Kinh tì-kheo na-tiên càn Long Đại Tạng Kinh Quyển 108, trang 706-753 Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu Nguồn


- Nhân nhìn thấy ''hòn ngọc ẩn'' trong lời đáp của Tì-kheo Na-Tiên về vấn-đề Tái-sanh



tải về 1.4 Mb.
trang5/59
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.4 Mb.
#19794
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   59

6.- Nhân nhìn thấy ''hòn ngọc ẩn'' trong lời đáp của Tì-kheo Na-Tiên về vấn-đề Tái-sanh.


Vấn-đề Tái-sanh trong vòng Luân-hồi được cứu-xét rất dài-dòng trong bộ Luận ''Na-Tiên Tì-Kheo Kinh'', nhắc đi nhắc lại, dưới nhiều khiá-cạnh, rải-rác khắp ba quyển Thượng, Trung, Hạ. Có điều khá ngạc-nhiên là chẳng thấy tác-giả bộ Luận bàn đến điểm mấu-chốt thường gây mối thắc-mắc lớn trong hàng các thanh-niên nam-nữ trẻ tuổi được hấp-thụ nền văn-minh khoa-học vật-chất ngày nay: việc tái-sanh có thật hay chẳng có thật? Phải chăng, tác-giả bộ Luận đã xem việc tái-sanh là một hiện-tượng thiên-nhiên dĩ-nhiên, như mưa bão, sấm sét của vũ-trụ, như cây-cối gìa cỗi có trái, có hột, khi tàn-tạ thì mọc lên cây khác sởn-sơ bên cạnh, rồi chấp-nhận và tin-tưởng đúng theo thuyết Luân-hồi trong Giáo-lý: chúng-sanh khi hết mạng sống nầy sẽ tái-sanh lại ở cõi đời sau? Có lẽ vì lý-do đó, tác-giả bộ Luận khi nói đến việc tái-sanh, bàn ngay đến các khía-cạnh như: Tại sao phải tái-sanh? Ai phải tái-sanh lại? Ai được giải-thoát khỏi tái-sanh? Khi tái-sanh, có phải do thân-tâm cũ mà mang lấy thân-tâm mới không?..., mà chẳng hề xét việc tái-sanh thật có hay không. 

Ta hãy tạm gát lại câu hỏi mấu-chốt: tái-sanh có phải là một hiện-tượng thật-sự chắc-chắn xảy ra không?, và hãy đọc qua lời chất-vấn của vua Di-Lan với Tì-kheo Na-Tiên: ''Na-Tiên có còn phải tái-sanh nữa không?'' với hi-vọng tìm thấy ra ''hòn ngọc ẩn'':

(1) Vương lại hỏi Na-Tiên:

- Có người chết rồi chẳng phải sanh lại nữa chăng? 


- Có người phải sanh lại, mà cũng có người chẳng phải sanh trở lại 
- Ai còn phải sanh lại và ai chẳng còn sanh lại?
- Người quyến-luyến niềm ân-ái nhiều, lắm sự ham-muốn, thì sanh lại đời sau; người đã dứt sạch sự ân-ái, bỏ hết mọi ham-muốn thì đời sau chẳng phải sanh trở lại ....

(2) Vương lại hỏi Na-Tiên:

- Có người chẳng sanh lại ở đời sau không, và có tự biết được việc chẳng sanh lại ấy chăng? 
- Dĩ nhiên, có người như thế, tự biết mình chẳng còn tái-sanh. 
- Làm sao biết được? 
- Người ấy tự biết mình chẳng còn quyến-luyến ân-ái, chẳng còn ham-muốn, chẳng có điều ác, nhờ đó biết mình chẳng còn phải sanh lại nữa. Thí-dụ như người nông-phu trồng lúa, được nhiều thóc, trữ lại để về sau, sang năm anh chẳng trồng lúa nữa, chỉ lấy lúa dự-trữ ra ăn. Người nông-phu ấy có mong được lúa gạo mới chăng?
- Người nông-phu ấy chẳng mong được lúa mới. 
- Tại sao biết người ấy chẳng được lúa mới? 
- Người nông-phu ấy chẳng cầy cấy, chẳng trồng lúa, thì có chờ mong được chi nữa. 
- Người đã đắc-đạo cũng lại như thế, tự biết rằng đã dứt bỏ ân-ái, sướng-khổ, chẳng còn tham-tâm, do đó biết đời sau chẳng sanh lại.

(3) Vương lại hỏi Na-Tiên:

- Na-Tiên nay có sanh trở lại đời sau không? 
- Lời Đại-Vương hỏi tôi đây, trước tôi đã đáp rồi. Nếu như tôi còn có sự lưu-luyến về ân-ái, thì đời sau sẽ sanh trở lại; còn nếu dứt được sự ân-ái, thì chẳng sanh lại nữa. ...

Ba đoạn văn ngắn (1), (2) và (3) vừa được trích dẫn trên đây, nằm cách xa nhau đến cả chục trang, nơi hai quyển Thượng và Trung của bộ Luận. Đọc lại cả bộ Luận nhiều lần, Thiện Nhựt mới tìm thấy được một điểm vừa khéo, vừa quí, và gọi đó là một ''viên ngọc ẩn'' Chẳng biết trí thô-thiển của Thiện Nhựt có nhìn lầm chăng? 

Đoạn (1) nói về: tại sao có người còn tái-sanh, có người chẳng phải tái-sanh nữa? Đoạn (2) bảo rằng: người đã đắc Đạo tự mình biết rõ chẳng sanh lại vào đời sau. Đoạn (3) ghi lời đáp của Na-Tiên về câu Vua hỏi: Na-Tiên nay có sanh trở lại đời sau không? Mỗi đoạn rời-rạc đó chẳng cho ta thấy được ẩn-ý của vua Di-Lan khi đặt ra câu hỏi: Na-Tiên nay có tái-sanh nữa không? Nhưng nếu đọc kỹ lại cả ba đoạn ta thấy nổi bật lên ''ẩn-ý'' của nhà Vua khi đưa ra một câu hỏi như thế. Ẩn-ý gì? Nhà Vua muốn vị Tì-kheo xác-nhận cho rõ-ràng bằng lời nói, rằng Na-Tiên đã đắc Đạo chưa, để biết chắc được mình chẳng còn phải tái sanh nữa? Nhưng nhà Vua chỉ nhẹ-nhàng hỏi: Na-Tiên nay còn tái-sanh nữa không?, tuy nhẹ-nhàng nhưng thẳng-thắn, và đang chờ-đợi ở vị tu-hành một câu trả lời dứt khoát: Có (đắc Đạo) hay là Không.

Tì-kheo Na-Tiên quả là người tinh-tế khi đáp: Lời Đại-Vương hỏi tôi đây, trước tôi đã đáp rồi. Nếu như tôi còn lưu-luyến ân-ái, thì đời sau sẽ sanh trở lại; còn nếu dứt được sự ân-ái, thì tôi chẳng sanh lại nữa... Lời đáp có vẻ ''phân hai'' chẳng nói ''Có'' mà cũng chẳng bảo ''Không''. Thế thì ''khéo'' ở chỗ nào đâu, khi nói ... lửng-lơ như thế? Thưa, rất khéo, và khéo ở tại chữ ''Nếu''. Mình tu đắc Đạo tự mình mình biết, có ai chứng cho mình là mình đã đắc Đạo? Mình đã dứt được sự ân-ái, tự mình mình biết, có ai chứng cho mình việc dứt bỏ sự ân-ái đó? Mình quả-quyết nói ra mình đắc Đạo và mình đã chứng được vô-sanh, lấy chi làm bằng-cớ? Và nhứt là nói ra mình đã đắc Đạo, đó phải chăng đã là một sự khoe-khoang, mà lại còn e kẻ khác nghĩ lầm mình nói ra để được Vua trọng-vọng rồi cúng-dường ''hậu-hỉ'' cho mình. Cho nên với chữ ''Nếu'', Na-Tiên đã vừa tránh được sự khoe-khang, lại vừa khỏi phải che-dấu sự-thật. 

Thế thì, còn ''quí'' ở chỗ nào? Tì-kheo Na-Tiên, trước khi ra hành đạo, đã tu chứng đạo-quả A-la-hán rồi, tại sao chẳng tỏ ra cho vua biết, hoặc thi-triển các thần-thông đã đắc được để cho vua tin? Đó là hạnh khiêm-nhường, với tâm thanh-tịnh hoàn-toàn, trong lòng chẳng hề khởi lên tự-kiêu, tự-mãn, phô-trương cùng người sự chứng-đắc của mình. So với thời mạt-pháp ngày nay, có biết bao kẻ mạo-danh tu-hành rêu-rao chẳng ngượng mồm đã đắc được đạo nầy, quả nọ, đã vỗ ngực xưng là bực vô-thượng-sư, là đấng Phật-sống, còn cho bọn đồ-đệ mê-tín ngông-cuồng dùng các phương-tiện quảng-cáo rầm-rộ những trò buôn thần bán thánh theo đường lối thương-mại, khiến các bực chơn-tu sùng Đạo phải đau lòng. 

Cầu mong sao thái-độ khiêm-nhường kín-đáo của Tì-kheo Na-Tiên được các hàng Phật-tử lấy đó làm gương để khiến cho mối Đạo giữ tròn được sự trong-sáng.

Bây giờ, xin trở lại vấn-đề mấu-chốt: Tái-sanh là một hiện-tượng có thật hay chẳng có thật? 

Gọi là ''hiện-tượng'' một sự-việc thật-sự có thật, xảy ra trong một khung-cảnh không-gian và thời-gian. Việc tái-sanh, nếu thật-sự xảy ra, phải trải qua ba giai-đoạn: (1) lúc chết, (2) sự thay-đổi từ trạng-thái của đời sống cũ sang trạng-thái đời sống mới, (3) lúc sanh ra. Trong ba giai-đoạn đó, ta chỉ biết được có hai: lúc chết và lúc sanh, còn sự thay đổi, nếu có, từ trạng-thái cũ sang trạng-thái mới, phải xảy ra tại một cảnh-giới khác, trong khung-cảnh thời-gian và không-gian khác với cõi trần-thế nầy. Chính vì lẽ nầy, mà khoa-học hiện-đại vẫn còn chưa có câu trả lời dứt-khoát: việc tái-sanh có thật hay chẳng có thật? Như thế, dựa theo lập-luận duy-lý, việc tái-sanh nếu thật sự có thật hoặc chẳng có thật, đều phải có nguyên-nhân của nó.

Thế gian chẳng hề có một sự-việc nào tự-nhiên tự nó mà sanh ra: phải có nguyên-nhân rồi mới sanh ra hậu-quả. Xét cho cùng kỳ-lý, vấn-đề tái-sanh có thật hay chẳng có thật chỉ là một vấn-đề tin-tưởng mà thôi: hoặc tin là có, hoặc tin là chẳng có. Nhưng muốn vững tin, phải có những lý-do chắc-chắn làm căn-bản cho niềm tin đó: đã đành khi tin thì tin bằng một niềm tin; mà khi chẳng tin, chẳng chịu tin, thì thái-độ nầy cũng vẫn là một niềm tin, một niềm tin chắc-chắn cho rằng, chẳng hề có việc tái-sanh. Những ai theo khoa-học vật-chất đòi hỏi các bằng-cớ cụ-thể, mắt có thấy, tai có nghe mới chịu tin, thì ta thử hỏi, họ đưa ra những lý-lẽ nào vững-chắc để quả-quyết rằng việc tái-sanh chẳng có thật, ngoài việc cứ một mực thẳng tay bài-bác việc tái-sanh mà chẳng chứng-minh được sự hữu-lý của việc họ chống-đối đó với các bằng-cớ.

Về phía những người đang vững tin ở lời Phật dạy, ta thấy rõ niềm tin của họ dựa trên những lý-lẽ chẳng phải là thiếu căn-bản:

1.- Lời tuyên-bố minh-bạch của Đức Phật tại Bồ-đề đạo-tràng khi Ngài đắc ngôi-vị Phật: với thiên-nhãn-minh, Ngài nhìn thấy các chúng-sanh chết nơi đây, sanh lại nơi kia. Đó còn chưa phải là việc tái-sanh có thật, đang xảy ra, tại cảnh-giới nầy mà chính mắt Ngài đã nhìn thấy được với khả-năng siêu-phàm của thiên-nhãn-minh sao?

2.- Lý Mười hai Nhân-Duyên trong Giáo-Pháp của Đức Phật giải-thích rõ-ràng nguyên-nhân của việc tái-sanh, ngay tại các Nhân-duyên đầu, thuộc giai-đoạn quá-khứ: (1)Vô-minh duyên Hành, (2) Hành duyên Thức, (3) Thức duyên Danh-Sắc. 

Vô-minh là gì và do đâu mà có? Vô-minh tức là sự ngu-tối, mê-mờ. Lúc cá-thể sắp lìa cuộc sống, lòng luyến-tiếc sanh ra sợ-hãi, mong muốn cuộc sống được tiếp-tục mãi, đó là vô-minh, ham sống trong cõi Luân-hồi để gánh mãi cảnh Khổ triền-miên, đó chẳng phải là sự dại-khờ nặng-nề hay sao?

Vô-minh duyên Hành nghĩa là gì? Câu nầy có nghĩa: hễ vô-minh khởi lên, thì Hành được phát-động. 

Hành là gì? Đây là danh-từ Hán-Việt dùng để dịch chữ Phạn Sankhàra, với ba ý-nghĩa chánh: (1) điều-kiện gây ra sự biến-đổi; (2) sự-vật bị điều-kiện-hoá, tức là các sự-vật bị các điều-kiện xung quanh làm biến-đổi; (3) chính sự biến-đổi do các điều-kiện gây ra. Như thế, chữ Hành ở đây trỏ các pháp hữu-vi, tức là các sự-vật phải chịu thay đổi vì các điều-kiện của hoàn-cảnh xung quanh. Các pháp hữu-vi đó, trong việc tái-sanh, là những pháp nào? (pháp= dharma/dhamma = sự-sự, vật-vật). Đó là ảnh-hưởng của nghiệp-thức do các hành-động cố-ý của thân, của miệng, và nhứt là của ý, đã gây ra, còn tiềm-tàng và được tàng-trữ trong tạng-thức, tức là trong Thức A-lại-da (Alaya). 

Do đó mà ta có: Hành duyên Thức, nghĩa là hễ Hành khởi lên thì Thức được phát-động.

Thức là gì? Thức đây là nghiệp-thức vừa nói ở trên, tức là các ảnh-hưởng của những hành-vi cố-ý, tạo nên nghiệp-quả, dẫn-dắt chúng-sanh đi theo sáu nẻo của Luân-hồi. Do đó mà có: Thức duyên Danh-Sắc, nghĩa là hễ nghiệp-thức chuyển-động thì Danh-Sắc phát-sanh ra. Khi Danh-Sắc sanh ra thì việc tái-sanh được thành-tựu, vào thời-kỳ hiện-tại.

Danh-Sắc là gì? Chữ Danh-Sắc là một danh-từ Hán-Việt dịch chữ Phạn Nàma-Rùpa, nghĩa là: tinh-thần và vật-chất. Như thế, nghĩa là gì? Khi nghiệp-thức chuyển-động, thì phần tinh-thần, Danh, của cá-thể đi vào thai-nhi, do tinh cha huyết mẹ kết thành, tức là phần vật-chất, Sắc, của cá-thể. Vì cả hai phần tinh-thần và vật-chất còn phôi-thai, chưa được hoàn-bị, nên mới gọi là Danh-Sắc, vì thai-nhi chưa tượng-hình đầy-đủ các bộ-phận sinh-lý, cũng như các khả-năng tâm-lý của nó chưa được phát-triển sung-mãn.

Nói tóm lại, ba nhân-duyên đầu-tiên của Lý Nhân-Duyên đã nêu ra, rất rõ-ràng và rất đầy-đủ, nguyên-nhân của việc tái-sanh, mà hậu-quả là khiến cho chúng-sanh cứ trôi lăn triền-miên trong cõi Luân-hồi đau-khổ.

Thiện Nhựt sở dĩ ''dài dòng văn-tự'' như thế, đó là vì muốn nêu ra cho các bạn trẻ thấy rõ-ràng niềm tin có tái-sanh đã được đặt trên hai căn-bản vững chắc: (1) lời tuyên-bố của Đức Phật đã nhìn thấy sự tái-sanh; (2) ba nguyên-nhân dây chuyền: Vô-minh, Hành, Thức đã đưa đến hậu-quả tất-yếu là việc tái-sanh ra Danh-Sắc. Các bạn trẻ còn hơi khó tánh có thể đòi-hỏi có được thiên-nhãn-minh để nhìn thấy tận mắt mình, thì Thiện Nhựt xin thưa, phải tu-tập cho đến mức giác-ngộ và giải-thoát hoàn-toàn như Đức Phật mới có khả-năng siêu-phàm đó. Hoặc các bạn ấy muốn đem ra ''thực-nghiệm'' các nguyên-nhân: Vô-minh, Hành, Thức, để xem chúng có mang đến hậu-quả là có việc tái-sanh xảy ra hiện-tiền hay không, theo như kiễu các nhà khoa-học đã kiểm-chứng trong các phòng thí-nghiệm, thì Thiện Nhựt xin thưa, các nguyên-nhân được kể trong Lý Mười hai Nhân-Duyên đều là các pháp hữu-vi, vô-hình-tướng, làm sao mà lấy đem ra được, để ''thí-nghiệm'' như các hóa-chất?

Thiện Nhựt tự xem mình là một Phật-tử, gọi Đức Phật là đấng Từ-Phụ, thì có lẽ nào mình chẳng chịu tin lời của đấng Cha lành, khi Ngài bảo, chính Ngài đã nhìn thấy các chúng-sanh chết nơi đây, sanh lại nơi kia. 

Làm con mà chẳng chịu tin lời Cha, thì còn tin ai đây?

*



tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   59




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương