập được sự sống trên vùng đất mới thì chúng phát triển một cách vượt trội và mau lẹ.

Các loài ngoại nhập đã vào Việt Nam theo nhiều con đường khác nhau. Một số loài, như cỏ dại, đã được mang vào một cách ngẫu nhiên theo các con tàu hoặc trong hàng hóa. Cỏ hôi (Chromolaena odorata), một loài cỏ sống lâu có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, được đưa vào châu Á vào những năm 1800, có lẽ là ở trong các thùng chứa nước để giữ cho thuyền thăng bằng trên các tàu trở hàng từ vùng Carribê. Hiện tại chưa có thông tin gì về thời điểm Cỏ hôi được đưa vào Việt Nam, nhưng có lẽ là ngẫu nhiên và loài cỏ này hiện phân bố trên khắp đất nước. Nó chủ yếu sống ở những vùng bị xáo trộn, nơi nó sống rất dai, phân tán nhanh và chiếm ưu thế so với các loài thực vật khác nhờ các chất hóa học nó giải phóng để ngăn cản sự nảy mầm và phát triển của các thực vật lân cận. Các loài xâm hại khác, trong đó có một số loài cá và ốc, được đưa vào có chủ ý vì những tiềm năng về kinh tế của chúng. [2]


* Biến đổi khí hậu toàn cầu


Việt Nam là nước đặc biệt nhạy cảm với các tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và là 1 trong 10 nước chịu ảnh hưởng nghiêm trọng và đầu tiên của biến đổi khí hậu. Các hệ sinh thái bị chia cắt (điều đã trở nên phổ biến ở Việt Nam) chắc chắn sẽ phản ứng kém cỏi hơn trước những sự thay đổi này và có thể sẽ không tránh khỏi sự mất mát các loài sinh vật với tốc độ rất cao. Các vùng đồng bằng châu thổ Nam Bộ và Bắc Bộ được dự báo là những vùng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của biến đổi khi hậu. Mực nước biển tăng sẽ có những hậu quả to lớn đối với đa dạng sinh học vùng đất ngập nước ven biển. Các khu vực rộng lớn của Việt Nam nằm trong phạm vi 1 m trên mực nước biển trung bình. Mực nước biển tăng sẽ làm ngập các vùng đất ngập nước và vùng đồng bằng, làm xói mòn bờ biển, làm trầm trọng thêm lũ lụt ở vùng ven biển, tăng lượng muối ở các cửa sông và trong nước ngầm và mặt khác làm giảm chất lượng nước, thay đổi phạm vi của thủy triều ở các con sông, vịnh và thay đổi các địa điểm nơi các con sông có phù sa lắng đọng.[4]

Nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần thể sinh vật của nhiều hệ sinh thái. Các nhà khoa học đã chứng minh được sự di cư của một số loài do sự ấm lên của trái đất, nhiều loài cây trên dãy Hoàng Liên Sơn đang phải chuyển dịch lên cao hơn để tồn tại. Nhiệt độ tăng còn làm gia tăng khả năng cháy rừng, nhất là các khu rừng trên đất than bùn vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa gia tăng lượng phát thải khí nhà kính làm gia tăng biến đổi khí hậu.[4]


*Khai thác quá mức và buôn bán bất hợp pháp động vật hoang dã


Khai thác quá mức có nghĩa là khai thác đến khi số lượng của loài thấp hơn mức tối thiểu mà loài có thể phục hồi. Vì thế dẫn đến sự tuyệt chủng của loài, gây suy giảm đa dạng sinh học.

Các loài bị khai thác quá mức thường là những loài có giá trị kinh tế cao hoặc có giá trị sử dụng đặc biệt như giá trị về thẩm mỹ, giá trị về dinh dưỡng …Việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam liên quan đến nhiều hoạt động trong đó có săn bắt, đánh cá, khai thác gỗ và săn bắt động vật và thu hái thực vật không bền vững. Khai thác quá mức đã trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng đối với đa dạng sinh học của Việt Nam và ngày càng mở rộng ra nhiều loài động thực vật khác trong khi đã có hàng trăm loài bị ảnh hưởng.



- Khai thác và buôn bán thực vật

Khu hệ thực vật bị khai thác ở khắp nơi. Quả cây, hoa, vỏ cây, rễ, nhựa, gỗ và toàn bộ cây được thu thập vì nhiều mục đích, từ làm thức ăn và thuốc cho đến làm thủ công mỹ nghệ, dệt và sản xuất đồ đạc và phục vụ việc buôn bán cây cảnh. Những loài thực vật bị khai thác nhiều nhất ở Việt Nam thường là các loài có giá trị kinh tế cao như: song mây, sâm, trầm hương, các loại gỗ quý.

Được đánh giá cao và được ưa thích do sự kết hợp của độ bền và tính dẻo dai, song mây tiếp tục được khai thác từ tự nhiên trên khắp vùng phân bố của chúng. Việt Nam là nơi phân bố của (ít nhất) 21 loài và trong số đó 5 loài được xếp vào nhóm bị đe dọa toàn cầu. Rất ít hoặc không có thông tin gì cụ thể về tình trạng của các quần thể trong tự nhiên ngoài việc chúng gần bị khai thác kiệt quệ.

Cũng như song mây, Sâm Việt Nam (Panax vietnamensis) là một loài hiếm của chi bao gồm cả Sâm Mỹ (P. quinquefolius) và Sâm châu Á (P. ginseng). Các loài sâm này được sử dụng để chữa bệnh và làm thuốc bổ ở cả phương Đông và phương Tây. Do nhu cầu mang tính truyền thống cùng với việc xuất hiện ngày càng nhiều các hoạt động buôn bán cây thuốc trong nước và việc thiếu các nguồn cây trồng mới thay thế, Sâm Việt Nam bị đe dọa nghiêm trọng do việc khái thác trái phép quá mức. Sâm Việt Nam hiện là một trong số 250 loài hiếm, bị đe dọa và nguy cấp đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam.[3]

Một trong những sản phẩm phi gỗ có giá trị cao nhất lấy từ rừng được khai thác ở Đông Nam Á là trầm hương. Trầm hương là lõi gỗ có nhiều nhựa phát triển bên trong một số loài cây thuộc chi Aquilaria. Tuy nhiên, không phải tất cả các loài thuộc chi Aqualaria đều chứa trầm hương. Đây là lý do tại sao rất nhiều gỗ bị khai thác mà không mang lại lợi ích gì. Ở Việt Nam, loài cây tạo ra trầm hương là A. crassna, đây là loài có phân bố ở đồng bằng sông Cửu Long và ở đai độ cao duới 800 m và về phía Bắc dọc theo các khu vực ven biển đến điểm tận cùng về phía Đông Bắc của Việt Nam. Trầm hương loại 1 được bán ở Việt Nam với giá 3.500 đô la/kg và trầm hương làm thuốc (kỳ nam) có nguồn gốc từ các rễ cây có nhựa có thể được bán với giá 15.000 đô la/kg. Khó có thể biết được chính xác lượng trầm hương được xuất khẩu từ Việt Nam hàng năm; lượng xuất khẩu hàng năm được biết đã giảm xuống 10 tấn từ 50 tấn vào giữa những năm 1980, mặc dù con số thực tế có lẽ còn cao hơn nhiều.[3]

Ngoài ra thì việc khai thác và buôn bán các loại gỗ trái phép cũng là một vấn đề nóng ở Việt Nam. Hai loài cây lá kim ở miền Bắc Việt Nam đang phải chịu sức ép ở mức độ địa phương: Bách tán Đài Loan (Taiwania cryptomerioides) và loài Bách tán vàng Việt Nam đặc hữu (Xanthocyparis vietnamensis) được mô tả vào năm 2002. Cả hai cùng có các quần thể rất nhỏ và bị đe dọa do sự xuống cấp của sinh cảnh và việc khai thác trực tiếp loại gỗ nhiều nhựa và có mùi thơm để phục vụ xây dựng, làm áo quan và đồ thủ công mỹ nghệ. IUCN xếp các loài cây này vào nhóm cực kỳ nguy cấp.[3]





Hình 11: Khai thác gỗ trái phép ở Tây Nguyên (Nguồn:http://dangcongsan.vn)

.- Đánh bắt thủy sản quá mức

Các hình thức đánh bắt thủy sản mang tính hủy diệt như dùng chất nổ, chất độc, sốc điện, lưới mắt nhỏ dưới mức cho phép làm suy giảm đa dạng sinh học nghiêm trọng các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển, đe dọa sự tồn tại của hơn 80% các rạn san hô ở Việt Nam, và hủy diệt các nguồn cá giống, tôm giống trong các vùng đất ngập nước ven bờ nội địa. Thậm chí ở các khu bảo tồn biển như Khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) là khu vực có hệ sinh thái đa dạng phong phú, được bảo vệ và cấm đánh bắt hải sản dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, vì lợi ích cá nhân, nhiều ngư dân đã khai thác trái phép hải sản ở đây, họ sử dụng cả mìn để khai thác, theo ông Eniko d’ La Mancha, chủ trung tâm lặn và văn phòng du lịch Amigos tại Nha Trang, thì họ dùng những loại mìn mà các thuyền đánh cá phi pháp thường dùng, loại mìn nổ chìm dưới nước. Hay ở Vườn Quốc gia Đất mũi Cà Mau, theo ông Trần Văn Mến, Phó Ban Quản lý và bảo tồn nguồn lợi thủy sản biển: nếu trước đây những người khai thác nghêu, dùng tay cào hay te đẩy thì bây giờ họ dùng máy hút thổi nghêu vào lưới.[3]

Theo khảo sát của các nhà khoa học trên diện tích khoảng 1.100km2rạn san hô ở nước ta có 350 loài san hô và 800 loại cá sinh sống, chiếm 18-60% tổng số loài cá ở vùng biển các nước láng giềng. Một báo cáo điều tra san hô Việt Nam cho biết, 96% san hô bị đe dọa trong đó 75% bị đe dọa nghiêm trọng và rất nghiêm trọng.[3]



- Săn bắn và buôn bán trái phép động vật hoang dã

“Không nơi nào mà quần thể hoang dã lại bị suy giảm với tốc độ đáng báo động như ở Việt Nam , tất cả đều do buôn bán và tiêu thụ trái phép” Ông Eric Coull, Trưởng đại diện của WWF Greater Mekong phát biểu. Và để Việt Nam đừng trở thành “khoảng trắng” về các sinh vật quý hiếm, cần có sự góp tay của mỗi người, mà trước hết là ngừng ăn thịt các loại động vật hoang dã trái phép. Hoạt động săn bắt và tiêu thụ trái phép đang là hiểm họa lớn nhất làm suy giảm nhanh chóng các quần thể động vật ngoài tự nhiên, đặc biệt là các loài thú lớn như voi, hổ, gấu.

Theo thống kê của các cơ quan chức năng, từ năm 1996 đến 2007, cả nước đã phát hiện, xử lý 14.757 vụ việc liên quan, tịch thu 181.670 cá thể với khối lượng 635 tấn. Năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009, lực lượng kiểm lâm đã phát hiện, xử lý 1.946 vụ vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ động vật hoang dã. Những địa phương, khu vực “nóng” nhất là TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, Lâm Đồng, Thanh Hóa, Nghệ An, Điện Biên, Bình Phước, Hà Nội... Những kẻ chuyên hoạt động săn bắt, buôn bán động vật, thực vật hoang dã quý hiếm tổ chức hoạt động rất chặt chẽ, tinh vi với đường dây quy mô ngày một lớn. Gần đây nhất, qua vụ bắt giữ 25 tấn tê tê đông lạnh và vẩy tê tê vào tháng 10-2008 và vụ bắt 6,2 tấn ngà voi tại Cảng Hải Phòng cho thấy Việt Nam đang trở thành nơi trung chuyển động vật hoang dã. Nơi tiêu thụ những loại động vật, thực vật hoang dã quý hiếm không ở đâu xa mà chính trong cộng đồng dân cư chúng ta, tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã với nhan nhản các cửa hàng ăn “chim trời, thú rừng”, nhiều cửa hàng bày bán hàng trăm bình rượu ngâm thú rừng các loại... Có “cầu” làm việc “cung” ngày càng phát triển; làm việc ngăn chặn việc săn bắt, vận chuyển động thực vật hoang dã quý hiếm như “muối bỏ biển”, rừng ngày càng bị tàn phá, môi trường tự nhiên ngày càng xấu đi từ chính bàn tay và “dạ dày” con người.[11]

Phần lớn các thành phố và thị trấn lớn ở Việt Nam có chợ buôn bán động vật hoang dã nơi có rất nhiều loài động vật sống là đại diện của tất cả các nhóm động vật có xương sống chủ yếu, từ tắc kè, rùa và ếch đến tê tê, hươu và linh trưởng. Các quán ăn đặc sản thường xuyên phục vụ thịt động vật hoang dã, đôi khi quảng cáo các món ăn với những bảng giá được đặt cạnh áp phích được in nhằm phục vụ mục đích giáo dục bảo tồn. Những người đến ăn có thể thường xuyên xem các loài động vật bị nhốt trong chuồng (trong đó có các loài bị đe dọa toàn cầu) như cầy và rắn. Cùng với các loài động vật hoang dã và thịt để tiêu thụ, những người bán hàng còn tiếp thị rất nhiều loại chim sống ở các chợ lớn nhất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Điều này một phần cũng là do ý thức của người dân Việt Nam như lời Anh Hoàng Mạnh Cường, một chủ trang trại nuôi thú quý hiếm tại thành phố Buôn Ma Thuột cho biết: “Người nước ngoài rất có ý thức cái điều là có sử dụng động vật hoang dã làm thực phẩm. Nhưng thói quen của Việt Nam mình thì càng hoang dã thì họ càng thích dùng làm thực phẩm.” [5]





Hình 12: Buôn bán động vật hoang dã công khai ở các chợ (Nguồn: Tinmoitruong.net)

Những bộ phận và sản phẩm của động vật hoang dã cũng xuất hiện nhiều tại các chợ. Được tiêu thụ chủ yếu để làm dược phẩm và thuốc bổ, các mặt hàng phụ này bao gồm: xương hổ và cao làm từ xương hổ; mật gấu và cả túi mật; nhiều loại gạc hươu, đặc biệt là loại chưa trưởng thành được bọc trong lớp nhung; vảy tê tê; các tuyến xạ từ hươu và cầy; thịt khô và xương của linh trưởng được sử dụng làm cao thuốc và các loại thành phần chế biến khác; sừng tê giác; và rượu thuốc được làm bằng cách ngâm con vật vào trong bình rượu gạo (thường là rắn độc bắt trong tự nhiên nhưng đôi khi là linh trưởng). Các loài động vật hiếm hơn như Saola (Pseudoryx nghetinhensis) và Hổ (Panthera tigris) gần như không bao giờ được buôn bán lúc còn sống nhưng thay vì đó xuất hiện trên thị trường dưới dạng da, xương và sừng hoặc đã được chế biến thành cao. Động vật hoang dã cũng được chế biến để phục vụ khách du lịch, cả trong nước và quốc tế. Các sản phẩm được bán rộng rãi bao gồm các loại hộp và đũa được làm từ các loại cây gỗ cứng hiếm ở vùng nhiệt đới, cá ngựa (họ Syngnathidae) và sao biển (họ Stelleroidae), các sản phẩm làm từ mai của Đồi mồi (Eretmochelys imbricata) như quạt, lược và hộp đựng thuốc lá, rượu rắn và các chiến lợi phẩm từ động vật săn được.[3]





Hình 13: Hoẵng (giống Muntiacus), Cầy (họ Viverridae) và các loài thú bắt từ tự nhiên khác được nhồi và bán tại các quầy bên đường tại vùng Bắc Trung Bộ (ảnh do Cal Snyder chụp)

Động vật hoang dã của Việt Nam còn được cung cấp cho các thị trường rộng lớn bên ngoài lãnh thổ. Các đối tác buôn bán quan trọng gồm có Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước khác nơi nhiều người vẫn duy trì thói quen truyền thống là sử dụng các loài động thực vật hoang dã. Cuộc khảo sát vào năm 1993-1996 tập trung vào việc vận chuyển động vật hoang dã từ Việt Nam đến tỉnh Quảng Tây lân cận của Trung Quốc vẫn là một trong số ít những nghiên cứu toàn diện nhằm liệt kê loại động vật buôn bán, khối lượng và các động lực tiêu thụ. Vì các phương tiện giao thông của Quảng Tây tốt hơn, 95% hoạt động buôn bán động vật hoang dã qua biên giới Việt-Trung diễn ra qua cửa khẩu này; khối lượng buôn bán qua biên giới giữa Việt Nam và tỉnh Vân Nam thấp hơn nhiều và chủ yếu cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ tại địa phương. Khối lượng nhập khẩu động vật hoang dã hàng ngày từ Việt Nam qua 3 cửa khẩu của Trung Quốc (2 nằm trong đất liền, 1 nằm trên biển) từ 2,3 đến 29,3 tấn, trong số đó rùa (61%), rắn (13%) và thằn lằn (11%) chiếm đa số. Một cuộc khảo sát sau đó (từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2002) về tình hình buôn bán trái phép động vật hoang dã và các loại thịt của chúng đã ước tính khối lượng buôn bán hàng năm là 3.050 tấn, xấp xỉ một nửa khối lượng này được tiêu thụ trong nước. [3]



Việc buôn bán động vật hoang dã là mối đe dọa chính với các loài động vật có xương sống ở Việt Nam, đặc biệt là các loài thú, một số loài chim và rùa. Mối đe dọa chủ yếu đối với các loài vượn đen của Việt Nam (giống Hylobates [Nomascus]) và voọc (giống Trachypithecus và Pygathrix) là săn bắt phục vụ các hoạt động buôn bán thương mại. Các nhà nghiên cứu đã định lượng được những mất mát tối thiểu trong cả nước giữa năm 1990 và 2000 do săn bắt gây ra cho 2 loài đặc hữu ở Việt Nam, Voọc đầu trắng (T. poliocephalus poliocephalus) và Voọc mông trắng (T. delacouri). Số lượng cá thể của cả hai loài bị giảm xuống một nửa trong vòng một thập kỷ, với số lượng tương ứng tối thiểu là 100 và 316 cá thể, bị mất đi vì săn bắt. Săn bắt đã làm mất đi thêm 30 cá thể Voọc đầu trắng giữa năm 2000 và 2002 và quần thể của loài này vào năm 2004 nằm trong khoảng 50 đến 60 cá thể. Ước tính có khoảng 270-302 cá thể Voọc đầu trắng vẫn còn tồn tại.[3]

1.3.
Các biện pháp để kiểm soát và ngăn chặn việc buôn bán trái phép động vật hoang dã tại Việt Nam

Không riêng gì ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới việc buôn bán trái phép động vật hoang dã đang trở thành một mối nguy hiểm lớn nhất cho sự tuyệt chủng của các loài. Điều đáng nói ở đây là mối nguy hiểm này đến từ chính con người chúng ta và do vậy chỉ có con người mới có thể kiểm soát được. Quan trọng là chúng ta phải tìm ra các cách để ngăn chặn hiệu quả nhất. Phạm vi của các vụ phạm tội liên quan đến buôn bán động vật hoang dã thì bao gồm nhiều hình thức từ buôn bán trực tiếp các mẫu vật, săn bắn theo thời vụ, đối xử tàn ác với động vật, phá hủy môi trường sống, săn bắt lấy thịt, săn trộm để sử dụng các bộ phận cho trưng bày, cho y học…Phạm vi của buôn bán động vật hoang dã bao gồm sự đa dạng của tội phạm và vì lý do này nhiều bài báo quốc tế thường trích dẫn số liệu như: “Buôn bán trái phép động vật hoang dã là một ngành công nghiệp có doanh thu 20 tỷ USD/năm, đứng thứ 2 sau thuốc phiện. Những con số tiền tệ này sẽ nằm trong khoảng 6-20 tỷ USD/năm và được trích dẫn từ Interpol”. Tuy nhiên Iterpol cũng xác nhận rằng tuyên bố này không đến từ họ. Trong khi điều này dường như là một tuyên bố bịa đặt thì thật khó để ước tính chính xác số lượng các vụ phạm tội liên quan đến động vật hoang dã vì không có một đội ngũ giám sát quốc tế dành riêng cho loại tội phạm này. Một yếu tố liên quan đến các vụ phạm tội này nữa là một nguồn lợi tài chính cao sẽ làm giảm khả năng bị bắt của bọn tội phạm, thậm chí nếu bị bắt thì hình phạt cũng rất nhẹ.[13]

Theo một cuộc điều tra gần đây của Quỹ động vật hoang dã thế giới thì chỉ có 3200 con hổ (Panthera tigris) còn lại trong thế giới hoang dã. Đây là một sự giảm hơn 90% trong thế kỷ qua. Tương tự như thế dân số của loài tê giác đen (Diceros bicornis) cũng đã giảm 96% giữa các năm 1970- 1992. Năm 1970 người ta ước tính rằng có xấp xỉ 65000 con tê giác đen ở Châu Phi nhưng tới năm 1993 thì chỉ còn 2300 con sống sót trong tự nhiên. Các ví dụ trên đã minh họa cho tác động của thương mại tới số lượng quần thể tê giác đen và hổ.[13]

Các vật liệu sinh học được đem bán thì không phải toàn bộ cơ thể mà là các bộ phận như: da, xương, sừng dạng bột. Các ví dụ khác về các loài động vật có vú mà các bộ phận của nó bị buôn bán trái phép như: ngà voi, mật gấu, sản phẩm từ hươu. Tuy nhiên việc buôn bán bò sát và lưỡng cư còn diễn ra nhiều hơn, một phần là bởi vì những loài này thì nhỏ hơn và do vậy dễ dàng che giấu để tránh bị phát hiện.[13]

Đầu những năm 1990, buôn bán bất hợp pháp động vật hoang dã tại Việt nam ước tính đạt giá trị 24 triệu USD mỗi năm. Đến năm 2000, ước tính đạt 66,5 triệu USD.[12]

Năm 2008, ước tính tổng lượng buôn bán động vật hoang dã trong và ngoài Việt Nam đạt 3.500 – 4.000 tấn 1 năm (Nguyen Van Song, 2008). Việt Nam đang trở thành một trung tâm buôn bán trái phép động vật hoang dã. Từ năm 2005, lãnh đạo cảng Hải phòng đã bắt 13,5 tấn ngà voi và hơn 30 tấn thịt động vật hoang dã. Năm 2010, cán bộ hải quan cảng Hải phòng đã phát hiện ra 4 trường hợp ngà voi tạm nhập trái phép vào Việt Nam để tái xuất.[12]

Như vậy việc ngăn chặn việc buôn bán trái phép động vật hoang dã chính là việc làm hết sức cần thiết để ngăn chặn sự tuyệt chủng và suy giảm của các loài động vật quí hiếm hiện nay.


1.3.1.Những biện pháp đã thực hiện


* Tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học và buôn bán trái phép động vật hoang dã

Vào năm 1994, Chính phủ đã phê chuẩn 2 công ước quốc tế: Công ước về Đa dạng sinh học tập trung vào việc sử dụng bền vững và có lẽ là hiệp ước toàn cầu quan trọng nhất hiện nay về việc bảo tồn đa dạng sinh học và Công ước Quốc tế về Buôn bán Động vật và Thực vật hoang dã (CITES), là hiệp ước quy định việc buôn bán các loài bị nguy cấp. Việt Nam nằm trong số ít các nước ở Đông Nam Á đã phê chuẩn tất cả 4 công ước quốc tế quan trọng về bảo tồn đa dạng sinh học. Công ước Quốc tế về Buôn bán Động vật và Thực vật hoang dã (CITES) là những chính sách trên nguyên tắc để kiểm soát hoạt động buôn bán quốc tế về động vật và thực vật. Do Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc quản lý, CITES được đưa ra vào năm 1975 và hiện đang là một trong những công ước về bảo tồn được biết đến nhiều nhất, với 167 nước thành viên vào năm 2005. Cho đến năm 2004, 63 loài động vật (trong đó có 6 loài linh trưởng, 17 loài chim và 6 loài rùa) và 15 loài thực vật (tất cả đều thuộc chi Lan hài, Paphiopedilum) của Việt Nam đã được đưa vào trong phụ lục này.



*Tăng cường hệ thống pháp luật và tích cực các cuộc kiểm tra, vây bắt tội phạm về động vật hoang dã, đặc biệt là buôn bán qua biên giới

Với mục đích tạo ra một cơ sở pháp lý cho việc nghiêm cấm buôn bán trái phép động vật hoang dã và xử lý các hành vi phạm tội thì Chính phủ Việt Nam đã giới thiệu luật bảo vệ động vật hoang dã để chống lại nạn buôn bán trái phép (Luật: 29/2004/QH11,20/2008/QH12; Sắc lệnh 32/2006/ND-CP, 82/2006/ND-CP).

Theo thống kê của các cơ quan chức năng, từ năm 1996 đến 2007, cả nước đã phát hiện, xử lý 14.757 vụ việc liên quan, tịch thu 181.670 cá thể với khối lượng 635 tấn. Năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009, lực lượng kiểm lâm đã phát hiện, xử lý 1.946 vụ vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ động vật hoang dã. Gần đây nhất, qua vụ bắt giữ 25 tấn tê tê đông lạnh và vẩy tê tê vào tháng 10-2008 và vụ bắt 6,2 tấn ngà voi tại Cảng Hải Phòng cho thấy Việt Nam đang trở thành nơi trung chuyển động vật hoang dã. Theo Tổng cục Hải quan Cảng Hải Phòng, từ năm 2005 đến nay cơ quan này đã phát hiện 14 vụ nhập khẩu trái phép động vật hoang dã tại cảng Hải Phòng, thu giữ 13,5 tấn ngà voi, hơn 30 tấn thịt, vảy, mai rùa... Mới đây nhất vào tháng 4/2011, Công an Móng Cái đã phát hiện trong kho có 122 chiếc ngà, nghi là ngà voi. Công an môi trường Lạng Sơn năm 2007 đến nay, đã phối hợp bắt 33 vụ vi phạm pháp luật về buôn bán vận chuyển động vật hoang giã, thu giữ 130 cá thể khỉ đuôi dài, 296 chim iểng, 122,5kg rắn các loại, 180 chiếc sừng hươu, 49 bộ da trăn...[11]

Theo Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã, các đối tượng buôn bán trái phép loài hoang dã đang có dấu hiệu liên kết thành mạng lưới tội phạm xuyên quốc gia. Có khoảng 13 - 42% các loài động, thực vật hoang dã ở Đông Nam Á có nguy cơ biến mất hoàn toàn trong thế kỷ này. Chính phủ Việt Nam đã có chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương phải có sự phối hợp kiểm tra chặt chẽ, ngăn chặn hành vi vận chuyển, buôn bán, giết mổ động vật hoang dã, đặc biệt là xuất nhập khẩu trái phép qua biên giới.[11]



*Thành lập các khu bảo tồn động vật hoang dã

Nhiều tổ chức tại Việt Nam đang tìm cách bảo tồn các loài và nhóm loài bị khai thác nhiều và có nguy cơ bị tuyệt chủng cao bằng cách nghiên cứu tập tính sinh học của chúng và xây dựng các chương trình kết hợp để bảo tồn chúng. Hai chương trình bảo tồn ban đầu ở mức độ loài là nuôi giữ cho đẻ, đặc biệt là các loài động vật thu giữ được từ các hoạt động buôn bán động vật hoang dã và thả lại chúng vào các khu vực nơi số lượng quần thể thấp hoặc đã bị tuyệt chủng.[3]

Trung tâm Nghiên cứu Linh trưởng nằm trên khu vực có diện tích 5 ha tại Vườn Quốc gia Cúc Phương được lập ra để cứu hộ, phục hồi, cho sinh sản, nghiên cứu và bảo tồn các loài linh trưởng bị thu giữ. Các cán bộ kiểm lâm đã bắt giữ những động vật này từ thợ săn và từ các chợ buôn bán động vật hoang dã hoặc từ những người nuôi động vật làm cảnh trái phép. Một nỗ lực lớn khác của trung tâm là giáo dục người dân về tầm quan trọng của các loài linh trưởng bị nguy cấp, về sinh thái, tập tính và môi trường sống trong tự nhiên cũng như tính cấp bách của việc bảo tồn. Các nhân viên của Trung tâm phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm để thi hành luật bảo vệ động vật hoang dã. Vào năm 2004, Trung tâm cứu hộ có hơn 110 cá thể voọc, vượn và cu li thuộc 14 loài và phân loài. Sáu loài trong số này không được nuôi ở bất kỳ nơi nào trên thế giới và gần như cả 6 loài này rất khó bắt gặp trong tự nhiên.[3]

*Tuyên truyền giáo dục và huy động sự hỗ trợ của người dân

Hoạt động trên cơ sở tình nguyện, các thành viên của Mạng lưới Bảo vệ động vật hoang dã đã nỗ lực và tích cực tham gia tất cả các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này. Một trong những trọng tâm của việc thực hiện bảo vệ động vật hoang dã là điều tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh, nhằm đảm bảo làm cho họ tuân thủ đúng các quy định pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã. Đồng thời nếu phát hiện các vi phạm nghiêm trọng, các thành viên sẽ thông báo ngay cho các cơ quan chức năng địa phương hoặc đường dây nóng miễn phí 1800-1522 để có biện pháp xử lý. Từ khi thành lập đến nay, Mạng lưới Bảo vệ động vật hoang dã đã phối kết hợp với Phòng bảo vệ động vật hoang dã của Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên phát hiện, xử lý và thông báo tới cơ quan chức năng trên 3.000 vụ việc vi phạm về bảo vệ động vật hoang dã, hợp tác với các cơ quan chức năng giải cứu được hàng ngàn cá thể động vật, trong đó có nhiều loài đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như: gấu, vượn hay voọc mũi hếch, vọc quần đùi....Hiện tại, Mạng lưới đã có hơn 2.800 tình nguyện viên, đa số là các bạn trẻ trên 32 tỉnh thành và 8 Câu lạc bộ thành viên đang hoạt động tại các thành phố lớn, các điểm nóng về buôn bán động vật hoang dã trên cả nước.[10]



*Phối hợp và học hỏi kinh nghiệm của các tổ chức bảo vệ động vật hoang dã trên thế giới

Bất chấp những biện pháp này, việc buôn bán động vật và thực vật hoang dã vẫn đang tiếp tục. Điều này là do thiếu những cán bộ thi hành luật được đào tạo, thiếu những nỗ lực về chính trị cũng như xã hội và thiếu nguồn lực, không có đủ luật pháp ở cấp nhà nước, và còn do lợi ích về kinh tế do nó đem lại quá lớn. Để đối phó với thực tế này, TRAFFIC- một chương trình giám sát buôn bán động vật và thực vật hoang dã thuộc Quỹ Động vật hoang dã Thế giới và IUCN, và Cục Kiểm lâm của Việt Nam thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã xây dựng một khung hành động chung vào đầu năm 2001 nhằm kiểm soát hoạt động về buôn bán động vật và thực vật hoang dã ở Việt Nam. Hơn 16 hoạt động đã xác định được đưa ra và được nhóm lại vào 4 mục tiêu chính: (1) củng cố khả năng của Chính phủ trong việc thực hiện và thi hành CITES và các luật có liên quan ở cấp nhà nước; (2) giảm nhu cầu sử dụng đối với các loài thuộc nhóm nguy cấp và bị đe dọa, chủ yếu thông qua giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân; (3) nâng cao kiến thức về giám sát hoạt động buôn bán động vật và thực vật hoang dã, và (4) mở rộng việc khuyến khích về phát triển kinh tế hoặc những giải pháp thay thế đối với việc buôn bán động vật và thực vật trái phép và không bền vững. Những biện pháp có sự phối hợp giữa trong nước và quốc tế là cần thiết để đạt được mục tiêu cuối cùng: bảo vệ đa dạng sinh học của Việt Nam không bị khai thác quá mức do buôn bán động và thực vật hoang dã gây ra. [3]

Việc tăng cường nỗ lực thực thi pháp luật trong thời gian thực hiện dự án đã đem lại kết quả đáng khích lệ: 88 vụ vi phạm pháp luật về buôn bán, tiêu thụ bị bắt giữ, 731 cá thể động vật rừng còn sống được giải cứu và thả lại về rừng, hơn 900kg thịt động vật hoang dã bị tịch thu và tiêu huỷ, xử phạt 178 triệu đồng (gần 9.000 USD), 1 giấy phép kinh doanh và nhiều tang vật khác bị thu giữ.[9]

1.3.2.Một số khó khăn trong việc thực hiện


Mặc dù đã thực hiện nhiều biện pháp như trên nhưng vấn đề này hiện vẫn đang là đề tài nóng bỏng, đòi hỏi chúng ta có những hoạt động tích cực hơn để ngăn chặn hiệu quả tình trạng săn bắt, buôn bán động vật, thực vật hoang dã quý hiếm, bảo vệ môi trường. Những nỗ lực nhằm làm giảm hoạt động buôn bán này đang gặp trở ngại vì không có đủ nguồn lực tài chính, không đủ kiến thức để nhận biết các hoạt động trái phép và những loài thuộc nhóm nguy cấp và cả nhận thức hạn chế đối về tính chất nghiêm trọng của vấn đề này như thế nào. Theo báo cáo của WWF về số lượng cá thể tê giác, hổ và voi tại 23 quốc gia thuộc khu vực châu Á và châu Phi, Việt Nam là nước đứng đầu danh sách tội phạm buôn bán động vật hoang dã. Bà Elisabeth McLellan, Quản lý Chương trình Loài Toàn cầu của WWF phát biểu: “Đây là thời điểm mà Việt Nam cần phải nhận ra rằng chính việc tiêu thụ bất hợp pháp sừng tê giác đã gây ra nạn săn bắn trộm tại châu Phi và rằng chính phủ cần phải phá bỏ các đường dây buôn bán sừng tê giác bất hợp pháp. Việt Nam nên xem xét lại khung hình phạt đối với loại tội phạm này và ngay lập tức ngăn chặn thị trường tiêu thụ, bao gồm cả việc dỡ bỏ quảng cáo bán sừng tê giác trên Internet.” Có một số khó khăn chính khiến cho công tác ngăn chặn chưa đạt hiệu quả cao là:

*Ý thức người dân còn thấp

Nói về nhận thức của người dân ở đây chúng ta cần đề cập đến cả hai đối tượng là bọn buôn bán và những người tiêu thụ. Rõ ràng nếu không có một nguồn tiêu thụ khổng lồ là các nhà hàng và thực khách thì việc buôn bán động vật hoang dã sẽ không ác liệt như thế. Theo chị Nguyễn Vân Anh (điều phối viên động vật hoang dã, Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên Việt Nam) thì có đến 50% sản lượng động vật hoang dã được tiêu thụ trong nước, còn lại chủ yếu xuất sang Trung Quốc và các nước Châu Âu khác. Đối tượng tiêu thụ đương nhiên là những người rất giàu và họ có thể là những cán bộ cấp cao nhưng có thể khẳng định một điều là họ có nhận thức kém và thiếu ý thức về việc bảo vệ động vật hoang dã. Các sản phẩm từ động vật hoang dã được tiêu thụ mạnh nhất là: sừng tê giác, mật gấu, cao hổ, thịt rùa, ba ba …Không những thế nhiều người còn sử dụng để làm đồ trang trí, thể hiện đẳng cấp của mình. Theo báo cáo mới nhất của WWF về 23 quốc gia của châu Phi và châu Á vào nhóm các quốc gia đang phải đối mặt với mức báo động cao nhất của nạn săn bắn, vận chuyển và tiêu thụ bất hợp pháp ngà voi, sừng tê giác và các bộ phận của hổ thì Việt Nam được đánh giá là thị trường tiêu thụ sừng tê giác mạnh nhất. Năm 2011, có đến 448 cá thể Tê giác đã bị giết hại để lấy sừng tại Việt Nam, và đã mất thêm 262 cá thể khác cho đến thời điểm này năm nay.[6]

Điều này có lẽ là do người dân Việt Nam tin rằng các sản phẩm này có tác dụng tăng cường sức khỏe và chữa trị một số bệnh nan y mặc dù chưa có nghiên cứu khoa học nào khẳng định điều này.

*Công tác quản lý còn nhiều thiếu sót

Có thể nói là mặc dù đã thực hiện nhiều biện pháp nhưng dường như vấn đề này vẫn chưa được các cơ quan chức năng quan tâm thích đáng tương ứng với tính cấp thiết của nó.

Thứ nhất là việc tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức người dân chưa được thực hiện thường xuyên và đúng mức.Bởi vậy người dân cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ. Ngoài ra chúng ta cũng mới chú trọng tới nguồn cung mà chưa chú trọng tới nguồn cầu. Đó chính là các nhà hàng và các thực khách. Trong khi việc tiêu dùng các sản phẩm từ thú hoang dã là vi phạm pháp luật, thì các nhà hàng bán thịt thú rừng vẫn mọc lên ở khắp nơi. Loại hình du lịch trang trại gấu ở Quảng ninh vẫn tiếp tục ngang nhiên hoạt động trong một thời gian dài, đón tiếp hàng trăm khách du lịch người Hàn Quốc đến xem chọc hút mật gấu và bán mật gấu cho họ để mang ra ngoài Việt Nam. Cho đến giờ các trang trại này vẫn không bị đóng cửa, các con gấu không bị tịch thu và các chủ trang trại không bị truy tố.[5]

Thứ hai là việc xử lý các đối tượng vi phạm chưa nghiêm minh và triệt để, đôi khi đã vô tình tiếp tay cho bọn tội phạm. Hồi giữa năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành một công văn nhằm hướng dẫn chính quyền cấp tỉnh xử lý các vụ liên quan đến gấu, hổ và các loại động vật hoang dã nguy cấp khác đang bị nuôi nhốt trái phép trên cả nước. Theo một số chuyên gia, thì công văn này có thể được hiểu là cơ quan chức năng đã bật đèn xanh cho việc hợp pháp hóa hành vi sở hữu, nuôi nhốt các loài động vật hoang dã tại Việt Nam, kể cả những loài được bảo vệ trong nhóm 1B, tức là cực kỳ nguy cấp, theo nghị định 32 của Bộ. Căn cứ vào công văn này, người săn bắt hổ trái phép có thể hiểu là nếu anh ta thành công trong việc săn bắt và vật chuyển những con thú đó về nhà thì hình phạt nặng nhất anh ta có thể phải chịu là mức phạt tiền 30 triệu đồng khung hình phạt hành chính cao nhất do pháp luật quy định. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam cũng cho thực hiện một số trường hợp bán đấu giá các loài động vật hoang dã nguy cấp tịch thu được. Việc này đã vô tình tiếp tay cho hoạt động buôn bán trái phép các loài thú quý hiếm.[5]

Như vậy có thể thấy rằng chính ý thức kém của người dân và sự thiếu quan tâm của các cơ quan chức năng là trở ngại lớn nhất khiến cho công tác ngăn chặn buôn bán động vật hoang dã tại Việt Nam còn chưa đạt hiệu quả cao. Các loài động vật quí hiếm vẫn đang đứng trước nguy cơ bị săn bắt và tiêu thụ bất cứ lúc nào. Để khắc phục tình trạng này Đảng và nhà nước ta cần quan tâm và đầu tư hơn nữa cho công tác bảo vệ các loài động vật hoang dã. Đi đôi với việc tuyên truyền giáo dục để nâng cao ý thức người dân thì nhà nước cũng cần đầu tư nhiều hơn cho việc nghiên cứu các phương pháp để nhận dạng các loài bị cấm buôn bán cũng như kiểm soát chặt chẽ hơn các nguồn tiêu thụ để xử lý một cách triệt để. Liên quan tới vấn đề này thì có một khó khăn là làm sao để nhận biết được các loài khi nó đã không còn hình dạng ban đầu. Nếu không nhận dạng được thì chắc chắn chúng ta đã bỏ sót một lượng lớn tội phạm.


Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá thực trạng và ĐỀ xuất giải pháP

tải về 1.03 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương