Kinh mi tiên vấN ĐÁp milinda panha


Cứu cánh đích thực của bậc xuất gia



tải về 482.04 Kb.
trang5/16
Chuyển đổi dữ liệu13.06.2018
Kích482.04 Kb.
#39900
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

5. Cứu cánh đích thực của bậc xuất gia


Sau buổi trai tăng thịnh soạn do nhà vua cúng dường toàn thể chúng tăng, nhà vua yêu cầu Na Tiên lưu lại 10 vị cùng ngồi dự đàm, còn bao nhiêu xin mời trở lui về chùa an nghỉ. Nhà vua cũng truyền bảo tất cả cung phi mỹ nữ rời khỏi hậu cung, tiến vào ngự điện, ngồi nép sau rèm mà nghe vua luận đạo với Na Tiên.

Bãy giờ, vua cho thiết ngai ngồi trước mặt Na Tiên, rồi lên tiếng hỏi:


-- Bây giờ nên luận đàm về vấn đề gì đây?

-- Vấn đề gì mà nhà vua cho là chánh đáng hơn hết.

-- Bạch Ðại đức, chư vị xuất gia cho điều gì là lành nhất trên đời nầy? Vì cớ gì các ngài xuất gia làm Sa môn?

-- Tâu Ðại vương, anh em bần tăng chúng tôi sở dĩ xuất gia làm Sa môn là vì muốn thoát khỏi khổ não trong đời hiện tại, lại cũng không muốn vướng mắc khổ não trong đời vị lai.

-- Hết thảy Sa môn đều như thế cả hay sao?

-- Không hẳn như thế. Sa môn có bốn hạng. Có kẻ vì mang công mắc nợ mà làm Sa môn. Có kẻ vì sợ luật vua, phép nước mà làm Sa môn. Có kẻ vì nghèo túng khốn cùng mà làm Sa môn. Ở đây bần tăng chỉ muốn nói đến hạng thứ tư, tức hạng muốn thoát khỏi khổ não, ái dục, tiêu diệt khổ lụy trong đời nầy và đời sau, chí tâm cầu đạo mà xuất gia làm Sa môn.

-- Nói vậy thì Ðại đức chính vì mục đích ấy mà làm Sa môn chăng?

-- Hồi còn thơ ấu nào có biết gì! Nhưng về sau dần dần nhờ thấu rõ đạo lý Phật dạy trong kinh, lại nhờ có chư Sa môn trưởng lão giáo hóa mới thấy được mục đích của mình. Vì vậy, bần tăng quyết tâm tiêu trừ mọi khổ não trong đời nầy và đời sau. Ðó là mục đích của bần tăng.

-- Lành thay! Lành thay!

6. Nguyên nhân luân hồi và phương pháp giải thoát


Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, có ai chết rồi mà không sanh trở lại không?

-- Tâu Ðại vương, có kẻ sanh trở lại mà cũng có kẻ không sanh trở lại.

-- Những ai sanh trở lại và những ai không sanh trở lại?

-- Ai còn nặng nợ tham dục ái ân, kẻ đó còn sanh trở lại đời sau. Ai đã thoát khỏi vòng tham dục ái ân, người đó không còn sanh trở lại nữa.

-- Bạch Ðại đức, kẻ nào nhất tâm niệm chánh pháp có thoát khỏi luân hồi không?

-- Tâu Ðại vương, nhất tâm niệm chánh pháp mà lại còn phải đạt được trí ruệ và các điều thiện khác nữa thì mới thoát khỏi luân hồi.

-- Nhứt tâm và trí tuệ có đồng nghĩa nhau không?

-- Không.

-- Gia súc như bò, ngựa, chó, mèo... có trí tuệ không?

-- Chúng có nhứt tâm nhưng không có trí tuệ.

-- Nhứt tâm và trí tuệ khác nghĩa nhau như thế nào?

-- Nhứt tâm là định. Có định mới hiểu biết. Trí tuệ là đoạn. Nhờ trí tuệ mà cắt đứt được phiền não mê lầm và chất dứt luân hồi sanh tử.

-- Xin ví dụ cho trẩm dễ hiểu.

-- Ðại vương từng thấy thợ gặt lúa chứ? Tay trái họ gom bụi lúa lại, trong khi đó thì tay mặt họ cầm lưỡi hái mà cắt. Cũng giống như thế, nhà tu hành dùng nhứt tâm gom tư tưởng lại và dùng lưỡi hái trí tuệ cắt đứt phiền não ái dục. Phiền não ái dục đã cắt đứt thì vĩnh viễn không còn tái sanh. Luần hồi chấm dứt.

-- Hay thay! Hay thay! Ví dụ của Ðại đức rõ lắm.

7. Pháp lành


Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, ngoài điều lành chánh đáng nhất đã nói, còn những điều lành nào khác đáng nói nữa không? Và đó là những điều gì?

-- Tâu Ðại vương, đó là: Tín tâm, Trì giới, Tinh tấn, Niệm thiện, Nhứt tâm và Trí tuệ (1).



a) Tín tâm

-- Tín tâm ra sao và gồm những gì?

-- Tín tâm cởi mở lòng ngờ vực. Có tín tâm thì mọi nghi nan ngần ngại mới tiêu tan. Như tin có Phật; tin nơi kinh pháp; tin có tỳ kheo tăng; tin có đạo quả A La Hán; tin có đời nầy và đời sau; tin phải ăn ở hiếu hạnh với cha mẹ; tin làm lành hưởng phước và làm ác bị đọa. Nhờ có tín tâm như thế, người ta mới trở nên trong sạch và tinh tấn mà lướt lên.

-- Trong sạch ra sao và tinh tấn lướt lên như thế nào?

-- Trong sạch là xa lìa và trừ khử năm điều ác: tham dâm, sân nộ, lười biếng ham ngủ, say mê ca nhạc, nghi kỵ, không dám dấn thân. Hễ chưa diệt trừ được năm điều ác ấy thì tâm ý luôn luôn bất định. Chỉ khi nào tận diệt được năm điều ác ấy, tâm ý mới trở nên trong sạch không chút bợn nhơ.

-- Xin cho một ví dụ cho dễ hiểu.

-- Ví như một vị đại vương dắt một đoàn người ngựa xe cộ vượt qua một con rạch, nước rạch bị quậy lên đục ngầu. Nhưng khi qua rạch rồi thì vua khát nước muốn uống. Giả sử bấy giờ nhà vua có một viên ngọc Ðịnh Thủy Châu ném xuống, nước liền trở nên trong và nhà vua có nước mà giải khát. Ấy, lòng người với năm điều ác nói trên cũng như nước đục vậy. Ðệ tử Phật tự độ thoát ra khỏi vòng sanh tử bằng viên ngọc Ðịnh Thủy Châu làm cho nước trong. Diệt được tội ác rồi thì tín tâm thanh tịnh như viên ngọc sáng rỡ dưới ánh trăng rằm.

-- Lúc nãy, Ðại đức có bảo rằng nhờ tín tâm mà tinh tấn lướt tới là như thế nào?

-- Ðệ tử Phật hàng ngày chứng kiến hàng ngũ mình sách tấn nhau tu tập để trở nên thanh tịnh. Trong số đó, có kẻ đắc quả Tu Ðà Hoàn, có kẻ đắc quả Tư Ðà Hàm, có kẻ đắc quả A Na Hàm, có kẻ đắc quả A La Hán. Quả nào cũng nhờ tận lực vận dụng tín tâm, trừ khử các mối ác trược dơ bẩn, mà thủ đắc. Nhân đó, các ngài bèn ra sức tinh tấn, cố gắng xông lên mãi mãi để đạt đạo giải thoát.

-- Xin cho một ví dụ để dễ hiểu.

-- Ví như khi trời đổ mưa to, nước mưa theo triền núi chảy xuống, tràn ngập cả sông hồ ao rạch. Một đoàn bộ hành trờ tới, ngại ngùng không biết nước nông sâu, dừng lại bên bờ rạch chẳng dám băng qua để tiếp tục lộ trình đã dự định. Bổng có một người từ phương xa đến. Người nầy ngắm thế rạch, độ được mực nước thấp cao tuỳ từng đoạn nông sâu, rồi bình thản vượt qua rạch. Ðệ tử Phật cũng thế, thấy người đi trước mình nhờ tâm thanh tịnh mà đắc quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, những kẻ đi sau bèn tinh tấn lướt tới để cùng đắc quả như nhau. Trong kinh, Phật có dạy rằng: "Ai có tín tâm đều có thể tự độ được ra khỏi luân hồi sanh tử. Ai có đủ nghị lực tự kềm chế lòng mình, diệt trừ được ngũ dục, nhận chân được những nỗi đau khổ của tự thân thì có thể tự giải thoát được. Và trên con đường giải thoát, phải dùng trí tuệ mà mà thành tựu đạo đức của mình. "

b) Trì giới

Vua hỏi:


-- Bạch Ðại đức, còn trì giới là như thế nào?

-- Tâu Ðại vương, là giữ giới, vì giới là nền tảng của tất cả các pháp lành, gồm tóm trong ba mươi bảy phẩm pháp.

-- Ba mươi bảy phẩm pháp đó là gì?

-- Ðó là bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Ðạo hành. (2)

-- Bốn Ý chỉ ra sao và gồm những gì? (3)

-- Là bốn điều ngưng nghỉ khiến ý thôi vọng động. Phật dạy rằng: Một là quán tưởng thân bất tịnh thì thân ngưng nghỉ. Hai là quán tưởng bệnh tật đau đớn thì bệnh tật ngưng nghỉ. Ba là quán tưởng ý nghĩ vô thường thì ý nghĩ ngưng nghỉ. Bốn là quán tưởng các pháp do duyên sanh thì các pháp ngưng nghỉ. Bốn ý chỉ là như vậy đó.

-- Còn bốn Ý đoạn? (4)

-- Là bốn điều dứt trừ. Ðạt được bốn điều ngừng nghỉ nói trên, không còn nhớ nghĩ đến nữa, vĩnh viễn dứt trừ được chúng, như vậy gọi là Ý đoạn. Nhờ đoạn ý mà không còn phạm tội lỗi mới, tiêu trừ được tội lỗi cũ, tập làm điều lành chưa làm, tăng trưởng điều lành đã làm.

-- Còn bốn Thần túc?

-- Là bốn điều thông suốt tận nguồn gốc. Một là mắt thấy suốt vạn vật. Hai là tai nghe suốt mọi âm thanh. Ba là biết suốt tâm niệm kẻ khác. Bốn là thân bay lên được hư không. Bốn Thần túc là như vậy đó.

-- Còn năm Căn?

-- Là năm điều không đắm trước của Căn. Một là nhìn sắc dù đẹp, dù xấu, mắt không đắm trước. Hai là nghe âm thanh dù hay dù dỡ, tai không đắm trước. Ba là ngửi hương vị dù thơm dù thối, mũi không đắm trước. Bốn là nếm mùi vị dù ngon dù dỡ, lưỡi không đắm trước. Năm là đụng đồ vật dù mịn dù nhám, thân không đắm trước. Năm Căn là như vậy đó.

-- Còn năm Lực?

-- Là năm sức mạnh kềm chế năm Căn, không cho dấy khởi các điều dữ. Một là kềm chế được con mắt. Hai là kềm chế được lỗ tai. Ba là kềm chế được lỗ mũi. Bốn là kềm chế được lỗ miệng. Năm là kềm chế được cái thân. Nhờ năm sức mạnh nầy kềm chế năm Căn khiến ý tránh khỏi sự sa ngã. Năm lực là vậy đó.

-- Còn bảy Giác Ý?

-- Là tác dụng của trí hiểu biết trong bảy phương diện. Một là Ý giác ý nghĩa là trí tự giác ngộ. Hai là Phân biệt giác ý nghĩa là trí chọn lựa chánh pháp, tà pháp. Ba là Tinh tấn giác ý nghĩa là trí chuyên cần tu tập chính pháp. Bốn là Khả giác ý nghĩa là ý trừ bỏ các chướng ngại. Năm là Ỷ giác ý nghĩa là trí thường niệm giải thoát. Sáu là Ðịnh giác ý nghĩa là trí thường ở trong đại định. Bảy là Hộ giác ý nghĩa là trí loại bỏ các tà pháp, bảo vệ các pháp lành đã tu tập được. Bảy giác ý là như vậy đó.

-- Còn tám Ðạo hành? (9)

-- Là tám phương thức hành đạo, dẫn dắt đến đạo quả. Một là Trực Kiến nghĩa là kiến giải ngay thẳng. Hai là Trực Niệm nghĩa là nhớ nghĩ ngay thẳng. Ba là Trực Ngữ nghĩa là lời nói ngay thẳng. Bốn là Trực Trị nghĩa là trị lý công việc ngay thẳng. Năm là Trực Nghiệp nghĩa là đời sống ngay thẳng. Sáu là Trực Phương Tiện nghĩa là phương tiện ngay thẳng. Bảy là Trực Ý nghĩa là ý nghĩ ngay thẳng. Tám là Trực Ðịnh nghĩa là định lực ngay thẳng. Ðó là tám phương thức hành đạo. Tất cả ba mươi bảy phẩm pháp nầy đều lấy việc trì giới làm gốc.

-- Xin cho một ví dụ để dễ hiểu.

-- Ví như người mang đồ nặng đi xa, sở dĩ đi đứng vững vàng được là nhờ đất nâng đở. Lại ví như ngũ cốc và các loại thảo mộc thảy đều từ đất mọc lên. Lại ví như tay thợ khéo xây thành, trước hết phải đo lường đám đất để thiết lập nền móng rồi mới khởi công xây cất. Lại ví như người mãi võ muốn trình diện nghệ thuật của mình, trước tiên phải dọn dẹp một đám đất sạch sẽ, bằng phẳng nhiên hậu mới thi thố tài năng được. Ðất là căn bản của muôn vật. Cũng vậy, giới là nền tảng của đức hạnh. Là bậc cầu đạo giải thoát, đệ tử Phật trước tiên phải thực hành giới hạnh, ức niệm hơn hành, hiểu rõ sự cần khổ thì mới xả bỏ được ái dục và tư niệm tám phương thức hành đạo.

-- Làm sao xả bỏ được ái dục?

-- Nhứt tâm niệm đạo thì ái dục tự nhiên diệt.

-- Hay thay! Hay thay!

c) Tinh tấn

Vua hỏi:


-- Bạch Ðại đức, còn như tinh tấn là như thế nào?

-- Tâu Ðại vương, giữ gìn điều lành và tán trợ điều lành, đó là tinh tấn.

-- Xin ví dụ cho dễ hiểu.

-- Ví như trong việc ngăn ngừa một bức vách sắp đổ hay một ngôi nhà sắp sập, người ta dùng trụ chống để đỡ thì vách và nhà khỏi xiêu. Cũng thế, tinh tấn có công năng chống đỡ người tu hành, nhờ đó mà lòng lành khỏi ngã nghiêng. Lại ví như khi vua sai quân binh ra ngự giặc, thế giặc quá mạnh, quân binh sắp thua, vua phải phái thêm viện binh ra tiếp cứu và trợ chiến, nhờ đó mà thắng trận đuổi được quân giặc. Người có điều dữ như quân ít binh yếu trước thế giặc mạnh. Nếu không nhờ vào tinh tấn để níu giữ điều lành, làm cho vững và tiêu diệt điều dữ cho hết, thì không sao thắng được ác tâm mà thăng tiến trên con đường đạo. Như thế gọi là gìn giữ điều lành và tán trợ điều lành.

Nói đến đây, Na Tiên bèn dẫn đọc một bài kệ:

Tinh tấn giúp điều lành.
Ðường lành ai đi xong,
Ðường đời sẽ ra khỏi.
Ba cõi chẳng trở lui.

-- Hay thay! Hay thay!

d) Niệm thiện

Vua hỏi:


-- Bạch Ðại đức, còn niệm thiện là như thế nào?

-- Tâu Ðại vương, niệm thiện là ý luôn luôn nhớ nghĩ các việc lành. Nhớ nghĩ bằng hai cách: phân ra và hiệp lại. Giống như người hái hoa, trước phải chọn từng cánh hoa thơm mà cắt, cắt xong lại phải buộc chặt lại thành một bó. Bó kỷ thì gió thổi qua không làm chúng tản lạc hay bay mất đi được. Lại cũng ví như quan giữ kho của vua, sau khi được giao nhiệm vụ, trước phải chia đếm từng món vàng bạc châu báu, soát xét cẩn thận; soát xét xong từng món mới gộp chung lại để biết tổng số vàng bạc châu báu phải gìn giữ là bao nhiêu. Cũng thế, người tu hành muốn đắc đạo, phải thường tâm niệm 37 phẩm pháp để ghi nhớ. Như vậy gọi là niệm đạo lý xuất sanh tử. Ai tưởng niệm đạo lý như thế mới biết điều lành để theo và điều dữ nên tránh. Phân biệt rành rẽ đâu là trắng, đâu là đen, rồi sau đó mới tự mình quan sát suy tư mà mà bỏ ác hướng lành.

-- Xin cho ví dụ.

-- Ví như quan hầu giữ cửa cung vua, phải biết những ai được vua ưa chuộng, những ai không được vua ưa chuộng, những ai có ích cho vua, những ai không có ích cho vua. Người có ích được vua ưa chuộng thì mới rước vào; kẻ không có ích cũng không được vua chuộng hẳn phải ngăn lại hoặc xua đuổi đi. Người tu hành gìn giữ niệm thiện cũng giống như thế. Ðiều lành thì cho vào, điều không lành thì xua ra. Giữ gìn cái ý chế ngự cái tâm, phải như thế đó.

Ðến đây Na tiên dẫn đọc một bài kệ:

Tu hành cần giữ kỷ,
Sáu giặc và tâm ý.
Ái dục phải kềm chặt,
Luân hồi chắc chắn thoát.

-- Hay thay! Hay thay!



e) Nhứt tâm

Vua hỏi:


-- Bạch Ðại đức, còn nhứt tâm là như thế nào?

-- Tâu Ðại vương, nhứt tâm là quy cái tâm về một mối. Tức thiền định. Trong các điều lành, nhứt tâm là pháp tối thắng hơn hết. Ai quy nhứt được tâm mình thì khai thông được mọi điều lành. Vì mọi điều lành do nhứt tâm mà ra.

-- Xin cho ví dụ.

--Ví như nhà phải có nóc thì rui, mè, kèo, cột mới từ đó mà trùm xuống làm kín nhà. Cũng thế, người làm điều lành phải bắt gốc từ nhứt tâm thì điều lành mới trọn vẹn. Lại ví như vua xuất quân ra trận, các binh chủng như tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh thảy đều theo mệnh lệnh vua và do vua điều khiển, thì mới tiến đánh được quân giặc. Nếu không có chủ soái thì binh loạn. Các giới điều và các việc lành mà Phật nói trong kinh đều tùy nơi nhứt tâm hết. Nhứt tâm là chủ soái; giới điều và việc lành là quân binh.

Ðến đây Na tiên dẫn đọc một bài kệ:

Nhứt tâm là cội điều lành,
Y vào cội ấy tu hành mới xong.
Tử sanh nước chảy xuôi giòng,
Trước sau tiếp nối khốn hòng nghỉ ngưng.
f) Trí tuệ

Vua hỏi:


-- Bạch Ðại đức, còn trí tuệ là như thế nào?

-- Tâu Ðại vương, như đã nói ở đoạn trước, trí tuệ là "Ðoạn" và "Minh". Người có trí tuệ mới cắt đứt được (đoạn) các điều nghi ngờ và làm sáng tỏ được (minh) các điều lành. Trí tuệ là như thế đó.

-- Xin cho ví dụ.

-- Ví như đèn sáng thắp trong phòng tối. Ánh sáng ngọn đèn vừa toả ra, tức khắc bóng tối tiêu tan, phòng tự bừng rạng, trông rõ mồn một. Cũng thế trí tuệ soi suốt cả, như ánh sáng ngọn đèn soi sáng khắp phòng. Lại ví như dao bén chặt cây, lát dao đưa đến đâu, cắt đứt đến đó. Cũng thế, trí tuệ cắt đứt các điều dữ, giống như dao bén chặt ngọt. Trên thế gian nầy, trí tuệ là pháp tối thắng số một. Ai có trí tuệ mới mong độ thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi.

-- Bạch Ðại đức, các điều lành mà đại đức đã giải bày tường tận cho trẫm nghe nãy giờ gồm nhiều loại sai khác nhau, nhưng công hiệu của chúng trong việc xua đuổi các điều dữ có giống nhau không?

-- Tâu Ðại vương, các điều lành nói trong kinh Phật thảy đều cùng một công hiệu như nhau là diệt trừ tất cả các điều dữ.

-- Xin cho ví dụ.

-- Ví như bốn binh chủng: Tượng, mã, xa, bộ mà vua đốc thúc ra trận để ngự địch, không binh chủng nào giống binh chủng nào, nhưng tất cả đều cùng nhằm một mục đích chung; chiến thắng quân địch. Cũng thế, các điều lành nói trong kinh Phật, tuy chủng loại có khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến một mục đích chung đua nhau công phá và tận diệt các điều dữ.



-- Hay thay! Hay thay! Lời Ðại đức nói, quả có đúng như vậy.

(1) Bản Hán dịch ghi là: Thành tín, Hiếu thuận, Tinh Tấn, Niệm thiện, Nhứt tâm, Trí tuệ. Bản dịch Pali ghi là: Trì giới, Ðức tin, Tinh tấn, Trí nhớ, Nhập định, Trí tuệ. Trong 6 pháp thiện nầy, thứ tự và danh xưng của 2 bản Hán và Pali có sai khác nhau. Thành tín trong bản Hán tương đương với Ðức tin trong bản Pali. Trì giới trong bản Pali tương đương với Hiếu thuận trong bản Hán. Lại nữa xét về nội dung thì trong Thành Tín chỉ nói về tín tâm hay đức tin, nên ở đây chúng tôi đổi là Tín tâm. Dưới danh xưng Hiếu thuận, nội dung chỉ nói đến phương pháp rèn luyện đức hạnh, nên ở đây chúng tôi đổi lại là Trì giới.

(2) Về ba mươi bảy phẩm pháp nầy, danh xưng thông dụng ngày nay là: Tam thập thất đạo phẩm, hay tam thập thất phần pháp, hay Tam thập thất bồ đề phần pháp, hay Tam thập thất phẩm. Ðây là lương thực, là hành trang và tiền của (tư lương) của người tu hành trên con đường tiến đến niết bàn giải thoát. Gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo phần.

Bản dịch Pali ghi theo thứ tự và danh xưng: Ngũ căn, ngũ lực, Thất giác chi, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Tứ thiền, 8 phép giải thoát, 1 pháp định và 3 pháp nhập định; cọng thành 45 pháp.

Trong hai bản Hán dịch hiện có trong Ðại tạng kinh (đánh số 1670 A và số 1670 B) đều ghi con số 37 và đều cùng gọi là: Tam thập thất phẩm kinh. Có sai khác nhau về chi tiết, danh xưng và nhất là nội dung.

Bản 1670 A không ghi đủ con số 37 phẩm, 37 phẩm trong bài nầy lấy trong bản 1670 B.

(3) Bản 1670 A ghi là: Thiện sự tâm ý sở chị Gồm có: 1) quán sát trong và ngoài thân mình; 2) biết khổ hay vui của ý; 3) biết điều lành hay điều dữ của tâm; 4) biết chánh pháp.

(4) Bản 1670 A không có danh xưng riêng, chỉ nêu lên 4 điều kiềm chế ý mình: 1) không cho điều dữ lọt vào tai; 2) tâm lỡ móng điều dữ liền khử bỏ ngay; 3) tâm luôn cầu có điều lành vào; 4) tâm có điều lành phải khéo giữ lấy chớ không buông ra.

(5) Bản 1670 A ghi là: Tự tại dục sở tác. Gồm có: 1) khước dục; 2) tinh tấn; 3) chế tâm, 4) tư duy.

(6) Bản 1670 A bỏ sót không ghi.

(7) Bản 1670 A ghi là: Ngũ hiệu sự. Gồm có: 1) thành tín; 2) hiếu thuận; 3) tinh tấn; 4) tận tâm niệm thiện; 5) trí tuệ.

Như vậy là gần trùng với sáu pháp lành căn bản nói ở đoạn đầu.

(8) Bản 1670 A ghi là: Thất sự khí trừ chư ác, cũng gọi là thất thiện hay thất giác ý. Nhưng không ghi danh xưng từng điều một.

(9) Bản 1670 A ghi là: Bát chủng đạo hành, giống như trong bản 1670 B, nhưng không ghi danh xưng từng điều một.
 
 

Каталог: downloads -> giang-kinh -> kinh-khac
giang-kinh -> GIỚi thiệu kinh trung a hàM Điền Quang Liệt Định Huệ Dịch Nguồn
giang-kinh -> Kinh tứ thập nhị chưƠng tt. Thích Viên Giác Dịch
giang-kinh -> Kinh đẠi phậT ĐẢnh như lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩA
giang-kinh -> Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao
giang-kinh -> PHẬt thuyết a di đÀ kinh yếu giải giảng ký 佛說阿彌陀經 要解講記
giang-kinh -> ÐẠo phật ngày nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa
giang-kinh -> VỊ trí thánh ðIỂn hoa văn trên phật giáo thế giớI
giang-kinh -> Bàn Về Bốn Bộ a-hàm Lương Khải Siêu
kinh-khac -> Kinh hiền nhân theo lời tựa, Kinh nầy do ông Ngô-nguyệt-Chi Hán dịch, và thầy Lê-phước-Bình (ht thích Hành-Trụ) Việt dịch Nguồn

tải về 482.04 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương