Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ


Bảng 1: Dự báo kinh tế toàn cầu 2015



tải về 3.48 Mb.
trang14/47
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích3.48 Mb.
#1943
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   47

Bảng 1: Dự báo kinh tế toàn cầu 2015




2014

2015 (dự báo)

Kinh tế toàn cầu

3,3%

3,5%

Mỹ

2,2%

3,6%

EU

0,9%

1,2%

Nhật

-0,8%

0,6%

Trung Quốc

7,3%

6,8%

ASEAN-5

4,6%

5,2%

Nguồn: IMF

  1. Kinh tế Việt Nam:

  1. Tình hình kinh tế Việt Nam quý I/2015:

- Tăng trưởng GDP tiếp tục phục hồi trong quý 1/2015 với mức tăng 6,03% so với cùng kỳ 2013. Đây là quý 1 có mức tăng trưởng cao nhất trong 5 năm trở lại đây45. Nếu loại trừ tính mùa vụ, tăng trưởng GDP quý 1/2015 còn cao hơn quý 4/2014 (6,62% so với 6,27%), duy trì xu hướng cải thiện từ quý 4/2012. Phân tích yếu tố chu kỳ của tăng trưởng46 cũng cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ.

Biểu đồ 17: Tăng trưởng GDP và tăng trưởng GDP loại bỏ tính mùa vụ Q1/2012-Q4/2015, % tăng GDP so cùng kỳ

Biểu đồ 18: Tăng trưởng do chu kỳ Q1/2012-Q4/2015, % tăng GDP so cùng kỳ





Nguồn: TCTK và tính toán của UBGSTCQG; Số quý 2,3,4/2015 là số dự báo của UBGSTCQG

Phân tích tổng thể cho thấy tăng trưởng GDP cả năm 2015 cũng sẽ tích cực hơn 2014 do cải thiện về cả tổng cầu lẫn tổng cung. Về cầu tiêu dùng: tổng mức hàng hóa bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý 1/2015 sau khi loại trừ yếu tố giá tăng 9,2% so cùng kì năm trước, cao hơn mức tăng 5,1% của cùng kì 2014. Mức tiêu thụ điện trong quý 1/2015 cũng tăng nhanh hơn cùng kì năm ngoái, đạt mức 12,7% (cùng kì là 9,2%). Cầu đầu tư cũng cải thiện khi dư nợ tín dụng 3 tháng đầu năm tăng nhanh hơn cùng kì. Tính đến 20/3/2015 tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt 1,25% (cao hơn nhiều so với mức giảm 0,57% của cùng kỳ năm 2014). Trong khi đó, vốn FDI thực hiện trong quý 1/2015 cũng tăng cao hơn cùng kì (7% so với 5,6%); (ii) Tổng cung cải thiện nhờ chi phí đầu vào giảm. Điều tra PMI của HSBC cho thấy giá cả đầu vào đã liên tục giảm kể từ tháng 11/2014. Chi phí đầu vào giảm một mặt do giá hàng hóa thế giới giảm, nhất là giá năng lượng.Mặt khác, năng suất của nền kinh tế đã có sự chuyển biến và mức tăng trưởng dài hạn bắt đầu cải thiện từ quý 1/2014. Với những diễn biến tích cực nêu trên, dự báo tăng trưởng GDP năm 2015 có khả năng đạt mức trên 6,2%.

- Lạm phát tiếp tục duy trì ở mức thấp. CPI 3 tháng đầu năm chỉ tăng 0,93% so với cùng kỳ năm trước (mức tăng tương ứng của cùng kỳ năm 2014 là 4,39%). Lạm phát cơ bản47 mặc dù tăng nhẹ lên mức 2,48% trong tháng 3/2015 (so với mức 2,31% của tháng trước) nhưng vẫn duy trì ở mức dưới 3% từ tháng 11/2014.

Dựa trên phân tích tổng cầu,48 dự báo lạm phát cơ bản năm 2015 khoảng 3,5%. Trong điều kiện giá lương thực và năng lượng thế giới được dự báo giảm trong năm 2015, khả năng đạt mục tiêu 5% về lạm phát tổng thể sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức độ điều chỉnh giá các hàng hóa cơ bản49.

Tuy nhiên, nền kinh tế Việt nam vẫn gặp nhiều thách thức do tác động của sự biến động của kinh tế thế giới và khu vực, sức ép của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những tồn tại của bản thân nội tại nền kinh tế (như khả năng cạnh tranh, ô nhiễm môi trường...). Trước mắt, trong Quý I, có 2 vấn đề cần được tiếp tục theo dõi và có đánh giá thích hợp là việc giảm sút FDI và nhập siêu vì đây là có thể là những vấn đề sẽ tác động tới công tác điều hành chính sách tiền tệ cũng như các vấn đề kinh tế vĩ mô khác.


  1. Diễn biến tình hình CSTT quý I/2015 và dự báo 2015:

- Tính đến 20/3/2015, tín dụng tăng trưởng 1,25% so với cuối năm 2014 (2 tháng đầu năm tăng 0,68%), trong khi đó cùng kì năm 2014, tăng trưởng tín dụng ở mức -0,57%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 2,09% so với đầu năm (cùng kì năm trước tăng 3,59%).

- Đầu năm 2015, trước diễn biến tăng giá của đồng đô la Mỹ trên toàn cầu, tỉ giá đã được điều chỉnh tăng thêm 1%, đưa tỉ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng tăng từ 21.246 VND/USD lên mức 21.458 VND/USD.

- Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn duy trì ổn định so với cuối năm 2014. Lãi suất cho vay VND dành cho 5 lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 7%/năm đối với kỳ hạn ngắn; lãi suất cho vay dành cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phổ biến ở mức 7-9%/năm đối với kỳ hạn ngắn, 9,5-11%/năm đối với trung dài hạn

- Dự báo cả năm 2015, chính sách tiền tệ có nhiều khả năng hoàn thành mục tiêu cả năm với điều kiện kinh tế thế giới không có biến động lớn, các chính sách kinh tế có liên quan được triển khai tích cực và hiệu quả đồng thời công tác điều hành tiếp tục bám sát diễn biến kinh tế trong, ngoài nước và quyết liệt giải quyết các vấn đề còn tồn tại.



  1. Một số gợi ý chính sách:

Do chính sách tiền tệ có mối quan hệ mật thiết tới nhiều chính sách khác nên để việc điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả cần phải thực hiện đồng bộ nhiều chính sách có liên quan. Cụ thể như sau:

  1. Đối với các chính sách chung:

- Tích cực thực hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế. Đây là biện pháp cơ bản và then chốt để đảm bảo chính sách tiền tệ có hiệu quả. Ngân hàng Thế giới cho rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có hiện tượng bất thường là duy trì lãi suất thấp diễn ra đồng thời với việc giảm phát nên đang mang tính rủi ro cao. Vì vậy, đã khuyến cáo các nền kinh tế hạn chế việc sử dụng chính sách tiền tệ (nới lỏng) để thúc đẩy tăng trưởng mà thay vào đó là cần phải tái cơ cấu nền kinh tế.

- Trong điều kiện lạm phát đang được kiểm soát tốt và có thể ở mức 5% vào cuối năm, giá hàng hóa thế giới có xu hướng giảm, việc điều hành giá các mặt hàng cơ bản cũng như lãi suất và tỉ giá trong năm 2015 cần được xem xét điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu lạm phát.

- Ngay từ đầu năm 2015, công tác sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa DNNN cùng với việc cải cách hành chính và thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ khu vực doanh nghiệp nâng cao tính cạnh tranh cần được quan tâm đặc biệt. Một khi doanh nghiệp phát triển chính là điều kiện thuận lợi để thực hiện chính sách tiền tệ có hiệu quả và ngược lại

- Giá dầu giảm ảnh hưởng đến thu ngân sách và cân đối ngân sách trong năm 2015. Với dự báo giá dầu thanh toán trung bình năm 2015 là khoảng 60 USD/thùng, thì thu ngân sách từ xuất khẩu dầu thô sẽ hụt 37 nghìn tỉ đồng so với dự toán (tương đương 4% tổng thu ngân sách) sẽ làm nguồn vốn đầu tư từ NSNN đang ngày càng bị thu hẹp bởi tình hình cân đối ngân sách đang ngày càng khó khăn và nợ công đang tiệm cận ngưỡng an toàn. Vì vậy, cần sớm có các phương án tăng thu và tiết kiệm chi thích hợp, trong đó có tính đến vai trò hỗ trợ của chính sách tiền tệ nhưng đồng thời tạo điều kiện để chính sách tiền tệ tập trung vào mục tiêu chính của mình là kiềm chế lạm phát và thúc đẩy phát triển sản xuất-kinh doanh.

- Tích cực thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước vào phát triển thị trường vốn trung và dài hạn thông qua việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa và tái cơ cấu thị trường chứng khoán với việc dòng tiền trong nước chảy vào thị trường khó tăng mạnh sau khi Thông tư 36 có hiệu lực và hoạt động ký quỹ bị hạn chế. Bên cạnh đó, để thị trường vốn hoạt động hiệu quả hơn, việc tiếp tục cải cách thủ tục, tăng cường minh bạch, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xếp hạng doanh nghiệp uy tín là cần thiết. Việc phát triển thị trường vốn trung và dài hạn sẽ hỗ trợ và giảm sức ép lên chính sách tiền tệ đối với các nguồn vốn ngắn hạn là chủ yếu.

- Năm 2015 sẽ là năm thực hiện nhiều cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, cần xây dựng đồng bộ các chính sách nhằm tận dụng tối đa các mặt tích cực và cơ hội đồng thời hạn chế các mặt tiêu cực và thách thực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Có thể nói các cam kết mở cửa, hội nhập sẽ tác động mạnh và nhiều nhất tới thị trường tiền tệ và sẽ là thách thức đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ. Vì vậy, cần chuẩn bị những giải pháp kịp thời và hiệu quả để tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ đảm bảo tính chủ động cần thiết.



b. Đối với chính sách tiền tệ năm 2015:

- Trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị toàn cầu vẫn ẩn chứa nhiều yếu tố bất định, dự báo sẽ tiếp tục ảnh hưởng nhất định tới nền kinh tế Việt Nam. Việc đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được Quốc hội đề ra cho năm 2015 với lạm phát khoảng 5% và tăng trưởng GDP khoảng 6,2% là những thách thức không nhỏ đối với công tác điều hành CSTT, đặc biệt là vấn đề thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh dư địa hạ lãi suất còn rất hạn hẹp. Do đó, chính sách tiền tệ cần theo sát hơn và tăng cường khả năng dự báo những diễn biến của kinh tế trong và ngoài nước để kịp thời có các đối sách thích hợp.

- Năm 2015 là năm cuối thực hiện đề án cơ cấu lại các TCTD. Vì vậy, cần đẩy nhanh hơn tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các TCTD, đảm bảo thực hiện đúng lộ trình của Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống các TCTD, khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế

- Công tác điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cần phối hợp nhịp nhàng và linh hoạt theo hướng đảm bảo tổng vốn đầu tư cho nền kinh tế và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

- Căn cứ vào diễn biến lạm phát, công tác điều hành CSTT cần linh hoạt, một mặt vẫn đảm bảo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, mặt khác vẫn cần đảm bảo thanh khoản hệ thống ngân hàng để hỗ trợ tăng trưởng.

- Nhằm gia tăng niềm tin vào đồng nội tệ, giảm dần trình trạng đô la hóa diễn ra trong nhiều năm qua, cần kiên định với mục tiêu duy trì giá trị đồng nội tệ. Chính sách tỉ giá cần được ưu tiên duy trì ổn định trong giai đoạn trước mắt. Còn trong trung và dài hạn, cần được xem xét, cân nhắc tổng thể các yếu tố của nền kinh tế trên cơ sở theo dõi sát diễn biến của kinh tế thế giới và trong nước để chủ động có những kịch bản xử lý linh hoạt khi cần thiết ./.



CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN, KẾT QUẢ, VẤN ĐỀ

VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

TS.Trần Tiến Cường

1. Cổ phần hoá DNNN - quá trình và kết quả thực hiện

Các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Việt Nam - trước đây gọi là sắp xếp, đổi mới, và từ năm 2012 có tên gọi mới là tái cơ cấu DNNN – đã được triển khai trong gần 30 năm qua. Trong đó cổ phần hoá (CPH) được coi là hướng đi chính, là biện pháp quan trọng, có ý nghĩa chi phối đối với quá trình cải cách DNNN.

Cổ phần hoá là chuyển đổi sở hữu từ nhà nước sang sở hữu khác - chủ yếu là sở hữu của tư nhân trong nước và sở hữu nước ngoài. Vì vậy CPH là vấn đề nhạy cảm. Do đó, quá trình CPH DNNN ở Việt Nam diễn ra rất thận trọng, cũng vì vậy, diễn ra rất chậm. Bắt đầu bằng Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992, đến nay CPH đã triển khai được 24 năm. Tính đến đầu năm 2014 số DN đã chuyển thành các công ty cổ phần là 4065 DN, gồm 3650 DN và 415 bộ phận DNNN50.

Xét về yêu cầu và tính chất triển khai CPH có thể phân chia quá trình thực hiện CPH trong 24 năm qua thành một số giai đoạn chính như sau:

- Giai đoạn thí điểm CPH từ năm 1992 đến giữa năm 1996. Quá trình thí điểm bắt đầu từ Quyết định 202-CT (năm 1992) đến khi văn bản pháp lý cao hơn là Nghị định 28/CP của Chính phủ được ban hành và đưa vào thực hiện thay thế cho Quyết định 202-CT của Thủ tướng Chính phủ. Giai đoạn này chỉ có 5 doanh nghiệp (DN) được tiến hành CPH.

- Giai đoạn mở rộng thí điểm CPH từ giữa 1996 đến khi ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP. Trong giai đoạn này việc CPH được thực hiện theo Nghị định 28/CP và Nghị định 25/1997/NĐ-CP của Chính phủ. Tổng số có 25 DN đã hoàn thành CPH trong khoảng thời gian 2 năm.

- Giai đoạn đẩy mạnh CPH từ giữa năm 1998 trở đi (khi ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP) đến khi chuyển sang thực hiện tái cơ cấu DNNN theo chủ trương của Hội nghị Trung ương ba khoá XI cuối năm 2011. Đây là giai đoạn có hàng loạt các DN và bộ phận DN Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn được CPH, chuyển thành các DN đa sở hữu có hoặc không có cổ phần nhà nước. Trong giai đoạn này nhiều văn bản quy phạm pháp luật (như các Nghị định 64/2002/NĐ-CP, 187/2004/NĐ-CP, 109/2007/NĐ-CP, 59/2011/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn) đã được ban hành, được sửa đổi, bổ sung để tạo cơ sở pháp lý và hỗ trợ chính sách cho CPH.

Ở thời kỳ đầu của giai đoạn này, việc CPH được triển khai rất mạnh mẽ, trên diện rộng, ở tất cả các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty. Chỉ trong 3 năm đầu (giữa năm 1998-2001) số DNNN và bộ phận DNNN được CPH là 745 DN. Sau 1 năm có số lượng DN CPH giảm nhẹ (năm 2002 CPH được 164 DN) do công tác chuẩn bị và chờ đợi thực hiện theo cơ chế mới của Nghị định 64/2002/NĐ-CP, 4 năm tiếp theo (2003, 2004, 2005, 2006) số DNNN và bộ phận DNNN được CPH tăng rất mạnh với số lượng lần lượt là 621, 856, 813, 359 DN. Nếu so với tổng số DNNN và bộ phận DNNN đã CPH cho đến nay thì số CPH riêng trong 4 năm này đã chiếm gần gần 2/3 (63%). Bên cạnh nỗ lực triển khai, thì kết quả này đạt được là nhờ có các động lực CPH từ chủ trương của Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, của Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN ban hành cuối năm 2001. Đặc biệt, các cơ chế chính sách trong các Nghị định 28/CP, 44/1998/NĐ-CP, 64/2002/NĐ-CP thiên về khuyến khích, động viên DNNN CPH (như xác định giá trị DN, xác định giá trị đất đai, vị trí địa lý, uy tín, thương hiệu... gắn với giá trị DN được đơn giản hoá, dựa chủ yếu vào giá trị sổ sách, chưa gắn với thị trường) đã tạo ra động lực mạnh thúc đẩy CPH ở những năm đầu của giai đoạn này.

Tuy nhiên, ở những năm tiếp theo của giai đoạn này tốc độ CPH đã chững lại và giảm mạnh. Số lượng DNNN và bộ phận DNNN được CPH trong 5 năm 2007 - 2011 là 388 DN, tính bình quân 1 năm là 78 DN, thấp hơn nhiều so với bình quân 4 năm đầu đẩy mạnh CPH 1999-2002 (bình quân 1 năm là 227 DN) và thấp hơn rất nhiều so với 4 năm CPH mạnh mẽ nhất 2003-2006 (bình quân 1 năm là 662 DN).

Đến năm 2011 (trước khi chuyển sang giai đoạn tái cơ cấu DNNN theo Nghị quyết Trung ương ba Khoá XI) tổng số có 3.976 DNNN và bộ phận DNNN đã hoàn thành CPH và chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần51. Trong đó DN của địa phương, của Bộ, ngành, và của các tập đoàn, tổng công ty chiếm tỷ lệ tương ứng là 58%, 30% và 12%. Số DN 100% vốn nhà nước còn lại đến năm 2011 trước tái cơ cấu là 1309 DNNN, trong đó DN của địa phương, của Bộ, ngành, và của các tập đoàn, tổng công ty chiếm tỷ lệ tương ứng là 54%, 27%, 19%.52



Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá qua các giai đoạn

Giai đoạn

Số DN và bộ phận DN cổ phần hoá

Giai đoạn thí điểm CPH (1992 – giữa 1996) theo Quyết định 202-CT

5

Giai đoạn mở rộng thí điểm CPH (giữa 1996 - giữa năm 1998) theo Nghị định 28/CP và Nghị định 25/1997/NĐ-CP

25

Giai đoạn đẩy mạnh CPH (giữa năm 1998-2011) theo các Nghị định 44/1998/NĐ-CP, 64/2002/NĐ-CP, 187/2004/NĐ-CP, 109/2007/NĐ-CP

3.946

  • 4 năm 1999-2002

909

  • 4 năm 2003 - 2006

2.649

  • 4 năm 2007 - 2010

376

  • Năm 2011

12

Giai đoạn CPH nhằm tái cơ cấu DNNN theo Quyết định 929/QĐ-Tg, các Nghị định 59/2011/NĐ-CP, 189/2013/NĐ-CP

230

  • Năm 2012

13

  • Năm 2013

74

  • Năm 2014

143

Tổng

4.206

Nguồn: Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Bộ Tài chính

- Giai đoạn thực hiện CPH nhằm thúc đẩy tái cơ cấu DNNN từ năm 2012 đến nay. Đây là giai đoạn triển khai thực hiện một trong ba nội dung quan trọng của Nghị quyết Trung ương ba khoá XI là tái cơ cấu DNNN và thực hiện Quyết định 929/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011-2015 (trọng tâm là TĐKT, TCT). Tuy nhiên, việc CPH diễn ra rất chậm, 3 năm đầu (2011, 2012, 2013) mới CPH được 99 DN, số DN được CPH lần lượt từng năm là 12, 13, 74 DN. Theo kế hoạch, số DN cần hoàn thành CPH trong 2 năm 2014 - 2015 là 432 DN. Năm 2014 đã hoàn thành CPH được 143 DN. Số DNNN còn lại cần hoàn thành CPH trong năm 2015 là 289 DN. Riêng Quý I/2015 đã hoàn thành CPH được 27 DN, như vậy sẽ còn 262 DN cần CPH trong năm 2015.

Mặc dù số lượng DN được CPH từng năm theo xu hướng tăng dần, nhưng số DNNN còn lại cần hoàn thành CPH là khá nhiều, đồng thời lại là các TĐKT và TCT có quy mô rất lớn. Đây là thách thức không nhỏ nhìn từ mục tiêu số lượng DN cần hoàn thành CPH trong chương trình tái cơ cấu DNNN đến năm 2015. Bên cạnh đó là các thách thức về mục tiêu chất lượng, về chiều sâu của tái cơ cấu thông qua CPH. Đó là, chuyển từ CPH theo chiều rộng - lấy số lượng DN hoàn thành CPH là mục tiêu, sang CPH theo chiều sâu –kết hợp CPH với tái cơ cấu DN sau CPH (kể cả tái cơ cấu trước khi CPH nếu cần), lấy chất lượng là mục tiêu. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các TĐKT và TCT có quy mô lớn.

Nhìn chung, quá trình CPH được đánh giá là đã tạo ra nhiều tác động tích cực đối với DN CPH và toàn bộ khu vực DNNN. Đối với DN, CPH đem lại tính năng động, tích cực hơn trong quản trị, điều hành, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động. Đối với khu vực DNNN, CPH cùng với các biện pháp khác dẫn đến giảm đáng kể số lượng DN 100% vốn nhà nước, từ trên 12 nghìn DNNN đầu những năm 1990 xuống còn 909 DN đến hết năm 2013 (chưa kể nông, lâm trường quốc doanh)53. Nhờ đó thu hẹp ảnh hưởng của khu vực DNNN; phân bổ lại nguồn lực của nền kinh tế; chuyển dịch một số nguồn lực từ khu vực DNNN, như tài chính, tín dụng, nhân lực, đất đai… sang khu vực DN tư nhân trong nước và khu vực DN FDI để sử dụng có hiệu suất, hiệu quả hơn. Thông qua đó tạo điều kiện thúc đẩy sự tham gia của 2 khu vực kinh tế tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế đất nước. Có thể nhận thấy, tuy tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong GDP giảm (từ 40% xuống còn khoảng 28%) nhưng với sự tăng trưởng mạnh hơn của khu vực kinh tế tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài nên nền kinh tế vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng khá cao.



2. Một số vấn đề trong và sau CPH

2.1. Thách thức về tiến độ, lộ trình CPH và nguyên nhân

Việc thực hiện sắp xếp và CPH DNNN còn chậm. Ba năm 2011-2013 mới CPH được 99 DN. Kể cả số DN CPH năm 2014 (143 DN) thì tổng số 4 năm mới có 242 DN CPH, đạt quá nửa (56%) kế hoạch CPH giai đoạn 5 năm 2011-2015 theo đề án tái cơ cấu DNNN của Quyết định 929/QĐ-TTg. Còn lại 289 DN, chiếm gần một nửa (44%) số DN phải hoàn thành CPH trong năm 2015. Ở đây nảy sinh thách thức kép: vừa phải hoàn thành tiến độ và kế hoạch CPH, vừa phải đảm bảo chất lượng CPH, trong đó nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng CPH là tạo ra động lực mới nhờ đổi mới quản trị doanh nghiệp (QTDN) và sự đột phá do có sự tham gia của nhân tố nhà đầu tư-cổ đông chiến lược.

Việc CPH chậm, chưa đúng với lộ trình, chưa bảo đảm tiến độ, còn nhiều đối tượng DN quy mô lớn chưa CPH do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó đáng chú ý là một số nguyên nhân sau đây:

- CPH trong bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô không thuận lợi là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến tiến độ CPH. Số lượng DN CPH được trong 4 năm 2011, 2012, 2013, 2014 từ rất ít đến tăng dần (lần lượt là 12, 13, 74, 143 DN) cho thấy thực trạng này. Một mặt, kinh tế vĩ mô không thuận lợi, kinh tế suy giảm ảnh hưởng rất lớn đến cầu của thị trường, từ đó ảnh hưởng đến IPO các DN CPH. Mặt khác, trong những năm này Chính phủ và các Bộ, ngành tập trung nhiều nỗ lực vào điều hành ổn định kinh tế vĩ mô, vì thế cũng ảnh hưởng đến các nỗ lực thực hiện CPH và tiến độ CPH.

- Đối tượng CPH gần đây và sắp tới là những DN quy mô lớn CPH phức tạp hơn, cần nhiều thời gian hơn cho quá trình sắp xếp, tái cơ cấu đi liền với CPH.

Cho đến nay CPH chủ yếu tiến hành đối với các DNNN quy mô nhỏ. CPH những DN này trước là theo phương châm “buông nhỏ, giữ lớn”, đẩy nhanh CPH DNNN quy mô nhỏ trước để giảm mạnh số lượng DNNN. Số DNNN còn lại chưa CPH và sẽ CPH tiếp là những DNNN quy mô lớn, chủ yếu là TĐKT và TCT (không kể các nông, lâm trường quốc doanh). Việc CPH các DNNN quy mô lớn, các TĐKT và TCT khó tiến hành hơn vì có nhiều vấn đề hơn DNNN nhỏ. DN lớn như các TĐKT và TCT buộc phải tái cơ cấu lại trước khi CPH, như: phải sắp xếp lại sản xuất, tái cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính, cơ cấu lại tổ chức, bộ máy, cán bộ, lao động, v.v. Điều đó tất yếu ảnh hưởng đến tiến độ, lộ trình CPH.

- Lý do chậm CPH một phần gắn với nhân sự lãnh đạo quản lý của DN, chủ yếu là người đứng đầu DN, vì họ là những người có tiếng nói có ảnh hưởng lớn có tính quyết định đến quyết tâm CPH hay làm chậm quá trình CPH. Ở giai đoạn mấy năm gần đây, lãnh đạo quản lý, người đứng đầu DN có nhiều lý do hơn có thể nêu ra về khó khăn, trở ngại, vấn đề cần cân nhắc để kéo lùi thời gian CPH như kinh tế suy giảm, thị trường chứng khoán chưa khởi sắc, vấn đề định giá DN… vì thế CPH có thể gây mất vốn nhà nước, v.v. Một trong những lý do nữa không thể bỏ qua là bài toán lợi ích “được-mất” giữa chưa CPH và CPH, thời điểm tiến hành CPH đối với DN và đối với cá nhân của những người đứng đầu, người lãnh đạo, quản lý DN. Đây là một lý do làm chậm quá trình CPH. Lý do này không mới và không chỉ ở nước ta. Có thể lấy hiện tượng “hội chứng 59” ở Trung Quốc làm ví dụ. Đó là trước 59 tuổi thì lãnh đạo DNNN tìm cách trì hoãn, không chịu cải cách, CPH vì sợ ảnh hưởng quyền lợi, lợi ích của họ. Khi sang tuổi 59 chuẩn bị nghỉ hưu thì họ tỏ ra sẵn sàng tiến hành.

- Sự quyết tâm và quyết liệt của người chỉ đạo, điều hành tái cơ cấu, CPH DNNN thuộc các Bộ, ngành có ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện CPH của Bộ, ngành. Nó là nhân tố có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm quá trình CPH.

- Đặc điểm của ngành, lĩnh vực hoạt động cũng là nhân tố ảnh hưởng đến tiến độ CPH. Hiện nay có rất nhiều các DNNN là nông, lâm trường quốc doanh chưa được CPH, bao gồm cả chưa CPH theo kế hoạch. Điều đó cho thấy đặc điểm ngành, lĩnh vực hoạt động của DN có sản phẩm gắn với đất đai là nguyên nhân gây chậm CPH do tính phức tạp của định giá DN gắn với đất đai. Đồng thời quy định và chính sách CPH áp dụng chung cho tất cả các ngành là chưa phù hợp với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp với đối tượng lao động là các loại cây, con là các thực thể sống. Điều đó gây khó khăn, lúng túng cho việc triển khai.

- CPH đi liền sau quá trình tái cơ cấu DNNN, hay tái cơ cấu DNNN là tiền đề cho CPH. Hai hoạt động này gắn kết nhau cũng là nguyên nhân kéo dài thêm quá trình tiền CPH, dẫn đến tiến độ CPH chậm hơn. Có hai trường hợp, một là, trường hợp của các DN quy mô lớn như TĐKT, TCT, hai là, những DN cần xử lý các vấn đề để gia tăng giá trị DN trước CPH như tái cơ cấu tài chính, lành mạnh hoá tài chính trước CPH.



2.2. CPH các TĐKT và TCT nhà nước

Việc CPH các TĐKT và TCT nhà nước đối diện với những vấn đề chung của các DN CPH và cả những vấn đề riêng của loại hình DN quy mô lớn.

Vấn đề chung của các DN CPH là: cần xử lý các tồn tại và giải quyết vấn đề mới phát sinh sau CPH. Đó là tình trạng DN sau CPH vẫn chưa thoát ra khỏi phương thức hoạt động của DNNN cũ, vẫn chưa đột phá mạnh về tư duy, hành động trong quản trị, điều hành, năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh, tính công khai, minh bạch, khó tìm được cổ đông chiến lược, cách lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, vai trò cổ đông nhà nước bị quá lạm dụng hoặc trong trình trạng chỉ giữ vai trò như người giữ vốn nhà nước...

Vấn đề có đặc thù riêng trong CPH TĐKT và TCT đó là:

- Thứ nhất, TĐKT và TCT là những DN quy mô lớn, có tài sản lớn, nhiều vốn nhà nước, nắm giữ những ngành, lĩnh vực kinh doanh thường được quan niệm là quan trọng, nhạy cảm, liên quan đến vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước, an ninh, quốc phòng, công ích. TĐKT và TCT cấu trúc phức tạp, đa dạng, nhiều tầng nấc, gồm nhiều DN thành viên, lợi ích không đồng nhất thậm chí đối lập nhau. TĐKT và TCT theo quan niệm trước đây và thậm chí hiện nay vẫn còn được coi là nòng cốt, xương sống của DNNN và kinh tế nhà nước. Đây đều là những vấn đề gai góc, cần giải quyết trong và sau CPH.

- Thứ hai, về cách thức tiến hành CPH. Hiện tại có 2 cách, một là, CPH toàn bộ TĐKT, TCT, và hai là, chỉ CPH các DN thành viên để chuyển sang mô hình công ty mẹ-công ty con. Cho đến nay CPH TCT vẫn thiên về cách làm thứ hai: trước hết CPH các DN thành viên, sau đó mới CPH công ty mẹ. Cách này chỉ thay đổi ở bên dưới, công ty con, cháu, công ty liên kết, chưa đụng đến DN phía trên đó là công ty mẹ. Vì vậy nhiều TĐKT, TCT không có chuyển biến mạnh mẽ, sức ỳ vẫn lớn, nó chỉ phù hợp giai đoạn trước tái cơ cấu. Trước gia đoạn tái cơ cấu DNNN chưa có TĐKT nào được CPH theo cách thứ nhất, trừ Tập đoàn Tài chính bảo hiểm Bảo Việt và Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam. Gần đây một số TCT cũng đã chuyển sang cách CPH thứ nhất.

Thứ ba, Nhà nước can thiệp quá sâu vào quyền của công ty mẹ trong CPH các DN thành viên như phê duyệt cả tỷ lệ % cổ phần Nhà nước giữ lại ở công ty con, cháu, công ty liên kết. Điều đó làm khó cho công ty mẹ thực hiện ý đồ chiến lược, sử dụng quyền của mình ở công ty con, công ty liên kết.

2.3. Quản trị DN sau CPH

Mục tiêu CPH, ngoài việc đa dạng hoá sở hữu, giảm tính độc tôn của sở hữu nhà nước, là chuyển DNNN thành DN cổ phần với cấu trúc quản trị hiện đại, đồng thời sau CPH tiếp tục cải thiện QTDN theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, trên thực tế QTDN tại các DN chuyển từ DNNN thành công ty cổ phần nhìn chung chưa có nhiều chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.

Thứ nhất, nhận thức chưa đúng, thậm chí sai lệch về QTDN, coi cải thiện QTDN là cải thiện quản lý điều hành sản xuất kinh doanh như cải thiện quản lý về tài chính, nhân sự, tiền lương, sản xuất, thương mại, v.v. Không ít DNNN khi được hỏi ý kiến đều nghiêng về nhận thức như vậy và triển khai theo hướng này54. Trong khi đó cải thiện QTDN là áp dụng các nguyên tắc QTDN hiện đại theo thông lệ kinh tế thị trường, ví dụ như các quy tắc của OECD, đó là tạo điều kiện để cổ đông thực hiện quyền cổ đông và bảo vệ quyền của cổ đông; đối xử bình đẳng với mọi cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số; các bên liên quan được tiếp cận các thông tin phù hợp, đầy đủ, tin cậy, kịp thời và thường xuyên; tăng cường minh bạch hóa và công bố thông tin quan trọng của doanh nghiệp; tăng cường trách nhiệm và tính giải trình của HĐQT, đảm bảo để HĐQT hoạt động vì lợi ích cao nhất của doanh nghiệp và của cổ đông.

Thứ hai, Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến các DN sau CPH và QTDN của các DN này. Mọi nỗ lực đổi mới, sắp xếp, tái cơ cấu DN trong hơn 20 năm qua gần như chỉ tập trung vào DN 100% vốn nhà nước và thông qua giải pháp CPH là chính. Đã có rất nhiều văn bản được ban hành cùng với những nỗ lực thực hiện CPH. Ngược lại, có rất ít văn bản hướng dẫn và chỉ đạo triển khai, cũng như rất ít nỗ lực thực hiện nhằm cải thiện QTDN tại các DN có cổ phần chi phối hay kiểm soát của Nhà nước ở giai đoạn sau CPH. Nhiệm vụ đổi mới QTDN theo thông lệ kinh tế thị trường đã trở thành vấn đề cấp thiết sau khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007) được giao cho các Bộ, ngành và DN triển khai thực hiện từ năm 201255. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ của tái cơ cấu DNNN56. Tuy nhiên, chưa có các văn bản hướng dẫn tiếp theo, đồng thời việc triển khai thực hiện rất chậm. Trong khi đó có thể nhận thấy, đối với DN có cổ phần chi phối hay kiểm soát của Nhà nước, thì thoái vốn nhà nước tại các DN này được coi là vấn đề trọng tâm trong những năm gần đây mà không phải là cải thiện QTDN.

Thứ ba, các biện pháp tái cấu trúc DNNN còn thiên về khu vực DN có 100% vốn nhà nước, chưa chú trọng các biện pháp cải cách các DN sau cổ phần hoá, nhất là DN Nhà nước còn nắm cổ phần chi phối. Các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh và các cơ quan đổi mới DNNN mới chỉ quan tâm đến thực hiện kế hoạch sắp xếp, cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, chuyển đổi sang Luật DN, mà chưa quan tâm quản trị DN sau cổ phần hoá, quản lý phần vốn nhà nước, đặc biệt là DN có cổ phần chi phối của Nhà nước.

2.4. Địa vị pháp lý và vị trí của DN có cổ phần chi phối của Nhà nước sau CPH

Sau CPH các DNNN chuyển thành các DN đa sở hữu với 3 dạng hình: DN có cổ phần chi phối của Nhà nước (từ trên 50% trở lên), DN có cổ phần dưới mức chi phối của Nhà nước (từ 50% trở xuống), DN không còn cổ phần nhà nước. Với những DN có cổ phần chi phối của Nhà nước, vấn đề nổi lên là chưa có những quan tâm đúng mức về địa vị pháp lý cũng như chưa sử dụng đúng vị thế, vai trò của loại DN này. Trước đây, theo Luật DN năm 2005 (khoản 22, Điều 4) và Luật DNNN năm 2003 (Điều 1), đây là những DNNN. Còn theo Luật DN năm 2014 (Điều 4) đây không phải là DNNN; chỉ những doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ mới được coi là DNNN.

Việc thay đổi định nghĩa về DNNN, thứ nhất, tự nó không làm giảm bớt số lượng DNNN đang tồn tại trên thực tế ở những DN có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước, đồng thời cũng không hạn chế được những vấn đề của DNNN. Bước vào giai đoạn tái cơ cấu DNNN vẫn còn 1.217 DN có cổ phần chi phối của Nhà nước, chiếm gần 1/3 tổng số DN và bộ phận DN đã CPH. DN có cổ phần chi phối của Nhà nước về bản chất vẫn là DNNN, Nhà nước vẫn sử dụng để thực hiện mục tiêu chính sách, vẫn thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước. Trong khi đó Nhà nước vẫn phải giải quyết những vấn đề đang tồn tại tại các DN này như độc quyền, áp đặt của cổ đông nhà nước, DN không mấy thay đổi về quản trị sau CPH. Thứ hai, không coi DN có cổ phần chi phối là DNNN có thể dẫn đến hệ quả Nhà nước không mấy quan tâm đến loại DN này (do không còn là DNNN), vì vậy, không có cách tiếp cận đúng, không có các nỗ lực, các biện pháp, chính sách cải cách mạnh các DN này, dẫn đến phó mặc các DN này cho những người đại diện cổ đông nhà nước. Thực tế cũng đang diễn ra đúng như vậy. Thứ ba, không coi DN có cổ phần chi phối là DNNN là đi ngược với thông lệ quốc tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sau làn sóng tư nhân hoá từ những năm 1980, các DNNN ở những nước này chủ yếu là những DN do Nhà nước sở hữu cổ phần chi phối, thậm chí gồm cả những DN có cổ phần dưới mức chi phối nhưng Nhà nước vẫn nắm quyền kiểm soát.

2.5. Vấn đề thoái vốn nhà nước từ các DN sau CPH

Thoái vốn nhà nước trước đây đã được triển khai tại các DN đã CPH, chủ yếu tại các DN quy mô nhỏ của các địa phương và của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Gần đây việc thoái vốn nhà nước thực hiện tại cả các DN có 100% vốn nhà nước (DNNN) và DN có vốn nhà nước. Thực tế, có 2 loại thoái vốn nhà nước: thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo chủ trương tái cơ cấu DNNN, và thoái vốn nhà nước từ các DN đã CPH. Thoái vốn đầu tư ngoài ngành là giải pháp tái cơ cấu DNNN nhằm thu hẹp ngành, lĩnh vực đầu tư để giải quyết tình trạng đầu tư dàn trải nhằm tập trung đầu tư vào ngành, lĩnh vực kinh doanh chính. Đây là hoạt động tái cơ cấu DNNN. Thoái vốn nhà nước từ các DN đã CPH là giảm bớt tỷ lệ cổ phần nhà nước tại DN sau CPH. Đây là tiếp tục quá trình CPH ở giai đoạn sau CPH, hay có thể gọi là CPH thứ cấp.

Thực tế hiện nay ở nước ta chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa 2 loại thoái vốn này. Cụ thể là, chưa xác định rõ tính chất, mục tiêu, thẩm quyền quyết định đối với từng loại thoái vốn. Vẫn còn tình trạng đánh đồng giữa thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo chủ trương tái cơ cấu DNNN, và thoái vốn để tiếp tục CPH DN có vốn nhà nước ở giai đoạn sau CPH. Hiện nay đang tồn tại nghịch lý trong thực hiện cả 2 loại thoái vốn này.

Thứ nhất, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính là việc điều chỉnh vốn đầu tư, điều chỉnh hoạt động đầu tư tại DN và điều chỉnh hoạt động đầu tư tài chính tại DN khác. Đó là việc sử dụng vốn kinh doanh của DN, thuộc quyền của DN, do bộ máy quản trị DN quyết định. Tuy nhiên, hiện nay việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành đang diễn ra đồng loạt theo quy định hành chính của cơ quan nhà nước, bất kể thực trạng hiệu quả sử dụng vốn, triển vọng sử dụng vốn, tiềm lực vốn, năng lực quản trị của DN. Điều đó vừa can thiệp vào quyền kinh doanh của DN, vừa thiếu tính kinh tế vì chưa tính đến thực trạng và triển vọng đầu tư của DN trong ngành kinh doanh chính cũng như đầu tư của DN vào các ngành kinh doanh ngoài ngành kinh doanh chính.

Thứ hai, thoái vốn nhà nước từ các DN đã CPH là điều chỉnh vốn điều lệ, tức là điều chỉnh vốn chủ sở hữu nhà nước. Đó là hoạt động sử dụng vốn chủ sở hữu, là thuộc quyền của cổ đông nhà nước - chủ sở hữu nhà nước, không phải quyền của DN (trừ DN là công ty con của DN mẹ). Đối với nhiều nước, việc tăng, giảm vốn nhà nước tại DN được quy định chặt chẽ vì đó là quyền chủ sở hữu nhà nước, quyền này thuộc về Nghị viện, Quốc hội. Ví dụ như Thuỵ Điển, việc mua bán cổ phần của DN mà Chính phủ sở hữu trên 50% cổ phần có quyền biểu quyết thì phải được Quốc hội phê chuẩn; Chính phủ không được phép bán bớt cổ phần thấp dưới mức do Quốc hội thông qua. Đối với Phần Lan, chỉ khi Quốc hội cho phép thì mới được giảm cổ phần nhà nước xuống dưới mức chi phối (trên 2/3 tổng số phiếu có quyền biểu quyết), dưới mức đa số (trên 1/2 tổng số phiếu có quyền biểu quyết), dưới mức thiểu số (trên 1/3 tổng số phiếu có quyền biểu quyết)57. Trong bối cảnh nước ta, hiện chưa có các quy định, các căn cứ hay tiêu chí để thoái vốn nhà nước từ DN đã CPH. Quyền quyết định thoái vốn nhà nước cũng không nhất quán với quyền quyết định cổ phần hoá. Quyết định cổ phần hoá được căn cứ vào các tiêu chí được Thủ tướng Chính phủ xét duyệt chặt chẽ (theo Quyết định ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN). Cổ phần hoá xong thì không còn tiêu chí để giảm hoặc tăng cổ phần nhà nước, thẩm quyền xem xét quyết định cũng “hạ cấp” giao cho Bộ, UBND cấp tỉnh. Rõ ràng, đây là một vấn đề cần phải giải quyết để có cơ sở để giám sát quyền lực, nhất là tới đây số lượng DN 100% vốn nhà nước sẽ giảm đi rất nhiều. Số DN có vốn nhà nước chi phối sẽ tăng lên nhiều, trong số này có nhiều DN lớn gồm TĐKT, TCT ở ngay trong các ngành, lĩnh vực quan trọng.

2.6. Thiếu cổ đông chiến lược

Vấn đề thường được đặt ra đối với DN CPH là khó tìm kiếm cổ đông chiến lược. Đó là những nhà đầu tư có khả năng khoả lấp một số tồn tại của DNNN trước CPH như yếu kém năng lực quản trị, điều hành, hoặc đem lại những đột phá cho DN phát triển về công nghệ, thị trường, v.v. DN thiếu cổ đông chiến lược do một số nguyên nhân:

- DN CPH theo cơ chế cũ (CPH nội bộ) có cổ phần phân tán, thiếu tập trung, thiếu cổ đông lớn. Trường hợp này xảy ra ở các DN CPH ở giai đoạn đầu, thời kỳ đầu CPH, với những DN quy mô nhỏ.

- Nhà nước giữ cổ phần chi phối nên sự chi phối, quyền lực và đặc điểm chi phối của cổ đông nhà nước tự nó đã ngăn cản sự tham gia của cổ đông chiến lược. Việc này xảy ra ở cả giai đoạn CPH sơ cấp và giai đoạn sau CPH. Khi nhà đầu tư chiến lược nhận thấy họ không có vị trí, không có tiếng nói tại DN họ đầu tư thì họ khó có thể tham gia để chia sẻ ý tưởng, phương pháp quản trị, hoạt động đầu tư, công nghệ… để tạo ra những thay đổi tầm chiến lược đối với DN.

- Thiếu cơ chế tìm kiếm, thu hút cổ đông chiến lược đối với DNNN sau CPH Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối, hoạt động không có đột phá. Đối với những DN này, chủ sở hữu phần vốn nhà nước chưa chủ động và năng động tìm kiếm cổ đông chiến lược để thay thế vai trò thụ động của cổ đông nhà nước.

- Việc bán vốn nhà nước với tỷ lệ % quá thấp so với vốn điều lệ (CPH lần đầu hoặc thoái vốn nhà nước) và bán theo phương thức đấu giá lẻ tẻ thay vì bán đấu giá cả lô cổ phần nên khó thu hút những nhà đầu tư lớn trong thời gian qua.



3. Một số khuyến nghị

(1) Đổi mới nhận thức về cổ phần hoá và tư nhân hoá

Ngành, lĩnh vực quan trọng, DNNN quan trọng (bất kể đó là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hay chi phối) đối với kinh tế nhà nước chỉ có tính thời gian, có tính giai đoạn. Khi có sự mở cửa, hội nhập, có sự cạnh tranh sòng phẳng và minh bạch giữa các khu vực kinh tế thì vai trò đó của kinh tế nhà nước, của DNNN buộc phải xem xét lại, có thể trở thành không quan trọng. Đối với những ngành, lĩnh vực hay những DNNN không quan trọng, trong bối cảnh nghị quyết của Đảng (Đại hội X, XI) coi kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế thì cần khẳng định đích cuối cùng của cổ phần hoá DNNN là tư nhân hoá - tức mọi sở hữu đối với vốn và tài sản của doanh nghiệp đều thuộc về tư nhân.

Nhà nước có chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người lao động ở giai đoạn bắt đầu cổ phần hoá (sơ cấp), nhưng Nhà nước cũng cần chấp nhận thực tế là việc giữ lại hay bán đi cổ phần là quyền của người lao động. Ở giai đoạn sau cổ phần hóa (thứ cấp) thì việc chuyển nhượng cổ phần hay thâu tóm cổ phần là thuộc quyền của các cổ đông, miễn là họ tuân thủ pháp luật và điều lệ, và không vi phạm các quy định về cạnh tranh và chống độc quyền.

Nguyên tắc quan trọng cần giữ là: trong từng giai đoạn, ở từng thời kỳ, một khi đã xác định được những ngành, lĩnh vực quan trọng, DNNN quan trọng (bất kể đó là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hay chi phối) thì sự tăng hay giảm tỷ lệ vốn nhà nước (vượt lên thành các mức này hay xuống dưới các mức này), cần được xem xét cẩn trọng ở cấp cao nhất, mà theo kinh nghiệm của nhiều nước là thuộc quyền quyết định của Quốc hội.



(2) Không nên chạy theo tiến độ CPH bằng mọi giá

Kế hoạch 2 năm 2014-2015 đưa ra phải CPH 432 DNNN. Năm 2014 đã CPH 143 DN. Số còn lại của năm 2015 là 289 DN, trong đó có khá nhiều TCT, kể cả TĐKT. Số DN CPH bình quân 1 năm giai đoạn 2011-2012, 2011-2013, 2011-2014 lần lượt là 12 DN, 33 DN, 60 DN. Trong khi số DN CPH năm 2015 là 289 DN, cao hơn rất nhiều so với bình quân năm ở các giai đoạn này. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái và mới dần chuyển sang phục hồi thì kế hoạch CPH này là rất tham vọng cả về con số DN CPH và tiến độ thực hiện.



Số DN cổ phần hoá bình quân năm

Giai

đoạn

2011-

2012







12




Giai

đoạn

2011-

2013







33




Giai

đoạn

2011-

2014







60




Kế

hoạch

năm

2015







289




Có một số lý do để có thể xem xét lại kế hoạch và tiến độ CPH năm 2015. Một là, số lượng DN đưa vào kế hoạch CPH năm 2015 cao hơn rất nhiều so với trung bình hàng năm của giai đoạn 2011-2014 khi kinh tế suy thoái mạnh và chỉ mới bắt đầu phục hồi chậm. Nhìn từ số liệu DN CPH trong 3 năm 2011-2013 cho thấy kinh tế suy giảm sâu đã ảnh hưởng rất lớn đến cầu của nền kinh tế, từ đó có ảnh hưởng đến lượng cổ phần IPO hay bán ra được từ các DN CPH. Trong bối cảnh đó, việc CPH là không thật có lợi nhìn từ phía cung là DNNN và Nhà nước. Hai là, CPH trong bối cảnh tái cơ cấu đòi hỏi tiến hành tái cơ cấu DN trước – một giai đoạn cần thiết trước khi CPH. Cần dành thời gian cho tái cơ cấu DN thay vì chạy theo tiến độ, hoàn thành CPH ngay. Ba là, điều quan trọng đối với DN CPH không phải chỉ là hoàn thành CPH, đăng ký DN thành công ty cổ phần, mà chủ yếu ở việc cải thiện quản trị DN, hiện đại hoá DN để tăng sức cạnh tranh. Điều này cũng cần có nhiều thời gian hơn.

(3) Cần xây dựng luật về CPH DNNN

Việc này lẽ ra phải tiến hành từ lâu, vì CPH DNNN là vấn đề lớn, làm thay đổi sở hữu nhà nước tại DNNN, thay đổi vị trí của kinh tế nhà nước trong phạm vi ngành và nền kinh tế.

Đối với một số nước, việc tăng, giảm vốn nhà nước vượt quá hoặc thấp dưới tỷ lệ tối thiểu do Quốc hội quy định và phê chuẩn (Thuỵ Điển, Phần Lan). Có nước ban hành đạo luật tạo khung khổ chung cho các hoạt động tư nhân hoá (CPH), quy định quyền hạn của Chính phủ trong thực hiện các hoạt động tư nhân hoá DNNN (như Pháp).

Ở nước ta trong hơn 20 năm qua, CPH chỉ thực hiện theo các văn bản quy phạm pháp luật (nghị định, nghị quyết, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các thông tư của các bộ, ngành), chưa có đạo luật quy định khung hay quy định chi tiết về CPH DNNN.

Trong khi đó, việc đầu tư, sử dụng vốn thành lập, tổ chức, quản lý DNNN hay DN có vốn nhà nước đã được quy định trong một số luật ban hành kể cả trước kia và gần đây. Cụ thể, việc đầu tư, sử dụng vốn nhà nước đã được chế định trong Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào SXKD tại DN (năm 2014); việc tổ chức, quản lý DN 100% vốn nhà nước - trong Luật DNNN (năm 1995, 2003), Luật DN (năm 1999, 2005, 2014); việc phá sản DNNN và DN có vốn nhà nước - trong Luật phá sản (năm 1993, 2004). Nhưng ngược lại, việc CPH hay thoái vốn nhà nước – những hoạt động thoái đầu tư cần xử lý nhiều vấn đề, liên quan đến vốn, tài sản, cán bộ quản lý, người lao động…, đối diện với những rủi ro, thất thoát vốn, tài sản nhà nước, có thể ảnh hưởng đến khu vực kinh tế nhà nước, ngành, lĩnh vực chiến lược… lại chưa có luật quy định. Đây có thể coi là một nghịch lý.

Vì vậy, việc ban hành luật về CPH DNNN là cần thiết để tạo nền tảng pháp lý cao hơn, vững chắc hơn cho CPH những DN quy mô lớn, các DN quan trọng, DN trong các ngành đặc thù liên quan đến đất đai như nông lâm trường, an ninh, quốc phòng, và thực hiện thoái vốn nhà nước tại các DN.



(4) Thay đổi quan điểm và cách tiếp cận CPH trong tái cơ cấu DNNN

Cách tiếp cận cơ cấu lại DNNN và CPH là chuyển mạnh sang áp dụng các biện pháp tái cấu trúc có tính thị trường nhưng cũng nên sử dụng quyền lực của chủ sở hữu một cách đúng đắn và minh triết. Đó là, thực hiện các biện pháp tạo lập, kích thích, nuôi dưỡng, phát triển những yếu tố thị trường trong loại bỏ hay tiếp tục duy trì DNNN. Đồng thời, tạo sức ép hành chính đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu, CPH.

Quan điểm về CPH không phải chỉ để chuyển DNNN thành công ty cổ phần, kết thúc ở đăng ký là DN cổ phần, mà là một quá trình. CPH vẫn còn tiếp diễn sau CPH bao gồm cả thoái vốn nhà nước, cải thiện QTDN, hiện đại hoá công ty cổ phần. Dựa trên quan điểm phát triển DN, mục tiêu CPH là để thực hiện chế độ công ty ở DNNN sau CPH.

(5) Cổ phần hoá DNNN quy mô lớn, TĐKT, TCT

Đối với các DNNN quy mô lớn như TĐKT, TCT hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, việc cổ phần hóa cần phải có sự lựa chọn và các bước đi phù hợp với điều kiện của đất nước cũng như định hướng phát triển kinh tế của Đảng. Việc cổ phần hóa không thể thực hiện ồ ạt ngay từ thời điểm cổ phần hóa mà phải được tiến hành theo nhiều giai đoạn phù hợp với kế hoạch và lộ trình giảm dần tỷ lệ vốn nhà nước. Hay nói cách khác, cần có những hướng dẫn cụ thể và các bước triển khai thận trọng khi cổ phần hóa các DNNN quy mô lớn, tổng công ty hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng.



(6) Về tìm kiếm, thu hút, lựa chọn cổ đông chiến lược

Tiêu chí để chọn cổ đông chiến lược cần nhìn từ 2 phía: từ nhà đầu tư và từ DN CPH. Từ phía nhà đầu tư, đó là những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, những nhà đầu tư thực sự quan tâm phát triển lâu dài đối với các DN này, họ có khả năng công nghệ, thị trường, có kinh nghiệm, đáp ứng những nh cầu phát triển DN sau CPH. Từ phía DN CPH, quan điểm chung là việc tham gia của nhà đầu tư chiến lược vào DN sau CPH là cần, nhưng vấn đề cần xem xét là nhà đầu tư chiến lược cần ở đâu, ở những DN nào, khi nào. Không phải mọi DN sau CPH đều cần có và cần tìm nhà đầu tư chiến lược. Cổ đông chiến lược cần ở những DN và khi những DN đó có vấn đề về chiến lược, thị trường, công nghệ, cần cải thiện QTDN, cần tạo ra động lực mới và mạnh hơn cho sự phát triển.

Nhìn từ cách tiếp cận thúc đẩy tiến độ CPH, những DN đang hoạt động tốt, hoạt động có hiệu quả, nếu không tìm được ngay cổ đông chiến lược thì cứ tiến hành CPH, sau đó sẽ thoái vốn nhà nước tiếp hoặc phát hành thêm cổ phiếu để tìm nhà đầu tư chiến lược. CPH vẫn hơn không tiến hành CPH. Vì CPH là chuyển sang chế độ công ty (nhưng phải đi kèm với cải thiện QTDN theo thông lệ, theo hướng hiện đại sau CPH), tách bạch được DN với chủ sở hữu, chủ sở hữu đứng ngoài DN, tăng cường minh bạch, công khai và đi kèm tăng cường giám sát. Khi đó DN được quản lý, điều hành bởi HĐQT độc lập hơn58 với các chủ sở hữu, thay vì cơ quan nhà nước thường xuyên can thiệp vào DN như trước CPH. Cũng vì vậy nên cần thúc đẩy CPH. Nếu không CPH, dù có chuyển sang Cty TNHH 1 thành viên theo Luật DN thay cho công ty nhà nước hoạt động theo Luật DNNN, thì vẫn không có được chế độ công ty, không có được các công ty hiện đại. Kinh nghiệm hơn 10 năm chuyển DNNN hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên (từ năm 2001) khi có Nghị định 63/2001/NĐ-CP về chuyển DNNN sang loại công ty này cho thấy điều đó.

(7) Thoái vốn đầu tư ngoài ngành

Cần xem xét điều chỉnh lại cách thức thoái vốn đầu tư ngoài ngành hiện nay để thực hiện theo một số nguyên tắc sau:



  • Nhà nước chỉ nên đưa ra chủ trương thoái vốn đầu tư ngoài ngành và đưa ra một số nguyên tắc chung căn cứ vào đó để DN áp dụng. Nhà nước không nên quy định cụ thể tỷ lệ % thoái vốn vì như vậy là can thiệp sâu vào DN, trái với nguyên tắc thị trường và thể chế thị trường chúng ta đang xây dựng và hướng tới.

  • Nhà nước chỉ hành xử trên tư cách và với tâm thế của nhà đầu tư, cổ đông nhà nước, thực hiện quyền của nhà đầu tư, cổ đông nhà nước không phải với tư cách cơ quan quản lý nhà nước. Không nên chuyển tải ý chí Nhà nước bằng các quy định có tính quy phạm pháp luật có hiệu lực chung.

  • Thoái vốn đầu tư ngoài ngành cần căn cứ đặc điểm của từng DN: chủ yếu là hiệu quả đầu tư trong và ngoài ngành; tiềm lực tài chính DN; triển vọng ngành kinh doanh chính; sản phần ngành kinh doanh chính ở giai đoạn nào, nếu ở giai đoạn thoái trào thì cần xem lại chính sách thoái vốn ngoài ngành kinh doanh chính, để chuyển sang đầu tư ngành kinh doanh chính mới triển vọng hơn.

  • Đối với DN đang kinh doanh có hiệu quả ở cả ngành kinh doanh chính và ngoài ngành kinh doanh chính thì quyền quyết định thoái vốn đầu tư ngoài ngành cần trao cho bộ máy quản trị, điều hành của DN căn cứ theo tín hiệu thị trường.

  • Áp dụng những nguyên tắc trên cho cả DN CPH có vốn nhà nước chi phối thông qua quyền lực của cổ đông chi phối tại DN mà trực tiếp là người đại diện phần vốn tại DN.



CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA 2011-2015:

ĐIỀU CHỈNH ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH

TS. Vũ Như Thăng

Viện trưởng, Viện CL&CSTC

1. Tổng quan chính sách tài khóa giai đoạn 2011-2015:

Giai đoạn 2011-2015, chính sách tài khóa đã được điều chỉnh theo hướng thắt chặt chi tiêu, cơ cấu lại các khoản chi, đặc biệt là chi đầu tư công. Trong khi đó, chính sách thuế được thực hiện theo hướng miễn, giảm, gia hạn một số sắc thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Chính sách tài khóa trong thời gian qua đã có tác động như thế nào đến cân đối ngân sách nhà nước (NSNN), đến đầu tư và khu vực sản xuất kinh doanh. Bài viết này sẽ cố gắng tìm câu trả lời cho các vấn đề trên.

Thực hiện chủ trương thắt chặt chi tiêu công, giai đoạn 2011-2015, chi thường xuyên mặc dù vẫn có xu hướng tăng nhưng được kiểm soát theo hướng không tăng chi cho các chính sách mới mà chỉ tăng do tăng quy mô các khoản chi và tăng chi nhằm đảm bảo an sinh xã hội trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Tốc độ tăng chi thường xuyên sau khi tăng từ 24% năm 2011 lên 29% năm 2012 đã giảm xuống còn 15% năm 2013. Ước thực hiện năm 2014, chi thường xuyên tăng 4% so với năm 2013, dự toán năm 2015 tăng 8% so với ước thực hiện năm 2014. Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương tái cơ cấu đầu tư công và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP), tốc độ tăng chi đầu tư từ NSNN cũng đã giảm mạnh trong giai đoạn này. Sau khi tăng 29% năm 2012, sang năm 2013 chi đầu tư từ NSNN giảm 20% so với năm 2012, sau đó giảm tiếp 21% năm 2014, tuy nhiên dự toán năm 2015 tăng 15% so với ước thực hiện năm 2014. Tính chung, tổng chi NSNN năm 2011 và 2012 tăng lần lượt 21% và 24%, sau đó tốc độ tăng chi giảm dần ở mức 3% năm 2013, 6% năm 2014 và dự kiến 7% năm 2015.

Hình 1. Tốc độ tăng thu – chi NSNN và tỷ lệ bội chi NSNN so GDP (%)



Nguồn: Bộ Tài chính

Mặc dù tốc độ tăng chi NSNN giảm dần nhưng số liệu ngân sách cho thấy, trong giai đoạn 2011-2015, quy mô thâm hụt NSNN vẫn ngày càng lớn với tốc độ tăng bội chi năm 2012 lên tới 55% so với năm 2011, tương ứng với mức bội chi tăng từ 4,4% GDP năm 2011 lên 5,36% GDP năm 2012, vượt xa mức dự toán là 4,8% GDP. Mặc dù năm 2013 và 2014 tốc độ tăng bội chi giảm mạnh tương ứng xuống còn 9% và 18%, nhưng do quy mô bội chi lớn nên mức bội chi của 2 năm này vẫn chiếm đến 5,3% GDP. Năm 2015, căn cứ tình hình kinh tế vĩ mô có dấu hiệu khả quan, Quốc hội đã thông qua dự toán ngân sách năm 2015 với mức bội chi giảm xuống còn 5% GDP, tuy nhiên vẫn vượt khá xa mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015 và Chiến lược tài chính đến năm 2020 là dưới 4,5% GDP (tính cả TPCP). Như vậy, mặc dù chi NSNN đã từng bước được thắt chặt, tốc độ tăng chi giảm dần, thậm chí quy mô chi đầu tư giảm cả về số tuyệt đối nhưng thâm hụt ngân sách vẫn liên tục xảy ra và ở mức cao so với mục tiêu đặt ra.

Diễn biến chính sách tài khóa giai đoạn 2011-2015 cho thấy một số vấn đề sau:

Một là, thâm hụt ngân sách mở rộng do giảm tỷ lệ động viên vào NSNN để hỗ trợ thị trường. Trong giai đoạn 2011-2014, do nền kinh tế còn nhiều khó khăn, Quốc hội, Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách giảm tỷ lệ động viên vào NSNN nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường thông qua các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thời gian nộp thuế59. Theo đó, đã giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông từ 25% xuống 22% áp dụng từ ngày 01/01/201460, bổ sung ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng thuộc lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi; nâng mức giảm trừ gia cảnh đối với cá nhân người nộp thuế và người phụ thuộc từ ngày 01/7/201361; bổ sung nhiều nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT từ ngày 01/01/2014 và giảm mức thuế suất đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ liên quan đến nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá rẻ từ ngày 01/7/201362; miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, thủy lợi phí… Đồng thời, đã thực hiện gia hạn thời gian nộp thuế TNDN, thuế GTGT đối với một số doanh nghiệp63; giảm 30% số thuế TNDN phải nộp năm 2012 đối với một số doanh nghiệp64; miễn thuế khoán (thuế GTGT, thuế TNCN) và thuế TNDN năm 2012 đối với một số đối tượng65; miễn thuế TNCN từ ngày 01/7/2012 đến hết ngày 31/12/2012 đối với một số đối tượng66; giảm, gia hạn nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối… Gần đây, để tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, trong đó mở rộng ưu đãi thuế TNDN, miễn/điều chỉnh phương thức xác định một số khoản thuế TNCN, thuế GTGT… theo hướng tạo thuận lợi cho người nộp thuế. Ước tính tổng số thuế hỗ trợ cá nhân, doanh nghiệp năm 2015 khoảng 3.900 - 4.000 tỷ đồng và mỗi năm tăng chi khoảng 1.300 tỷ đồng từ Quỹ hoàn thuế để thực hiện hoàn thuế GTGT. Dự kiến cả giai đoạn 2011-2015, tổng các khoản giảm thu ngân sách do các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế khoảng 85.000 tỷ đồng. Xét về bản chất, đây chính là việc bổ sung vốn (đối với trường hợp miễn, giảm thuế) và cho các doanh nghiệp sử dụng vốn trong thời gian nhất định (đối với trường hợp gia hạn thời hạn nộp thuế)67 không tính lãi, qua đó giảm bớt một phần khó khăn về vốn và tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp từng bước phục hồi và phát triển sản xuất - kinh doanh.

Kết quả thực hiện các chính sách trên đã làm giảm tỷ lệ động viên từ thuế, phí, lệ phí so với GDP từ 26% bình quân giai đoạn 2006-2010 xuống còn 23% bình quân giai đoạn 2011-2014, trong đó tỷ lệ động viên giảm tương đối nhanh từ 25% năm 2011 xuống 21% năm 2014 và 2015. Điều này lý giải cho việc mặc dù chính sách thắt chặt chi tiêu đã đạt được những kết quả tích cực nhưng thâm hụt ngân sách vẫn đang diễn ra với quy mô lớn, song đạt được mục tiêu ưu tiên chính sách trong giai đoạn này là tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Chính sách tài khóa đã chuyển từ trực tiếp sử dụng NSNN để đầu tư vào nền kinh tế sang gián tiếp thúc đẩy đầu tư của khu vực doanh nghiệp thông qua các biện pháp giảm tỷ lệ động viên vào ngân sách, qua đó tăng tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân.



Hai là, cơ cấu lại chi đầu tư song song với khuyến khích đầu tư tư nhân. Giai đoạn 2001-2010, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư68, tỷ trọng vốn đầu tư so GDP bình quân cả giai đoạn là 38,7%, trong đó vốn đầu tư từ khu vực kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Mặc dù mô hình tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư còn nhiều vấn đề cần bàn và đang được nghiên cứu chuyển đổi, song thực tế trong thời gian qua, vốn đầu tư từ NSNN nói riêng và từ khu vực kinh tế Nhà nước nói chung đã có nhiều đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Bình quân giai đoạn 2001-2010, vốn đầu tư từ khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 46% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó vốn đầu tư từ NSNN chiếm 23,4%, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chiếm 11%, vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và vốn khác chiếm 11,6%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm bình quân 20,3% và vốn đầu tư từ dân cư và khu vực tư nhân chiếm bình quân 33,7% trong cùng giai đoạn.

Giai đoạn 2011-2015, thực hiện chủ trương tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công, tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so GDP đã giảm từ 38,7% giai đoạn 2001-2010 xuống còn 33,3% năm 2011, sau đó giảm tiếp xuống còn khoảng 30-31% giai đoạn 2012-2015. Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế Nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011-2014 cũng giảm xuống còn 40%, trong đó tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN giảm xuống 19%, dự kiến năm 2015 tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế Nhà nước nói chung và từ NSNN nói riêng lần lượt là 37,6% và 14,5%. Trong khi đó, việc huy động vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước đã thu được kết quả nhiều hơn69, tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng tương ứng lên mức bình quân 38,5% và 22% giai đoạn 2011-2015.



Hình 2. Tỷ trọng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (%)



Nguồn: Tổng cục Thống kê

Không chỉ giảm về tỷ trọng và tốc độ tăng của vốn đầu tư công, chính sách tái cơ cấu đầu tư cũng đã định hình lại các lĩnh vực Nhà nước ưu tiên đầu tư, đó là tập trung vào các dự án quan trọng quốc gia, các dự án khó có khả năng thu hồi vốn, các dự án mà khu vực tư nhân không thể và không muốn làm, hạn chế tối đa tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả, đồng thời khuyến khích đầu tư tư nhân ở những lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn. Định hướng này cũng đã được thể chế hóa trong Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp mới được kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII thông qua. Theo đó, nguyên tắc đầu tư vốn nhà nước là để hình thành doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực như doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế. Bên cạnh đó, mức vốn bố trí cho từng dự án cũng được nâng lên để đảm bảo tính khả thi của dự án, khắc phục tình trạng công trình xây dựng dở dang do thiếu vốn dẫn đến lãng phí nguồn lực xã hội. Mức vốn bình quân một dự án đã tăng từ 9,54 tỷ đồng năm 2012 lên 10,68 tỷ đồng năm 2013 và 11,04 tỷ đồng năm 201470.



Như vậy có thể thấy một mặt việc áp dụng các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế đã có tác động tích cực đến tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân, mặt khác việc cơ cấu lại đầu tư công, tập trung vào những dự án trọng điểm có tầm quan trọng, có tác động lan tỏa thay thế cho cơ chế đầu tư dàn trải, phân tán trước đây đã góp phần đưa nguồn vốn NSNN trở thành “vốn mồi”, kích thích các nguồn vốn khác trong nền kinh tế và hạn chế tình trạng lấn át đầu tư tư nhân.

Ba là, chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước cũng được điều chỉnh theo hướng thu hẹp phạm vi cho vay, tập trung vào những dự án trọng điểm. Hiện nay, chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động cho vay của Ngân hàng Phát triển (NHPT) Việt Nam và các Quỹ đầu tư phát triển (ĐTPT) địa phương. Chính sách tín dụng đầu tư qua NHPT Việt Nam được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước với đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư đã được thu hẹp lại so với quy định trước đó tại Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008 xét về cả lĩnh vực và quy mô đầu tư. Về lĩnh vực, sau khi Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ra đời thì các dự án đầu tư cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung; dự án sản xuất Alumin, sản xuất nhôm kim loại, sản xuất động cơ diezen; dự án đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa; dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm không còn thuộc đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước. Về quy mô, nếu như trước đây các dự án không phân biệt quy mô đều thuộc phạm vi được vay vốn thì theo Nghị định số 75/2011/NĐ-CP, phạm vi cho vay tín dụng đầu tư tập trung chủ yếu các dự án trọng điểm nhóm A, nhóm B. Như vậy, nằm trong chủ trương chung về tái cơ cấu đầu tư công, chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước thực hiện qua NHPT Việt Nam cũng được thực hiện theo hướng thu hẹp phạm vi cho vay nhưng tăng quy mô cho vay vào các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng mang tính trọng điểm. Hiện nay, Chính phủ cũng đang xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 75/2011/NĐ-CP theo hướng thu hẹp phạm vi cho vay đối với một số lĩnh vực không cần khuyến khích71 đồng thời bổ sung một số lĩnh vực ưu tiên cho giai đoạn tới72. Tính đến tháng 9/2014, tổng dư nợ tín dụng đầu tư của NHPT Việt Nam đạt xấp xỉ 120.000 tỷ đồng, trong đó vốn dành cho các dự án phát triển giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương đạt gần 20.000 tỷ đồng (chiếm 17% tổng dư nợ), số vốn vay theo hợp đồng tín dụng đã ký của các dự án đầu tư lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội khoảng 14.000 tỷ đồng; dư nợ gần 5.000 tỷ đồng (chiếm 4% tổng dư nợ). Như vậy tổng số dư nợ cho vay dự án đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội tại NHPT Việt Nam chiếm xấp xỉ 20% tổng dư nợ tín dụng đầu tư. Ngoài ra, thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao, NHPT Việt Nam còn thực hiện cho vay Dự án Đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với số vốn đã ký hợp đồng tín dụng là 21.600 tỷ đồng, dư nợ đạt 14.000 tỷ đồng73.

Bốn là, hiện tượng lấn át tài chính từ huy động trái phiếu Chính phủ (TPCP). Trong những năm qua, chủ trương giảm động viên từ thuế, phí vào NSNN nhằm hỗ trợ thị trường, thúc đẩy sản xuất kinh doanh đã làm hạn chế nguồn thu ngân sách, trong khi đó nền kinh tế còn nhiều khó khăn, nhu cầu chi cho an sinh xã hội ngày càng tăng, đầu tư tư nhân còn yếu đòi hỏi vẫn cần nguồn lực từ khu vực Nhà nước để hỗ trợ tăng trưởng. Trong bối cảnh đó, nhu cầu phát hành TPCP để bù đắp bội chi và đầu tư cho các công trình giao thông, thủy lợi, y tế… là rất lớn. Theo Nghị quyết số 12/2011/QH13 ngày 09/11/2011 của Quốc hội, tổng mức đầu tư bằng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2011-2015 là 225.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, do thực hiện các chính sách miễn giảm thuế, nguồn thu bị thu hẹp trong khi nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển lớn nên Quốc hội đã quyết định phát hành bổ sung vốn TPCP giai đoạn 2014-2016 là 170.000 tỷ đồng74. Ước tính giai đoạn 2011-2015, khối lượng TPCP phát hành cho đầu tư là 335.000 tỷ đồng75, gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2006-2010. Điều đáng chú ý là mặc dù khối lượng TPCP phát hành tăng nhanh qua các năm nhưng lãi suất lại có xu hướng giảm. Mức lãi suất trái phiếu huy động bình quân năm 2012 là 9,8%/năm giảm xuống còn 7,79%/năm năm 2013 và 6,62%/năm năm 2014. Điều này một mặt do xu hướng điều chỉnh lãi suất trên thị trường tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, mặt khác phản ánh khả năng hấp thụ nguồn vốn tín dụng của nền kinh tế thấp nên các tổ chức tín dụng đã tích cực tham gia vào thị trường trái phiếu dẫn đến giảm mức lãi suất huy động76. Tuy nhiên, với khả năng tăng trưởng kinh tế khả quan hơn trong năm 2015, đồng thời với nhu cầu phát hành TPCP tăng cao và mục tiêu của Quốc hội là huy động TPCP với kỳ hạn dài hơn77 thì dự báo việc huy động TPCP sẽ có những thách thức nhất định trong thời gian tới, đặc biệt là chi phí huy động vốn.

Năm là, nợ công tăng cao đặt ra vấn đề về an toàn nợ công. Nguồn thu giảm nhưng nhu cầu chi không ngừng tăng lên khiến thâm hụt ngân sách vẫn tiếp diễn trong thời gian qua dẫn đến nhu cầu vay nợ để bù đắp bội chi ngày càng lớn. Bên cạnh đó, ngoài mục đích bù đắp bội chi, phát hành TPCP còn để đầu tư các công trình giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục… nhưng không đưa vào cân đối ngân sách. Tuy nhiên, các khoản nợ từ phát hành TPCP cho đầu tư này vẫn được tính vào mức dư nợ Chính phủ và vì thế, việc phát hành TPCP tăng nhanh trong giai đoạn 2011-2014 đã tác động đến mức dư nợ Chính phủ và đặt ra vấn đề về an toàn nợ công.

Trong cơ cấu nợ công thì nợ Chính phủ đang chiếm tỷ trọng lớn nhất và có tỷ lệ tương đối cao so với một số nước trong khu vực78 với tỷ trọng dư nợ Chính phủ trong tổng nợ công giai đoạn 2011-2015 khoảng 78%. Trong những năm gần đây, tỷ lệ nợ công so GDP tăng nhanh, từ 51,7% GDP năm 2010 lên 59,3% GDP năm 2014. Tốc độ tăng nợ công trung bình giai đoạn 2011-2014 là 21%/năm, trong khi tốc độ tăng thu NSNN trung bình cùng kỳ là 9,7%/năm. Với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và dự toán NSNN năm 2015 đã được Quốc hội thông qua thì dự kiến nợ công đến cuối năm 2015 khoảng 2.869 nghìn tỷ đồng, bằng 64% GDP; dư nợ Chính phủ khoảng 48,9% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,6% GDP. Tuy mức nợ công vẫn trong giới hạn Quốc hội cho phép79 nhưng là mức tương đối cao so với một số nước đang phát triển và mới nổi80. Bên cạnh đó, nghĩa vụ trả nợ Chính phủ hàng năm tăng mạnh81 trong khi việc sử dụng nguồn vốn vay kém hiệu quả đã và đang đặt ra vấn đề về cân đối nguồn để trả nợ, từ đó ảnh hưởng đến an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia.



Hình 3. Tổng thu - chi NSNN và nợ công so GDP giai đoạn 2010-2015 (%)



Nguồn: Bộ Tài chính

2. Định hướng chính sách tài khóa trong thời gian tới

Trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị trong nước và thế giới còn nhiều khó khăn, kinh tế thế giới vẫn tăng trưởng chậm, kinh tế châu Âu chưa phục hồi, xung đột địa chính trị ở một số khu vực, đặc biệt giá dầu thế giới giảm là một thách thức lớn cho Việt Nam trong điều hành chính sách tài khóa. Hiện nay, không gian chính sách tài khóa đã chật hẹp, chi NSNN đã ở mức cao, các chính sách miễn, giảm thuế đã được thực hiện trên diện rộng, bội chi đã vượt mục tiêu đề ra, nợ công cũng tiệm cận mức trần Quốc hội cho phép. Vì vậy, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì trong thời gian tới cần phải dựa vào các chính sách khác để phát triển bền vững như chính sách tiền tệ, tín dụng; chính sách điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu để phát triển nền sản xuất có khả năng cạnh tranh cao; bên cạnh đó cần có biện pháp huy động các nguồn lực của khu vực tư nhân và nguồn tiết kiệm trong dân cư để phát triển kinh tế. Trong chính sách tài khóa cần chú ý một số vấn đề sau:



Một là, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, cơ cấu lại các khoản chi bao gồm cả chi đầu tư và chi thường xuyên; không ban hành các chính sách mới làm tăng chi hoặc giảm thu ngân sách. Trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng những hỗ trợ từ phía Nhà nước liên quan đến chính sách thuế đã được mở rộng trong mấy năm qua, việc tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp thông qua cắt giảm thuế là khó thực hiện. Do đó, chính sách hỗ trợ nên chuyển sang hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thông qua cải cách thủ tục hành chính, giúp tiết kiệm chi phí cho việc tuân thủ chính sách thuế.

Hai là, thực hiện khuôn khổ chi tiêu trung hạn và kế hoạch đầu tư công trung hạn. Nâng cao chất lượng công tác dự báo thu, khắc phục tình trạng chi vượt dự toán. Thực hiện tốt kỷ luật tài khóa.

Ba là, theo dõi chặt chẽ diễn biến giá dầu thế giới để có các điều chỉnh chính sách thích hợp. Thực hiện tốt công tác thu ngân sách, đôn đốc công tác thu nợ, tăng thu nội địa để bù đắp giảm thu ngân sách từ dầu thô và thu từ xuất nhập khẩu. Về trung và dài hạn cần rà soát các chính sách thu, nghiên cứu ban hành các chính sách thu nội địa khác như thuế tài sản/thuế bất động sản để giảm sự phụ thuộc của NSNN vào nguồn thu từ dầu, tăng cường sự bền vững của thu ngân sách.

Bốn là, đẩy nhanh việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 và Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014. Qua đó từng bước điều chỉnh cơ chế giá dịch vụ sự nghiệp công cũng như cơ chế phân bổ ngân sách cho khu vực sự nghiệp công, tăng cường tính tự chủ của khu vực này để cơ cấu lại chi NSNN, chuyển từ cơ chế bao cấp cho đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng thuộc diện chính sách để đảm bảo cơ hội tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công cho người nghèo…

Năm là, đẩy mạnh hợp tác công - tư theo Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015, thu hút các nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng để hỗ trợ xu hướng giảm của đầu tư công do thu ngân sách giảm, đồng thời chia sẻ gánh nặng về vốn và rủi ro giữa khu vực công và khu vực tư, nâng cao tính hiệu quả và chất lượng của các dự án đầu tư.

Sáu là, xu hướng giảm lãi suất huy động trên thị trường vốn trong nước và việc nâng cao tín nhiệm quốc gia trên thị trường vốn quốc tế là điều kiện thuận lợi cho việc cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng tăng kỳ hạn và giảm lãi suất TPCP, góp phần tăng tính an toàn và bền vững nợ công./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính, Quyết toán ngân sách các năm. Truy cập từ www.mof.gov.vn

2. Bộ Tài chính, Báo cáo hội nghị tổng kết ngành các năm.

3. Chính phủ (2014), Tờ trình số 423/TTr-CP ngày 17/10/2014 về dự án “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các luật về thuế”, Tài liệu phục vụ kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII.

4. Đinh Hiền Minh (2010), “Vượt qua mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư”. Truy cập từ http://www.vnep.org.vn/

5. Mai Thị Thu và cộng sự (2013), “Phương thức đối tác công - tư (PPP): Kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam”, Nhà xuất bản Tri thức, 2013.

6. Nguyễn Thành Đô (2014), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Xây dựng quy trình kiểm soát và hệ thống cảnh báo rủi ro đối với danh mục nợ công”.

7. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2014), “Tín dụng đầu tư cho dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội”, Đặc san “Tài trợ dự án”, Số 13, Quý III/2014.

8. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2014), Báo cáo giám sát số 760/BC-UBTVQH13 ngày 27/10/2014 về việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, DNNN và hệ thống ngân hàng.

9. Vũ Nhữ Thăng (2014), “Chính sách tài khóa: Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới”, tham luận tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân, Hạ Long, 2014.

10. Website:

http://www.nationaldebtclocks.org/

http://www.gso.gov.vn


Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 3.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương