2) Thực hiện mô hình công nghiệp hóa kết hợp giữa thay thế nhập khẩu với
hướng vào xuất khẩu và hướng tới công nghệ cao- Kinh nghiệm của các NICs
Các nước và vùng lãnh thổ Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, và Xinh-ga-po được gọi là
các nước công nghiệp mới (NICs) thuộc thế hệ thứ nhất ở Châu Á đã tạo nên những
nền công nghiệp tăng trưởng nhanh chưa từng thấy trong lịch sử. Thời gian để hoàn
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
thành quá trình công nghiệp hóa tại các quốc gia và lãnh thổ này chỉ mất khoảng 30
năm.
Ngược dòng lịch sử, vào những năm trước 1960 các nước NICs cũng là những nước
nông nghiệp, với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm tới 75% lao động và trên 30%
GDP. Tuy có những điểm khác nhau, nhưng tất cả các nước đều có điểm chung là thực
hiện kết hợp và chuyển đổi giữa các mô hình CNH thay thế nhập khẩu, CNH hướng về
xuất khẩu, và CNH hướng tới công nghệ cao phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đặt ra
trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Điều đó đã tạo nên thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa tại các nước này. Bài học thành công này của ASEAN đã cung cấp những
kinh nghiệm quý báu cho các nước đi sau để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa của
mình.
Bước đi của các NICs là trong giai đoạn đầu, họ thực hiện mô hình CNH thay thế nhập
khẩu- CNH hướng nội (đây cũng là mô hình được áp dụng phổ biến tại nhiều nước vào
những năm giữa thế kỷ XX về trước). Mô hình này đã giúp cho các nước giải quyết
được các vấn đề về vốn và kỹ thuật để phát triển một số ngành công nghiệp và đáp
ứng nhu cầu cơ bản của dân chúng về việc làm và thu nhập… Đến cuối thập niên 1960,
với xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, mô hình CNH thay thế nhập khẩu đã bộc
lộ những hạn chế, thì các NICs đã bắt đầu chuyển sang thực hiện mô hình CNH hướng
vào xuất khẩu (CNH hướng ngoại), mà Xinh-ga-po là nước đầu tiên trong nhóm thực
hiện bước chuyển này. Mục tiêu mô hình này là khai thác lợi thế về nguồn lao động và
tài nguyên dồi dào, giá rẻ để xuất khẩu, tạo nguồn vốn tích lũy cho phát triển công
nghiệp. Còn từ giữa thập niên 1990 đến nay, NICs đã chuyển sang mô hình CNH hướng
tới công nghệ cao, bằng việc tập trung phát triển các ngành có hàm lượng khoa học
cao như: sản xuất xe hơi, máy công cụ, máy kỹ thuật số, người máy…, làm đầu tàu cho
tăng trưởng.
Bài học kinh nghiệm quan trọng nhất của NICs đối với các nước đi sau là ở chỗ biết kết
hợp khéo léo, thay thế lẫn nhau giữa các mô hình CNH bằng chính sách bổ sung lẫn
nhau giữa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, trong đó hướng về xuất khẩu là
trọng tâm. CNH đi từ bước nhỏ đến bước lớn, từ điểm đến tuyến rồi đến diện, từ thị
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
trường trong nước đến thị trường khu vực rồi thị trường thế giới, từ công nghệ có hàm
lượng lao động cao đến công nghệ có hàm lượng vốn và khoa học cao. CNH kết hợp
giữa thay thế nhập khẩu, hướng vào xuất khẩu và hướng tới công nghệ cao được thực
hiện bằng các bước đi lần lượt theo một trình tự có tính chu kỳ là: bắt đầu từ nhập
khẩu, đến thay thế nhập khẩu, rồi xuất khẩu
(1)
. Các quá trình này được diễn ra theo
cách thay thế liên tục cho nhau, với trình độ kỹ thuật – công nghệ chu kỳ sau cao hơn
chu kỳ trước. Cụ thể là, đầu tiên các nước này thực hiện xuất khẩu các sản phẩm
truyền thống của nền kinh tế nông nghiệp như lương thực, thực phẩm thô (bước 1);
tiếp đến là tự sản xuất các sản phẩm vốn trước đó phải nhập khẩu như quần áo, giày
dép và các hàng hóa tiêu dùng thông dụng khác (bước 2); đến xuất khẩu các sản phẩm
chế biến có nguồn gốc từ nông nghiệp như giấy, đồ gồ, dệt may, mía đường... (bước
3); sau đó đến sản xuất hàng công nghiệp chế tạo lâu bền để thay thế nhập khẩu như
máy móc, dụng cụ... (bước 4); và cuối cùng là xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo
cao cấp như tivi, tủ lạnh, xe hơi, phần mềm... (bước 5). Tại Hàn Quốc và Đài Loan, quá
trình chuyển từ bước 1 sang bước 2 diễn ra vào khoảng những năm 1950 – 1960; bước
3 vào đầu thập niên 1960 – 1970; bước 4 bắt đầu từ nửa cuối của thập niên 1970; và
bước 5 là từ những năm cuối 1980 đầu 1990.
Việc kết hợp, thay thế lẫn nhau giữa các mô hình CNH nêu trên đã giúp các NICs phát
huy được tiềm năng nội sinh và cơ hội ngoại sinh để đẩy nhanh quá trình CNH. Tại Đài
Loan, sau 10 năm thực hiện mô hình CNH hướng nội (những năm 1950), với trọng tâm
chính là thúc đẩy phát triển nông nghiệp (lợi thế của nước này lúc đó), tăng tích lũy từ
nông nghiệp, lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp; đến những năm 1960 họ đã chuyển
từ mô hình CNH thay thế nhập khẩu sang từng bước mở cửa, hướng về xuất khẩu.
Thông qua việc thành lập các khu chế xuất (Cao Hùng năm 1966; Đài Trung năm
1969), Chính phủ khuyến khích các dự án đầu tư quy mô nhỏ, sử dụng nhiều lao động,
quay vòng vốn nhanh (nhất là các ngành giấy, kính, nhựa...), nền kinh tế Đài Loan đã
có bước phát triển khá nhanh. Vào những năm 1960 - 1970, Đài Loan đã xuất khẩu
sang thị trường Mỹ khoảng 40 - 50% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của họ. Mặc dù
vậy, họ vẫn chú trọng phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ để sản xuất hàng tiêu dùng,
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, sử dụng được hàng ngàn lao động
ở nông thôn. Còn Hàn Quốc thì, trong thời gian đầu vẫn phụ thuộc vào nước ngoài (chủ
yếu với Nhật) thông qua hình thức liên doanh vốn để chế tạo động cơ và máy kéo nhỏ;
còn sau đó, khi đã đủ sức họ dần dần tự sản xuất trong nước phần lớn các máy móc
chủ yếu cho nông nghiệp. Tại Xinh-ga-po, do đặc điểm riêng mà sự phụ thuộc vào
nước ngoài là rất chặt, thậm chí họ còn phải dựa vào các công ty và nhà quản lý nước
ngoài để xuất khẩu. Hàng năm, các công ty nước ngoài chiếm đến 70% giá trị hàng
xuất khẩu công nghệ của Xinh-ga-po.
Việc thực hiện chuyển giao công nghệ thông qua con đường khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài là con đường phổ biến tại nhiều nước, nhưng Hàn Quốc lại thực hiện
điều đó chủ yếu bằng các hợp đồng nhập khẩu công nghệ và bằng sáng chế kỹ thuật.
Vì vậy, nếu các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa công nghệ vào Hàn Quốc thì
phải chấp nhận điều kiện là tỷ lệ góp vốn của đối tác chỉ dưới 49%. Để làm được như
vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành qui chế giám sát cần thiết để lựa chọn công
nghệ tiên tiến với giá cả phù hợp; đồng thời đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực
để tiếp thu, học hỏi và phát triển công nghệ. Ngoài ra, Chính phủ cũng tăng cường bỏ
vốn đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển với mục tiêu là phát triển và hoàn
thiện các công nghệ được du nhập từ nước ngoài và thành lập các cơ quan quản lý, các
viện nghiên cứu để phổ biến, khai thác và hướng dẫn chuyển giao công nghệ. Nhìn
chung, các NICs đều chú trọng việc nghiên cứu, phân loại tính chất công nghệ và đặc
điểm các kênh chuyển giao để tránh nhập những “công nghệ rác”, mà đi thẳng vào
công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Điều đó đã có tác dụng làm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế các NICs theo hướng hiện đại, tạo ra những ngành công nghiệp mới có giá trị
gia tăng cao, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia của họ.
Để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới, hầu hết các NICs đều thực hiện
nghiêm ngặt nguyên tắc “Xuất khẩu hay là Chết”. Nguyên tắc này vừa nhằm đề cao vai
trò trách nhiệm của doanh nghiệp, vừa tạo ra sức ép đối với các doanh nghiệp trên con
đường hội nhập kinh tế quốc tế. Theo nguyên tắc đó, nếu doanh nghiệp nào không tạo
được những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì sẽ không có cơ hội
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
tồn tại, bởi Chính phủ không “chạy theo” doanh nghiệp mà chỉ thực hiện hỗ trợ cho một
ngành công nghiệp nào đó, hay thậm chí một công ty cá biệt nào đó trong thời kỳ đầu
khi còn non trẻ, còn sau đó một vài năm thì các công ty sẽ phải tự tồn tại bằng cách
xác lập vị trí của mình trên thị trường thế giới. Cho nên, những công ty nào chỉ quen
dựa dẫm vào vị thế độc quyền trên thị trường nội địa nhờ vào sự hỗ trợ của nhà nước
mà không phải đối mặt với áp lực cạnh tranh... thì sớm muộn cũng sẽ bị thất bại
(2)
.
Như vậy, rõ ràng mô hình CNH kết hợp thay thế nhập khẩu, hướng về xuất khẩu và
hướng tới công nghệ cao đã cho phép các nước đang phát triển có thể vận dụng được
những hạt nhân hợp lý của mỗi mô hình, trong đó đặt trọng tâm vào mô hình hướng về
xuất khẩu, hướng tới công nghệ cao và lấy mô hình thay thế nhập khẩu để bổ sung. Sự
kết hợp các mô hình này cũng là cách để các nước đang phát triển tham gia sâu rộng
vào quá trình phân công lao động quốc tế nhằm tranh thủ khai thác tối ưu các nguồn
lực từ bên ngoài, đồng thời phát huy được nguồn lực từ bên trong, tạo ra sức bật
mạnh mẽ và khả năng to lớn để thực hiện CNH bền vững. Ngày nay, đối với các nước
thực hiện CNH muộn, việc thực hiện mô hình công nghiệp hóa xen kẽ giữa thay thế
nhập khẩu và hướng về xuất khẩu đã trở thành xu thế tất yếu, nhưng kết hợp thế nào
để đạt đến thành công sự nghiệp CNH thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có
vai trò của các Chính phủ. Vì vậy, kinh nghiệm của các nước đi trước là bài học bổ ích
cho các nước đi sau trong vấn đề này.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |