Kinh mi tiên vấN ĐÁp milinda panha



tải về 482.04 Kb.
trang4/16
Chuyển đổi dữ liệu13.06.2018
Kích482.04 Kb.
#39900
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

2. Danh số


Sau khi đã được Na Tiên giải đáp về Danh (vì Ngã chỉ là cái Danh suông), vua Di Lan Ðà bèn hỏi về Số:
-- Bạch Ðại đức, nhà vua hỏi, Ðại đức tu hành trải bao nhiêu hạ lạp rồi?

-- Thưa đã bảy hạ lạp rồi.

-- Nói bảy hạ là đếm luôn cả Ðại đức vào trong đó, hay chỉ đếm riêng hạ không mà thôi? Con số bảy là con số của Ðại đức hay con số của hạ?

Trong lúc nhà vua đặt câu hỏi nầy thì bóng ông đương rọi vào ché nước bên cạnh long sàng và hiện ra rõ ràng với chiếc long bào oai nghiêm có đính đầy đồ trang sức rực rỡ. Na Tiên liền nắm lấy dữ kiện ấy mà hỏi ngược lại nhà vua rằng:


-- Tâu Ðại vương, cái bóng đương hiện ra trong ché nước kia là Ðại vương hay cái long thể đương đối diện với bần tăng là Ðại vương?

-- Bạch Ðại đức, chính trẫm mới là Ðại vương, cái bóng kia chỉ nương nơi trẫm mà có. Nó có là bởi nơi trẫm.

-- Cũng như thế đó, xin tâu Ðại vương rõ, chính số hạ mới là bảy, chứ không phải bần tăng là bảy. Nhưng số bảy ấy là nương nơi bần tăng mà có. Nó có bởi nơi bần tăng.

-- Hay thay, quả thật đúng như vậy.


3. Cách nói chuyện của hiền giả và vương giả hay điều kiện đối thoại.


Sau hai câu hỏi khai đề Danh và Số, đến đây Di Lan Ðà đi thẳng vào đối tượng chính của cuộc thảo luận. Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, trẫm muốn hầu chuyện với Ðại đức về những điểm khó trong kinh điển và về đạo lý nói chung, chẳng hay tôn ý có hoan hỷ doãn nặc cho chăng?

-- Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương đứng trên tư thế của một hiền giả mà nói chuyện (Panditavàda) thì bần tăng xin vui lòng đối đáp. Còn nếu Ðại vương đứng trên tư thế của một vương giả mà nói chuyện (Ràjavàda) thì bần tăng sẽ không có gì để đối đáp lại hết. (Ý nói: không thể có đối thoại trong điều kiện như thế)

-- Ðứng trên tư thế của một hiền giả mà nói chuyện là thế nào?

-- Tâu Ðại vương, hiền giả trong khi nói chuyện thì vừa tự dò xét lấy mình lại vừa soi sáng cho kẻ đối thoại một cách nhiệt thành. Trong câu chuyện dù đối phương viện dẫn những lý lẽ hoặc đúng hoặc không đúng, hoặc cao hoặc thấp, hiền giả vẫn không bao giờ móng tâm buồn giận bứt rứt, không hề lấy việc thắng bại làm điều và tự biết rằng trong đó ai cao trỗi hơn, ai có trí tuệ nhiều hơn. Nếu gặp phải một đối tượng quắc thước già giặn và có tài hùng biện, hiền giả cũng không vì thế mà tìm đường cản ngăn hay áp đảo bằng cách đuổi kẻ kia ra khỏi chỗ ngồi hoặc dùng xảo thuật luận lý mở trói, trói mở để thủ thắng cho kỳ được. Tâu Ðại vương, đó là cách nói chuyện của hiền giả.

-- Còn đứng trên tư thế của một vương giả mà nói chuyện là thế nào?

-- Tâu Ðại vương, vương giả trong khi nói chuyện thì thường thường hay dùng quyền thế mà áp đảo kẻ đối thoại, buộc kẻ kia phải chấp nhận quan điểm một chiều của mình. Nếu kẻ kia bất tuân, dám phát biểu ý kiến đối nghịch, thì các ngài chẳng ngại ngùng gì mà chẳng giáng chỉ bắt tội và hình phạt để nêu cao uy quyền riêng của mình, bất chấp lẽ phải và công bằng tối thiểu đối với người. Quyền uy mà các ngài hằng ngày thường sử dụng, tiêm nhiễm lâu năm thành thói quen, khiến các ngài chỉ muốn lấn lướt kẻ khác và không chịu để ai lấn lướt mình trong bất cứ trường hợp nào. Các ngài luôn luôn bị ám ảnh bởi lòng tự cao, tự đại gắn liền với quyền uy, nên chẳng nhận ra sự hơn kém trong lý lẽ viện dẫn của mỗi bên để làm sáng tỏ nội dung câu chuyện đương thảo luận. Chính cái thái độ trịch thượng, một chiều, điên rồ và nguy hiểm ấy đã là nguyên nhân bít lối đối thoại giữa đôi bên, chặt cầu thông cảm giữa đôi bờ. Tâu Ðại vương, đó là cách nói chuyện của vương giả.

-- Bạch Ðại đức, xin Ðại đức chớ ngại. Trẫm sẽ cố gắng học đòi hiền giả và đứng trên tư thế nầy mà hầu chuyện với Ðại đức. Và cũng xin Ðại đức đừng có ý nghĩ rằng Ðại đức đương đối diện với một vương giả mà tiếp chuyện. Xin ngài cứ nói một cách tự nhiên như hằng ngày ngài vẫn thuyết giảng cho tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni, ưu bà tắc hay ưu bà di nghe. Chúng ta có bổn phận phải soi sáng cho nhau. Ngài nên vững tâm, chớ e ngại gì hết. Không quấy lỗi gì đâu.

-- Tâu Ðại vương, những lời Ðại vương vừa phán rất hay và rất đúng. Ðược như thế, bần tăng mới có thể giải đáp thoải mái những câu hỏi đạo của Ðại vương được.

-- Bạch Ðại đức, vậy trẫm xin hỏi một câu.

-- Ðại vương hỏi đi.

-- Trẫm đã hỏi rồi.

-- Bần tăng đã đáp rồi.

-- Ðại đức đáp thế nào?

-- Ðại vương hỏi thế nào?

-- Trẫm không hỏi gì hết.

-- Bần tăng không đáp gì hết.

Vua Di Lan Ðà đặt câu hỏi như thế nầy là cốt để thử trí tuệ và tài hùng biện của Ðại đức Na Tiên đó thôi. Kỳ thật, câu hỏi nầy đã được nhà vua hỏi rồi trong đoạn trước.

4. Di Lan Ðà thỉnh Na Tiên vào hoàng cung


Bấy giờ, nhà vua thầm nghĩ rằng: "Vị Sa môn nầy quả thật là bậc thông minh có trí tuệ siêu việt. Ta còn nhiều điều dự định đem ra hỏi ngài. Hôm nay, trời sắp tối rồi, Mai ta sẽ cho triệu thỉnh ngài vào hoàng cung, chừng đó mặc tình mà đối đáp."

Nghĩ như thế rồi, nhà vua liền phán bảo cận thần là Ðờ Va Mang Ti Da (Devamantiya) (1) thăm dò riêng ý kiến của Na Tiên xem ngài có thuận tình không. Na Tiên khứng nhận. Nhà vua bèn rời khỏi chổ ngồi, chấp tay chào tạm biệt Na Tiên, rồi nhảy lên lưng tuấn mã mà trở về hoàng cung. Trên đường về, nhà vua như tuồng bị ám ảnh bởi hình bóng Na Tiên, cứ tơ tưởng vẫn vơ đến con người kỳ tài ấy mãi, không sao lắng quên được. Có lúc nhà vua thốt lên thành lời: "Na Tiên, Na Tiên... toàn tài!"

Sáng hôm sau, lúc mặt trời vừa mọc thì các đại thần Ðờ Va Măng Ti Da, A Năng Ta Ca Da (Anantakàya), Nơ Mít Ti Da (Nemittiya), Sa Ba Ði Na (Sapkadinna)... đến chầu vua và tâu rằng:
-- Có nên đi rước Na Tiên chăng?

-- Nên lắm, vua phán.

-- Thỉnh ngài với bao nhiêu Tỳ Kheo tăng tháp tùng?

-- Bao nhiêu cũng được. Việc ấy tùy ngài định đoạt.

Lúc ấy, Sa Ba Ði Na là quan giữ kho, tiến lên tâu rằng:
-- Xin thỉnh Na Tiên với mười vị Sa môn là đủ rồi.

-- Hãy cứ để Na Tiên tự do muốn mang theo theo bao nhiêu tùy ý, Vua phán.

Sa Ba Ði Na ba lần tâu. Nhà vua ba lần từ chối. Cuối cùng nhà vua nổi giận phán rằng:
-- Nhà ngươi thật là người keo lẫn không ai bằng. Hèn chi tên nhà ngươi là Sa Ba Ði Na! ("Sa ba đi na" nghĩa là keo lẫn). Ngươi tiếc của của nhà vua một cách thái quá. Nếu là của riêng của ngươi, ngươi còn tiếc đến bực nào? Vật thực ở trong hoàng cung có nhiều. Làm đến bực đế vương như trẫm mà không nuôi nổi tất cả chư vị Sa môn hay sao?

Sa Ba Ði Na nghe vua quỡ mắng, tự lấy làm hổ thẹn, chẳng dám thốt ra lời. Trong khi đó, Ðờ Măng Ti Da, A Năng Ta Ca Da với các vị thần khác cùng nhau đi đến chỗ ở của Na Tiên để cung thỉnh ngài vào hoàng cung.

Na Tiên hỏi:
-- Tôn ý đức vua muốn bần tăng đến với bao nhiêu Sa môn?

-- Bạch Ðại đức, đến với bao nhiêu cũng được.

Na Tiên bấy giờ đã chuẩn bị xong, mình choàng cà sa, tay ôm bình bát, cùng đi vào thành Sá Kiệt (Sakàla) với 80 vị tỳ kheo tháp tùng.

Dọc đường, A Năng Ta Ca Da đi hộ vệ cạnh Na Tiên để lân la hỏi đạo, bèn bạch rằng:


-- Bạch Ðại đức, hôm qua ngài có nói với đức vua rằng ngài tên là Na Tiên; sau đó ngài phủ quyết lại rằng không có Na Tiên. Vậy chớ ai là Na Tiên? Cái gì là Na Tiên?

-- Theo ông nghĩ cái gì là Na Tiên?

-- Theo tôi nghĩ, hơi thở tức mạng khí có vô có ra, chính đó là Na Tiên. Vì nhờ hơi thở đó mà sanh mạng được duy trì.

-- Nếu hơi thở kia có ra mà không có vô thì người có hơi thở ấy có sống không?

-- Người ấy chắc chắn phải chết.

-- Hơi thở của người thổi kèn, thổi sáo, hay thổi ống bễ thợ rèn, hơi thở đó ra rồi có trở vô không?

-- Thưa không.

-- Thế thì những người ấy sống hay chết?

A Năng Ta Ca Da sửng sờ ngơ ngác không biết nói sao. Giây lâu mới bạch lại rằng:
-- Bạch Ðại đức, trí tuệ của Ðại đức thật là siêu việt. Tôi không đủ thông minh để hiểu thấu. Xin Ðại đức khai thị giúp cho.

-- Này Ðại quan, hơi thở chẳng qua cũng chỉ là một phần việc trong nhiều phần việc của thân thể mà thôi. Cũng như phần việc của cái lưỡi là nói ra những điều gì mình suy nghĩ, mình cảm hay phần việc của cái ý là suy tư những điều gì xúc,... Mỗi bộ phận trong cơ thể đều có phần việc của nó. Ðó là điều được mệnh danh là "thân hành" hằng trú trong năm uẩn, nhất là trong Sắc uẩn. Phân tách các hành tướng của thân hành thì thấy toàn là trống không, vì vậy mà nói rằng: Không có Na Tiên.

A Năng Ta Ca Da nghe Na Tiên giảng giải, tâm ý dần sáng tỏ và thông suốt. Ông bèn xin thọ trì năm giới và trở thành tín đồ Ưu bà tắc.

(1) Bản Hán dịch phiên âm là Triêm Di Lỵ Vọng Quần, và còn gọi là Triêm Di Lỵ .
 
 


Каталог: downloads -> giang-kinh -> kinh-khac
giang-kinh -> GIỚi thiệu kinh trung a hàM Điền Quang Liệt Định Huệ Dịch Nguồn
giang-kinh -> Kinh tứ thập nhị chưƠng tt. Thích Viên Giác Dịch
giang-kinh -> Kinh đẠi phậT ĐẢnh như lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩA
giang-kinh -> Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao
giang-kinh -> PHẬt thuyết a di đÀ kinh yếu giải giảng ký 佛說阿彌陀經 要解講記
giang-kinh -> ÐẠo phật ngày nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa
giang-kinh -> VỊ trí thánh ðIỂn hoa văn trên phật giáo thế giớI
giang-kinh -> Bàn Về Bốn Bộ a-hàm Lương Khải Siêu
kinh-khac -> Kinh hiền nhân theo lời tựa, Kinh nầy do ông Ngô-nguyệt-Chi Hán dịch, và thầy Lê-phước-Bình (ht thích Hành-Trụ) Việt dịch Nguồn

tải về 482.04 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương