Trung Quốc
, sau 30 năm thực hiện Công nghiệp hoá (CNH) theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp họ đã tự rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm quý
báu. Vào cuối thập niên 1970, Trung Quốc bắt đầu thực hiện những cải cách mở cửa
để phát huy lợi thế sẵn có về tài nguyên thiên nhiên và sức lao động dồi dào, giá rẻ;
đồng thời tranh thủ tối đa nguồn vốn, công nghệ và đặc biệt là tri thức từ bên ngoài
thông qua ba hướng chủ yếu là: thương mại, đầu tư và du học. Cả ba hướng đó đều
tập trung vào một mục tiêu chung là tiếp thu, học tập những tri thức, những thành tựu
khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới của thế giới để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp
hóa đất nước.
Để triển khai hướng thứ nhất (mở rộng thương mại), Chính phủ Trung Quốc đã sớm từ
bỏ chính sách độc quyền ngoại thương và từng bước tự do hóa hoạt động xuất, nhập
khẩu. Đặc biệt, Trung Quốc rất chủ động trong vệc mở cửa nền kinh tế. Để không bị
phụ thuộc quá sâu vào một thị trường nào đó, Trung Quốc thực hiện đa dạng hóa sản
phẩm và đa dạng hóa thị trường. Sự thay đổi trong chính sách thương mại như vậy đã
thúc đẩy quan hệ buôn bán hai chiều giữa Trung Quốc và các nước phát triển rất
nhanh. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng từ 20,6 tỷ USD năm
1978 lên 510 tỷ USD năm 2001; 1.155 tỷ USD năm 2004, và Trung Quốc đã vượt lên
trên Nhật Bản để trở thành cường quốc ngoại thương thứ ba của thế giới, chỉ sau Mỹ và
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
Đức. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của nước này đạt mức kỷ lục, với
1.760 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 986 tỷ USD, chiếm 7,25% tổng kim
ngạch xuất khẩu của thế giới. Từ năm 2002, trên thị trường Nhật Bản, Trung Quốc đã
vượt Mỹ và trở thành nước có thị phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của nước này.
Còn Mỹ thì trở thành nước có thị phần lớn nhất của Trung Quốc từ năm 2003, với 21%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Riêng tại thị trường ASEAN, kim ngạch xuất
khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc đã tăng 7 lần trong vòng 10 năm (1992 –
2002).
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc ngày càng thiên về hàng công nghiệp. Tỷ
trọng hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1980 chiếm 48%, năm
1990 tăng lên 78% và 2003 đã lên tới 92%. Còn trong giá trị kim ngạch hàng công
nghiệp xuất khẩu, thì các sản phẩm đồ điện, điện tử gia dụng, đồng hồ, máy tính cá
nhân, xe máy và các loại máy móc khác chiếm tới 43%.
Thực hiện hướng thứ hai (mở rộng đầu tư), Trung Quốc đã mở rộng cửa nền kinh tế để
thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trung Quốc đã rất coi trọng nguồn vốn
và công nghệ của phương Tây và xác định “mở cửa” là để lợi dụng vốn và kỹ thuật
nước ngoài phục vụ hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, trong suốt thập kỷ 1980 Trung
Quốc đã sử dụng nhiều hình thức như vay vốn, hợp tác liên doanh, thành lập các đặc
khu kinh tế, các thành phố mở cửa… đi đôi với kiện toàn pháp luật kinh tế đối ngoại,
thực hiện tốt các chính sách ưu đãi, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn từ nước
ngoài. Với các chiến lược như “phát triển kinh tế 3 ven”, hay “làm tổ cho chim phượng
hoàng vào đẻ trứng”, Trung Quốc đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài, và
đi cùng với chúng là kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Hiện nay đã có gần
200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đầu tư vào Trung Quốc, trong đó có
450/500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới.
Con đường “thích ứng chuyển đổi” công nghệ nước ngoài của Trung Quốc được thực
hiện theo một chu trình gồm ba giai đoạn:
đầu tiên, thu hút FDI để lắp ráp sản phẩm,
gia công theo thiết kế chế tạo gốc;
tiếp theo, thông qua các quan hệ liên kết, liên
doanh để chuyển sang sản xuất trong nước các sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
và vẫn giữ nguyên thương hiệu gốc của các tập đoàn nước ngoài;
cuối cùng, tiến tới
sản xuất các sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao nhờ các liên kết, liên doanh
nhưng do Trung Quốc tự thiết kế và mang thương hiệu riêng của Trung Quốc. Có thể
thấy, con đường để tiếp cận công nghệ mới của Trung Quốc cũng có phần giống với
Nhật Bản, đó là bắt chước công nghệ và “thích ứng chuyển đổi” nó. Bằng cách đó,
Trung Quốc đã trở thành “mô hình” mẫu về “sản xuất hàng nước ngoài ở trong nước”
để tiêu thụ ở nước ngoài. Với cách đi đó mà ngày nay sản phẩm của Trung Quốc đã có
mặt tại hầu khắp các nước trên thế giới, kể từ những sản phẩm có hàm lượng lao động
giản đơn cao như quần áo, giày dép, đồ chơi trẻ em..., đến những sản phẩm có hàm
lượng công nghệ cao như ôtô, xe máy, tivi, tủ lạnh, máy điện toán… Thậm chí nhiều xí
nghịêp tại các nước phát triển cũng đã phải chịu thất bại trước hàng giá rẻ của Trung
Quốc.
Còn
hướng thứ ba (mở rộng chương trình du học) được thực hiện qua con đường học
hỏi và kế thừa tiến bộ khoa học công nghệ của phương Tây (chủ yếu là Mỹ). Mục tiêu
phát triển giáo dục của Trung Quốc được xác định theo 3 hướng: Giáo dục hướng về
hiện đại (giáo dục nhằm mục tiêu đáp ứng yêu cầu Hiện đại hoá (HĐH) nền kinh tế);
Giáo dục hướng tới tương lai (giáo dục phải đón đầu được để đáp ứng các yêu cầu của
nền kinh tế thế giới đang vận động và phát triển); và Giáo dục hướng ra thế giới (giáo
dục vừa tuân theo những đặc trưng của Trung Quốc vừa chú ý đến xu thế phát triển
của khoa học, kỹ thuật và giáo dục của các nước khác trên thế giới). Phương châm giáo
dục đó đã giúp cho Trung Quốc mở cửa giao lưu rộng rãi với thế giới bên ngoài để tận
dụng cơ hội do thời đại tạo ra, mà vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Đó chính là bản chất của quá trình công nghiệp hóa kết hợp giữa phát huy nội lực và
“thích ứng chuyển đổi” các yếu tố ngoại lực để thực hiện thành công công nghiệp hóa
rút ngắn tại Trung Quốc.
Để “học hỏi” một cách hiệu quả, một mặt Trung Quốc đưa người ra nước ngoài, nhất là
đến các nước phát triển để học tập; và mặt khác họ mời người nước ngoài đến Trung
Quốc giảng dạy, hoặc đầu tư vào lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
Về hướng thứ nhất,
Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi nhất để tăng cường số lượng du học sinh, trải thảm
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
đỏ đón du học sinh trở về, mời gọi Hoa kiều đóng góp tiền bạc và trở về phục vụ đất
nước, khuyến khích các nhà khoa học và các nhà đầu tư bỏ thời gian công sức, tiền bạc
và trí tuệ vào nghiên cứu, phát minh, sáng tạo khoa học phục vụ CNH, HĐH.
Về hướng
thứ hai, Chính phủ tạo môi trường để các chuyên gia nước ngoài đến làm việc tại Trung
Quốc, nhất là chuyên gia trong các ngành công nghệ cao ; kêu gọi người nước ngoài bỏ
vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Nhờ đó, một số công ty lớn như Siemens,
Ericson, Motorola... đã không chỉ đến Trung Quốc để xây dựng các nhà máy, xí nghiệp,
mà còn xây dựng cả trường học để đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất lượng cao, và
thành thạo nghề nghiệp cho Trung Quốc. Quá trình học hỏi, chuyển giao công nghệ
nước ngoài theo cách đó đã giúp Trung Quốc tiết kiệm được thời gian và tiền của cho
việc nghiên cứu công nghệ mới, cũng như tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Về điều
này, thì rõ ràng Trung Quốc đã đi trước khá xa so với nhiều nước khác của Châu Á.
Từ thực tế trên, có thể đi đến khẳng định: việc kết hợp một cách khéo léo giữa sức
mạnh nội lực và ngoại lực, và biết “thích ứng chuyển đổi” các yếu tố ngoại lực là một
nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thành công của mô hình công nghiệp hóa rút ngắn
tại Nhật Bản và Trung Quốc. Sự kết hợp hai yếu tố đó đã phát huy được tính tương hỗ
giữa chúng, tạo nên sức mạnh to lớn cho phát triển, trong đó việc dựa vào và phát huy
yếu tố nội lực sẽ cho phép bảo đảm được các cân đối chủ yếu, tạo sự phát triển ổn
định, bảo vệ được nền kinh tế quốc gia trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của nước
ngoài, và là cơ sở để các yếu tố tích cực từ bên ngoài được đưa vào nền kinh tế hiệu
quả hơn. Còn “sự thích ứng chuyển đổi” là thể hiện sự hội nhập có chuẩn bị, hội nhập
chủ động nên sẽ đảm bảo cho đất nước có thể duy trì quyền sở hữu (độc lập, tự chủ),
tính liên tục của xã hội và bản sắc dân tộc.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |