LỄ chư thánh b mt. 5, 1 – 12a 1-11-2009



tải về 338.3 Kb.
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích338.3 Kb.
#23539
1   2   3   4   5   6

***

Quý vị và các bạn thân mến,

Trong lễ kết thúc Hội Nghị Liên Tôn tại Rôma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến những cơn bệnh xã hội hiện nay. Ngài nói rằng: cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ 20 đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý. Trước đám đông tập họp tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha kết luận rằng; nhìn vào hiện trạng của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về văn minh, và Ngài nói như sau: chúng ta thấy những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng không luôn luôn đi đôi với sự tiến bộ về tinh thần luân lý. Chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như các quốc gia.

Cơn khủng hoảng về văn minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị mà con người thời đại đang chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không phải là những giá trị tinh thần và luân lý mà là: của cải vật chất, quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không còn được đánh giá dựa trên những giá trị tinh thần và luân lý, mà chỉ dựa trên tiền của, quyền bính và danh vọng mà thôi!


Hôm nay lễ Các Thánh, Giáo hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại tinh thần căn bản và xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống của mình. Tiến bước trong cuộc sống, nhưng chúng ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên Các Thánh trên thiên đàng. Thánh nhân không phải là những con người phi thường mà trái lại, là những con người bình thường nhưng đã sống đời thường cách phi thường. Chính vì thế mà các Ngài đã có thể là mẫu mực để chúng ta noi theo.
Chúng ta ngước nhìn lên Các Thánh trên trời đã đành, mà chúng ta cũng được mời gọi để nhìn vào cuộc sống tại thế này: ở đây, hằng ngày xung quanh chúng ta biết bao nhiêu vị thánh sống, họ không cần phải là những người có hào quang chiếu sáng bằng những kỳ công hay những việc phi thường, họ là tất cả những ai trong cố gắng mỗi ngày phấn đấu không ngừng để luôn đạt những giá trị về tinh thần và luân lý vào chỗ cao nhất trong bậc thang giá trị.
Chúng ta đồng hành với những vị thánh âm thầm vô danh ấy, và chúng ta cũng được mời gọi để không ngừng thể hiện sự thánh thiện đời thường ấy, bởi vì công đồng Vatican II khẳng định, Nên thánh là ơn gọi chung của tất cả mọi tín hữu.

Nguyện xin Các Thánh cầu thay nguyện giúp để chúng ta luôn ý thức được ơn gọi nên thánh ấy.



***

Lạy Chúa, chúng con phải lao đao vất vả vì cuộc sống hằng ngày, xin cho chúng con luôn biết hướng về trời cao để biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngõ hầu sau cuộc đời tạm bợ này, chúng con được hưởng nhan thánh Chúa cùng với Các Thánh của Chúa trên thiên quốc. Amen!
Radio Veritas 

THÀNH QUẢ CỦA ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất, mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.

Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể, đã sinh ra, đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.


Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm:



  • Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác, toàn diện con người “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Ngài đã làm những điều cao cả”.

  • Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.

Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi chi tộc trong Israel. Trong thị kiến về "những kẻ đã được niêm ấn" (tức là những kẻ thuộc về Thiên Chúa và ở trong sự bảo vệ của Người) được tuyển chọn tới trước ngai Con Chiên, Thánh Gioan thấy số người đó thật đông đảo: "144 ngàn thuộc mọi chi tộc Israel". 144 ngàn không phải là nhiều. Giáo phận Phan thiết có 147 ngàn giáo dân. Nhưng 144 ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tràn đầy ( 12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad…không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ.


Không chỉ Israel được tuyển chọn mà “Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn người khác đông đảo không thể đếm được thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng." Tất cả những người đó đều "mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế" chiến thắng (Kh 7,2-9). Đoàn người đông đảo không thể đếm được đó là chính các Thánh Nam Nữ mà Giáo hội mừng kính hôm nay. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản “Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời”.

Trong ngày lễ Các Thánh, Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion ” vui ca lên nào thiếu nữ Sion. Hãy đưa mắt tư bề,muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi.Con cháu người đang từ đàng xa đổ về”. Các thánh đông đảo trong Nhà Cha.Vì vậy, mừng lễ Các Thánh, người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục. Niềm tin tưởng lạc quan của chúng ta lại có vẻ nghịch thường: con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.


Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ,vui mừng hiệp thông với cả bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ,anh em,bạn bè,tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ ( Kinh Tạ Ơn IV) khi chúng ta có thể hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời.Giáo hội vẫn mửng lễ các Thánh trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,các linh hồn đang ở luyện ngục.Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú.Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả.Nói cách khác luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang.Thiên đàng mới là bờ bến.Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn,dâng thánh lễ,làm việc lành để chuyển cầu cho các linh hồn. tâm tình đó nói lên mối hiệp thông huyền nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng:Thiên Chúa giàu lòng thương xót.Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá,thăng hoa con cái Chúa trờ về Nhà Cha,không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.


Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài.Trong muôn loài,có loài hoa,trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra muôn loại,muôn giống khác nhau.Có thể nói, mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe sắc trong vườn hoa thiêng liêng.Có nhiều vị thánh rao giàng tin mừng.Có thánh tử đạo,có thánh lo bác ái từ thiện,có thánh lo dạy học,có thánh chuyên sống đời cầu nguyện chay tịnh…Nhưng có một điểm chung nơi các thánh,đó là các Ngài đã bắt chước Chúa Kitô,sống cho hạnh phúc của người khác,it khi tìm hạnh phúc hay thú vui cho riêng mình.


Các Thánh không phải là những con người hoàn hảo,thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh.Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị.Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực,các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô.Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện, hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.


Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất ấy. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.

Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.


Sống các Mối Phúc Thật, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.


Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ đặc biệt Các Thánh Nam Nữ.



Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
MUỐN ĐƯỢC PHONG THÁNH

NHƯNG NGẠI LÀM THÁNH

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Hằng năm cứ tháng 11 lại về Mẹ Hội Thánh dẫn đoàn con sống mầu nhiệm hiệp thông. Đây là một tín điều trong bản tuyên xưng đức tin Công giáo hay còn gọi là “kinh Tin Kính”: Tôi tin các thánh thông công. Các tín hữu đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa và các tín hữu đang còn lữ thứ trần gian luôn hiệp thông với nhau trong cùng một sự sống thần linh và có thể chuyển thông công nghiệp cho nhau. Trong số các tín hữu đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa có một số đông các vị đã được Hội Thánh tuyên phong hiển thánh. Là tín hữu, chúng ta buộc nhìn nhận các Ngài đã được hưởng kiến nhan thánh Chúa cách trọn hảo, nghĩa là đã được hưởng hạnh phúc viên mãn “trên trời”.

Trong Cựu ước, từ “thánh” được dùng để chỉ những người được tuyển chọn, được tách riêng ra để thi hành sứ mạng Chúa giao phó. Trong Tân ước, từ ngữ này được dùng để chỉ các Kitô hữu (x. Cv 9,13; 31-41; 1 Cr 1,1; Rm 16,2). Các Kitô hữu được gọi là các thánh vì họ được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần, họ được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, làm nên dân tộc thánh thiện. Họ được mời gọi dùng chính bản thân con người và đời sống mình làm thành hy lễ thánh thiện hiến dâng Thiên Chúa (x. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh hạn từ “Các Thánh”). Dần dà về sau, có phải Kitô hữu nhận thấy sự thật này là dù đã được chết đi cho con người cũ và sống lại với Chúa Kitô trong sự sống mới thì cuộc sống của họ dường như ít đổi thay, và cũng có thể có không ít người không vượt qua được cám dỗ “ngựa quen đường cũ”, mà hai từ các thánh chỉ dành riêng cho những người có lối sống trổi vượt về đức hạnh ? Trong số những người có đời sống đạo hạnh thì càng về sau người ta lại chỉ dành chữ “thánh” cho những ai đã qua đời. Đã một thời Hội Thánh lại thận trọng tuyên phong hiển thánh cho một ai đó khi mà những người đương thời với vị ấy đang còn sống. Phải chăng chuyện “nhân bất thập toàn” là một rào cản tâm lý ?


Tâm lý muốn được “phong thánh”: tâm lý thường tình

Là người, là Kitô hữu, sự thường ai cũng có cám dỗ muốn được người khác nhìn nhận phẩm giá của mình. Một chước cám dỗ tự nó không phải là xấu. Xuất hiện ở đời này, theo năm tháng khi trí khôn phát triển, con người dần khám phá bản thân và tự ý thức về sự hiện hữu của mình. Khi biết được đây là tôi, thì tôi lại muốn tha nhân nhìn nhận đây chính là tôi. Khi người khác nhìn nhận đây là tôi thì vẫn chưa đủ. Tôi còn muốn tha nhân công nhận tôi là thế này, tôi là thế kia theo những tiêu chí mà xã hội mỗi thời trân trọng. Có lẽ thưở sơ khai thì con người thích chứng tỏ mình “mạnh” hơn. Mình mạnh hơn nghĩa là mình xứng đáng có quyền làm đầu với sức mạnh của cơ bắp. Xã hội phát triển dần lên thì con người muốn chứng tỏ mình là có tài hơn, khôn ngoan hơn. Lúc này con người muốn đứng trên kẻ khác bằng tài năng, bằng trí khôn của mình. Cám dỗ muốn chứng tỏ mình đạo đức hơn xem ra tinh tế và đáp ứng được khát vọng của nhiều người hơn. Dù tôi không được khôn ngoan, dù tôi kém tài hay yếu sức nhưng tôi rất có thể sống đàng hoàng, đức hạnh hơn ai đó. Và thế là cũng có cái để hơn người. Quả thật, người ta thường nể sợ những người mạnh sức, thông minh, lắm tài nhưng người ta lại mến mộ người đạo hạnh cho dù họ ở cương vị nào, thân phận ra sao. Mong ước được phong thánh nghĩa là muốn được nhìn nhận phẩm hạnh của mình là một ước mong chính đáng và tốt đẹp. Đây là một trong những nét trổi vượt của con người so với các loài thọ tạo hữu hình khác. Trong điều kiện bình thường, môi trường bình thường thì con người luôn có đó khát vọng vươn lên.




Sợ phải làm thánh: chuyện bình thường kiếp người

Trong khi vẫn muốn sống tốt hơn, đạo đức hơn thì con người lại bị một sức ì, một lực cản cầm giữ. Thánh Phaolô cảm nghiệm nơi bản thân Ngài: “Những điều tôi muốn thì tôi không làm, còn những điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Truyền thống gọi tình trạng này là hậu quả của nguyên tội. Nói đến nguyên tội, Kitô hữu trước đây rất dễ đón nhận nội dung giáo lý, đặc biệt được thánh Augustinô triển khai cách tượng hình. Với sự tiến bộ của các ngành khoa học lẫn thần học thánh kinh thì cách trình bày nội dung tội nguyên tổ như trước đây hình như thiếu tính thuyết phục. Tuy nhiên chúng ta khó chối bỏ cái thực tế trong kiếp người như thánh Phaolô thú nhận: “Tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi” (Rm 7,21-23).


Xu hướng vị kỷ một cách nào đó đang tồn tại trong mỗi người chúng ta. Nó biểu lộ dưới dạng này hay dạng khác thì đều có điểm chung là “có lợi cho mình”. Xét theo khía cạnh tiêu cực thì càng ít điều thiệt cho mình càng tốt. Bên cạnh đó còn vương cái tâm lý ngại hy sinh, sợ gặp sự khó, điều không hay, không may. Xu hướng vị kỷ này còn cám dỗ ta muốn sống yên phận. Người ta sao thì mình vậy. Sống khác người làm chi cho thiệt thân. An mình trong đám đông là một cách thế khôn ngoan đấy chứ. Cái xu hướng này không ít thì nhiều cũng có trong đời sống Kitô hữu chúng ta. Là Giám mục, miễn sao như chư huynh anh em là được. Là linh mục, cứ bình bình như “các cha” là ổn. Là tu sĩ nam nữ, thật hiếm thấy nhiều người dám lội dòng nước ngược như Phanxicô khó khăn, như Gioan Thánh Giá…, hay gần đây như mẹ Têrêxa thành Calcuttta. Là tín hữu giáo dân, miễn sao được lãnh nhận các Bí tích là đủ rồi. Cái lý do thường được viện dẫn quả có tình có lý. Mình có hơn gì ai. Một con én không làm nên mùa xuân. Không nên làm nổi, chơi trội khác người. Nếu không được gì hoặc giả có sơ suất nào thì tiếng tăm khó mà che được.


Tuy nhiên, rà soát sâu xa tận đáy lòng thì chúng ta có thể nhận ra chước cám dỗ này là ta ngại phải sống tốt hơn. Muốn được phong thánh thì cũng muốn mà lại sợ phải sống thánh thiện hơn. Chỉ cần vào được thiên đàng là đủ hay ít ra có một chỗ trong luyện ngục là chắc ăn. Đến đây thì ta mới thấy cái xu hướng vị kỷ hiện rõ mặt thật. Có người còn hiện sinh hơn dựa vào câu nói của Pascal: “con người không phải là súc vật cũng không phải là thiên thần. Khi nó muốn trở nên thiên thần thì sẽ rơi xuống hàng súc vật”. Phải chăng, lắm khi muốn trở thành thánh thì ta trở nên ác quỷ ? Cũng có thể có nhiều trường hợp ấy chứ. Ma quỷ tinh tế lắm. Cám dỗ một ai đó để họ tưởng rằng mình phải là thánh là chước cám dỗ xảo quyệt nhất. Tổ tiên loài người đã không từng ngã gục trước chước cám dỗ đó sao. Không gì hơn, hãy biết “khiêm nhu” bằng lòng với cái tầm sống chung chung của thiên hạ. Vấn nạn thật nan giải. Nhưng chúng ta đừng quên là Đức Giêsu đã từng mời gọi mọi chúng ta: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Không dám giải quyết vấn nạn cách kín lẽ, nhưng để tiếp cận vấn đề thì không gì hơn, chúng ta cần nhìn lại chân dung của những người mà Hội Thánh đã tuyên phong hiển thánh.




Các thánh là những ai ?

Câu hỏi này không muốn được trả lời bằng liệt kê một chuỗi danh sách, tên tuổi những người đã được hiển thánh, nhưng muốn chúng ta truy tìm chân dung các vị ấy. Dựa vào gợi ý của Hội Thánh qua các bài đọc trong Thánh Lễ kính các Thánh nam nữ (ngày 01-11), chúng ta thử sơ phác diện mạo các Ngài.


- Các thánh là một tập hợp “rất rất nhiều người”, đếm không xuể.

Tác giả sách Khải Huyền trong thị kiến đã thấy “đoàn người thật đông không tài nào đếm được, thuộc mọi nước, mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9). Riêng số con dân Israel thì cũng đã là vô số. Ngài đưa ra con số biểu trưng: 144.000 người. Tức là cả ngàn lần của bình phương số 12 (12 x 12 x 1000 = 144.000). Số người đông không đếm xuể mà tác giả sách Khải Huyền đưa ra chắc hẳn không chỉ là lời động viên mà còn là lời xác nhận rằng ai cũng có thể làm thánh được. Không phải tôi muốn làm thánh là khác người nhưng trong khi có vô số người đã làm thánh, còn tôi thì ngại làm thánh mới là khác người.




- Các thánh vốn là những tội nhân.

“Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (c.14). Chiếc áo tâm hồn vương bẩn nghĩa là đã nhiễm tội. Họ không chỉ giặt mà còn phải tẩy chiếc áo tâm hồn trong máu Đấng cứu độ nghĩa là tâm hồn các Ngài không chỉ bẩn sơ sơ mà bẩn ghê lắm. “Không một thánh nhân nào mà không có một quá khứ, vì thế không có tội nhân nào lại không có một tương lai” (Têrêxa). Làm thánh không có nghĩa là không có tội. Thánh nhân cũng là những người yếu đuối và nhiều lầm lỗi như ta. Nhìn lên thập giá để nhớ lại năm xưa trên đỉnh đồi Canvê, người tử tội bị treo bên phải Chúa Giêsu, chính anh ta đã tự thú nhận tội lỗi anh ta xứng đáng với cái án hình nhục nhã là thập giá, thế mà anh ta đã là một trong những thánh nhân, một thánh nhân được đích thân Chúa Giêsu tuyên phong. Yếu đuối, lỗi lầm không phải là những yếu tố ngăn cản ta, không cho ta nên thánh.




- Chính Máu châu báu của Đức Kitô làm cho ta nên thanh sạch, nên thánh.

“Này là Máu Thầy, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, đổ ra cho anh em và muôn người được tha tội” (x. Mt 26,28). Quả thật “trong Thánh Tử, nhờ Máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu độ, được thứ tha tội lỗi” (Ep 1,7). Chính tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ rõ nét qua Trái Tim bị đâm thâu của Đức Kitô mới làm cho chúng ta nên thanh sạch, nên thánh thiện, vô tì tích. Tuy nhiên Thánh giáo phụ Augustinô khẳng định: “Thiên Chúa có thể dựng nên tôi, không cần có tôi. Nhưng Người không thể cứu tôi mà không có tôi”. Đối với Thiên Chúa thì không có sự gì là không thể (Mc 10, 27). Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Người đã ban cho loài người một trong những hồng ân cao cả là sự tự do. Chính vì thế để cứu độ con người, Thiên Chúa cần đến sự cộng tác, sự đáp trả của con người. Thánh Gioan Tông đồ trong thư thứ nhất hé mở cho chúng ta về sự đáp trả ấy. “Phàm ai đặt hy vọng vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (1 Ga 3,3).




- Con đường nên thánh: tin cậy vào Đức Kitô.

Đến thế gian, Chúa Kitô thường mời gọi những nguời muốn nhận ơn lành của Người hãy tin vào Người. “Đức tin của con đã cứu chữa con; Bà tin sao thì được vậy; Anh có tin không ?...” Chúng ta vốn quen thuộc những kiểu nói này của Chúa Giêsu đến nỗi ta phải khẳng định rằng cách bình thường thì đó như là điều kiện tiên quyết để đón nhận ơn lành của Người. Thánh Phaolô Tông đồ trong hai thư gửi giáo đoàn Rôma và Galata đã nỗ lực minh chứng rằng chúng ta được nên công chính là nhờ tin vào Đức Kitô chứ không do bởi công nghiệp chúng ta. Quả thật, với hồng phúc được công chính hoá thì mọi cố gắng dù lớn lao đi mấy của chúng ta cũng không thể sánh bì. Hơn nữa giả như làm bản so sánh giữa công và tội thì được mấy ai có phần công nghiệp lớn hơn tội lỗi mà mình đã phạm. Tuy nhiên, đặt sự hy vọng hay niềm tin cậy vào Đức Kitô không phải là một tình cảm, cũng không chỉ là một quyết định một lần nhưng là một quá trình dõi theo con đường Đức Kitô đã đi, đó là con đường sống đức ái. Tình yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi (x. 1 Pr 4,8). Và sống Đức Ái là chu toàn mọi lề luật (x. Rm 13,10).




- Những nẻo đường nên thánh: theo chân Đức Kitô sống Đức Ái bằng “Tám mối phúc thật”.

Trong Thánh Lễ kính các Thánh nam nữ, Hội Thánh cho chúng ta nghe bài Tin mừng tường thuật việc Chúa Giêsu long trọng tuyên bố bản hiến chương Nước Trời là tám mối phúc thật. Tám mối phúc thực ra đó là những nẻo đường Đức Kitô đã đi khi Người nhập thể, nhập thế. Khó nghèo, hiền lành, khát khao sự công chính, xây dựng hoà bình… là những nẻo đường sống đức ái, đức trọn lành. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Đức Kitô (x. Ga 14,6). Để được làm công dân Nước Trời, nghĩa là để được làm thánh thì không thể không đi những nẻo đường Đức Kitô đã đi. Thế nhưng thử hỏi được có mấy ai đã đi qua đủ những nẻo đường ấy. Nhìn vào các Thánh mà Hội Thánh đã tuyên phong thì mỗi thánh mỗi vẻ, mỗi thánh mỗi con đường theo chân Giêsu. Cuộc đời của các thánh cho ta thấy các Ngài đã chọn một nẻo đường nào đó đặc biệt hơn để theo Đức Kitô. Thánh Phanxicô khó khăn chọn con đường khó nghèo để theo Thầy chí thánh. Thánh Vinh Sơn đệ Phaolô thì chọn con đường “biết xót thương người”. Các thánh tử đạo thì chọn con đường bị bách hại vì lẽ công chính. Và rồi cũng có những vị thánh mà cuộc sống không rõ nét là nẻo đường nào. Phải chăng ngoài tám nẻo đường chính thì vẫn có đó những con đường nhỏ tạm gọi là đường mòn, lối đi phụ ?


Theo cái nhìn của Kinh Dịch: Thái Cực sinh Lưỡng Nghi (âm – dương); Luỡng Nghi sinh Tứ Tượng (thái âm, thiếu âm; thái dương, thiếu dương); Tứ Tượng sinh Bát Quái (càn, khôn, ly, khảm, chấn, đoái, tốn, cấn); Và Bát Quái sinh muôn vật. Phải chăng sự giao thoa giữa Bát Phúc sẽ làm nên nhiều nhiều cái phúc khác ? Như thế, để theo chân Giêsu thì có muôn vạn nẻo đường ? Nhìn lên thập giá, nhớ lại đồi Canvê năm xưa, hướng nhìn lên người tử tội bên phải Chúa Giêsu, chúng ta thử hỏi rằng anh ta đã chọn con đường nào để vào Nước Trời ? Anh đã đến đích ngay hôm ấy. “Tôi bảo thật với anh: ngay hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên đàng với Tôi” (Lc 23,43).




Những tiêu chí đê kiểm nghiệm hướng đến của các con đường.

Tuy nhiên, đường này hay nẻo kia, để kiểm nghiệm xem có thực chúng hướng đến lối đi của Đấng cứu độ hay không thì cần có tiêu chí xem xét. Có thể có nhiều tiêu chí, nhưng xin đề ra hai tiêu chí mà Tin Mừng hay lặp đi lặp lại. Trước hết là sự bỏ mình. Đường vào thiên quốc là “con đường hẹp” (Mt 7,13-14), là con đường “vác thập giá mình” (Mc 8,34-38). Thứ đến là một tấm lòng hướng tha, biết nghĩ đến thiện ích của người khác. Hãy về và làm như “người Samaritanô nhân hậu” thì sẽ được sự sống đời đời. (x. Lc 10,25-37). Dụ ngôn ngày cánh chung trong Mt 25 làm rõ tiêu chí này. Người tử tội bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa khi tự nhận lỗi mình đã phạm thì anh ta cũng đã bỏ mình cách nào đó và anh ta cũng đã có chút tình với Chúa Giêsu khi anh ta trách sửa người đồng phạm: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng vì xứng với việc đã làm. Còn Ngài đây đâu có làm điều gì sai trái” (Lc 23,41).


Với ân sủng Chúa ban, thì đường nên thánh quả là đã ở trong tầm tay của mỗi người. Vấn đề còn lại là ở chúng ta. Mong sao ta biết bỏ mình đi một chút để hướng về thiện ích của tha nhân. Sống thánh là thế đó. Quả thật, vừa dễ lại vừa khó. Để kết thúc những chia sẻ này, xin mượn lời người xưa: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi, e sông” (Nguyễn Bá Học). Làm thánh không khó, nhưng bạn, tôi, chúng ta vẫn đang ngại làm thánh !


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa


tải về 338.3 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương