Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức



tải về 323.38 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu23.07.2016
Kích323.38 Kb.
#2536
1   2   3   4

Tín
Tìn là tin nơi Đức Phật Thích Ca không nói dối, chắc thật rằng về Phương Đông qua mười Căn dà sa cõi Phật thật có Phật Độ tên là tịnh Lưu Ly. Và tin rằng Đức Phật Dược Sư phát ra những Đại Nguyện đó không phải là những lời nguyện suông. Và Tin vững chắc rằng nếu chúng ta thật hành theo giáo Pháp mà Phật Thích Ca đã chỉ dạy và dùng những công đức đó hồi hướng mà nguyện sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly thì chắc chắn rằng sẽ được vãng sanh.
Nguyện
Cõi Ta Bà là một uế độ, nên nguyện xã bỏ mà cầu sanh về thế giới của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Nguyện xin xót thương chúng con trôi lăn trong bể khổ mà tiếp dẫn con về thế giới Y Báo và Chánh Báo trang nghiêm tuyệt diệu của Ngài. Để gần Phật nghe Diệu Pháp Chơn Như, để vĩnh viễn không còn sanh lại ba cõi sáu đường nữa.
Hạnh
Là chấp trì danh hiệu Phật "Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật" niệm cho thanh tịnh và bao công đức đã làm điều hồi hướng và nguyện sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly. Ai làm như vậy, nhứt định khi lâm chung Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và đại chúng sẽ tiếp dẫn bạn về thế giới của Ngài. Lại nữa, quí vị niệm danh hiệu của Ngài mà đem công đức đó hồi hướng về thế giới Cực Lạc ở Phương Tây của Đức Từ Phụ A Di Đà thì cũng được tọai.
Lúc ấy Ðức Thế Tôn lại bảo ông Mạn Thù Thất Lợi đồng tử rằng:" Có những chúng sanh không biết điều lành dữ, cứ ôm lòng bỏn xẻn tham lam, không biết bố thí mà cũng không biết quả báo của sự bố thí là gì, ngu si vô trí, thiếu hẳn đức tin, lại ham chứa chất của cải cho nhiều, đêm ngày bo bo gìn giữ, thấy ai đến xin, lòng đã không muốn, nhưng nếu cực chẳng đã phải đưa của ra thì đau đớn mến tiếc, dường như lóc thịt cho người vậy. Lại có vô lượng chúng hữu tình tham lẫn, chỉ lo tích trữ của cải cho nhiều mà tự mình không dám ăn tiêu, còn nói chi đến sự đem của ấy thí cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ và những kẻ nghèo hèn đến xin. Những kẽ tham lẫn ấy,khi chết bị đọa vào đường ngạ quỷ hay bàng sanh. Mặc dầu ở trong ác thú, nhưng nhờ đời trước, sống trong cõi nhơn gian đã từng nghe qua danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà nay lại còn nhớ niệm đến danh hiệu Ngài thì liền từ cõi ấy thoát sanh trở lại làm người. Khi đã được làm người lại nhớ đến kiếp sống trong đường ngạ quỷ súc sanh, biết sợ sự đau khổ nên không ưa đắm mình trong dục lạc mà còn muốn tự mình làm việc bố thí, không tham tiếc món gì và lần lần có thể đem cả đầu, mắt, tay chân hay máu thịt của thân phần mình mà bố thí cho những kẻ đến xin cũng được, huống chi là của cải là những vật thừa.
trên nói về Y Báo và Chánh Báo của Phật Dược Sư Lưu Lưu Ly Quang Như Lai rồi. Phật nay sẽ nói cho Mạn Thù Thất Lợi đồng tử biết về oai thần Lực mà người xưng danh hiệu ngài hưởng được những điều lợi không thể nghĩ bàn cho được. Đồng Tử theo nghĩa đen thì hiểu là trẻ thơ, nhưng ở đây là nghĩa người thanh tịnh Phạm hạnh trang nghiêm như là trẻ thơ, không dính bụi trần, ý nói tâm người thật là thanh tịnh, không có tâm dâm dục.
" duy hoài tham lẩn" là tâm của chúng sanh không những tham lam mà còn bỏn xẻn. Tham lam tức là muốn mình có, bỏn xẻn là mình đã có nhưng không muốn chia sẻ cho bất cứ một ai.
"Bất tri Bố Thí, cập thí quả báo" là không biết phước quả của sự bố thí ra sao? Bố thí là một trong Lục Độ của Bồ Tát đạo, dịch từ tiếng Phạn từ Đàn-na. Có những chúng sanh ngu si như vậy từ sáng chiều chỉ lo gìn giữ của cải, không dám tự mình tiêu xài huống chi là lấy của ấy ra mà bố thí cho kẻ khác. Những hạng người như vậy sau khi chết sẽ sanh vào đường ngạ quỷ hoặc là Súc sanh. Tuy đọa lạc trong chốn ác đạo mà nhớ lại được danh hiệu Phật đã từng nghe trong đời quá khứ đã là khó rồi mà lại phát tâm xung niệm danh Phật lại càng khó hơn. do nhờ tâm thanh tịnh như vậy, liền chết sanh lại loài người và nhớ đến những sự thống khổ trong đường ác đạo. Nên phát tâm hoan hỷ ca tụng sự bố thí mà còn chính mình làm sự bố thí. Cả thân thể còn buông xã huống gì là những tài vật ư.
Giống như chúng ta đều có Phật tánh, nhưng lại không biết nên làm những việc không có trí tuệ, tham sân si tạo ra vô số thứ nghiệp trôi lăn trong bể khổ mà cho đó là an vui. Khi đọa lạc rồi mới biết đó là sai nhớ đến, niệm phật nhờ công đức niệm Phật hiệu nên sanh vào loài người. Lại nhớ đến những thứ khổ trong đường ác nên sanh tâm biết đủ không còn tâm tham lam.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, trong chúng hữu tình nếu có những người nào thọ các giới của Phật để tu học mà lại phá giới hoặc không có kẻ không phá giới mà lại phá phép tắc, hoặc có kẻ tuy chẳng phá giới và phép tắc mà lại hủy hoại chánh kiến, hoặc có kẻ tuy không hủy hoại chánh kiến mà lại bỏ sự đa văn nên không hiểu được nghĩa lý sâu xa trong kinh Phật nói, hoặc có kẻ tuy đa văn mà có thói tăng thượng mạn ấy che lấp tâm tánh, cố chấp cho mình là phải, người khác là quấy, chê bai chánh pháp, kết đảng với ma. Những kẻ ngu si ấy tự mình đã làm theo tà kiến mà lại còn khiến cho vô số ức triệu chúng hữu tình cũng bị sa vào hố nguy hiểm. Những chúng hữu tình ấy bị trôi lăn trong các đường ngạ quỷ bàng sanh không khi nào cùng. Nhưng nếu nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì họ liền bỏ những hạnh dữ tu theo các pháp lành, khỏi bị đọa vào vòng ác thú nữa. Giả sử có người không thể bỏ những hạnh dữ và không tu theo những pháp lành mà phải bị đọa vào trong ác thú thì cũng nhờ oai lực bổn nguyện của đức Dược Sư khiến cho họ, khi tạm nghe được danh hiệu Ngài, liền từ nơi ác thú mạng chung, trở sanh vào cõi người, được tinh tấn tu hành trong sự hiểu biết chơn chánh khéo điều hòa tâm ý, bỏ tục xuất gia thọ trì và tu học theo giáo pháp của Như Lai, đã không hủy phạm lại thêm chánh kiến đa văn, hiểu rõ nghĩa lý sâu xa lìa được thói tăng thượng mạn, không chê bai chánh pháp, không bè bạn với ma, dần dần tu hành theo hạnh Bồ tát chóng được viên mãn.
Phép tắc là những quy cũ. Chánh kiến là sự thấy đúng như thật không phải tà kiến là sự hiểu không chơn chánh. Đa văn là học rộng nghe nhiều vì huỷ hoại sự đa văn nên không thông hiểu được Phật Pháp. Tại sao có người lại hủy hoại sự đa văn? Vì họ tự cho mình là người thông minh vì có sự thông minh đó nên sanh ra tâm tăng thượng mạng, cống cao, tự tại nên che lấp bản tánh chơn như thường hằng trong tâm họ. Cho mình là đúng người khác là sai.
Chê bai Chánh Pháp làm bạn với ma. Không những họ đã sai mà họ lại làm cho chúng hữu tình giống như họ, vì làm chúng hữu mất đi con mắt trạch Pháp nên phải chịu trôi lăn trong đường ác để trả quả báo. Những người nầy khi nghe được oai thần bổn nguyện của đức Dược Sư khiến cho họ từ trong ác đạo mạng chung, sanh vào cõi người tinh tấn tu hành, hiểu biết một cách chơn chánh, xả tục xuất gia tu theo hạnh Bồ Tát.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu chúng hữu tình có tánh tham lam tật đố, hay khen mình chê người thì sẽ bị đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, phải chịu nhiều sự đau đớn khổ sở, trải qua không biết mấy nghìn năm mới hết. Khi đã mãn sự đau khổ kia, liền từ nơi đó mạng chung sanh lại cõi người phải làm thân trâu, ngựa, lừa, lạc đà, thường bị người hành hạ, đánh đập và bị đói khát dày vò, lại phải đi dường xa chở nặng, cực nhọc muôn phần; còn như may đặng làm thân người thì lại bị sanh vào hạng hạ tiện phải làm tôi tớ cho kẻ khác, mãi bị họ sai sử không khi nào được chút thong thả tự do. Nếu những nhơn đạo đã từng nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thi do cái nhơn lành ấy, ngày nay nhớ lại, chí tâm quy y Ngài, nhờ thần lực của Ngài gia bị mà thoát khỏi mọi sự khổ não, các căn thông lợi, trí huệ sáng suốt lại thêm đa văn, hằng cầu thắng pháp, thường gặp bạn lành, đời đời dứt hẳn lưới ma, đập nát vỏ vô minh, tát cạn sông phiền não, mà được giải thoát khỏi nạn sanh, lão, bệnh, tử và những nổi đau khổ lo buồn.
Khen mình chê người khác tội rất nặng, cho nên người học Phật cần phải xét kỷ. Chúng ta là người học đạo phải bỏ đi những thứ tánh xấu này. Chúng ta phải khen ngợi người khác, vì sao? Vì việc đó giúp cho họ cảm thấy vui vẻ mà tinh tấn làm những việc thiện. Hãy quên đi những gì mình đã làm dù nó là chuyện tốt. được như vậy mới thật là việc tốt.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu chúng hữu tình có tánh ưa sự ương ngang trái chia lìa, tranh đấu, kiện cáo lẫn nhau, làm não loạn cho mình và người, đem thân, khẩu, ý tạo thêm mãi những ác nghiệp, xoay qua trở lại, thường làm những việc không nhiêu ích để mưu hại lẫn nhau, hoặc cáo triệu những thần ở núi, rừng, cây; mã, để hại người, hoặc giết chúng sanh lấy huyết thịt cúng tế quỷ Dược xoa và quỷ La sát để cậy quỷ hại người, hoặc biên tên họ và làm hình tượng của người cừu oán rồi dùng phép chú thuật tà ác mà trù ẻo cho chết, hoặc theo lối ếm đối với những đồ độc, hoặc dùng chú pháp hại mạng người. Nếu chúng hữu tình bị những tai nạn ấy mà nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì các thứ tà ác kia không thể hại được. Tất cả những kẻ ác tâm kia đều trở lại khởi lòng từ làm việc lợi ích an vui cho kẻ khác, không còn ý tổn não vào tâm hiềm giận, hai bên hòa hảo với nhau. Và đối với vật thọ dụng của ai thì người ấy tự vui mừng biết đủ, không xâm lấn của nhau mà lại còn giúp đỡ lẫn nhau nữa.
Gây mãi cho nhau những sự bất lợi để mưu hại lẫn nhau... (triển chuyển thường vi bất nhiêu ích sự, hỗ tương mưu hại) Dạ xoa (yaksha) một loại quỉ ăn thịt người, mạnh, nhanh, khó lường, ở trên mặt đất, trong không gian và trên trời. La sát (raksasa) tên chung các ác quỉ, ăn uống máu thịt loài người, bay trong không trung hoặc đi trên đất.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu trong hàng tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, ưu Bà tắc, Ưu Bà Di và những kẻ thiện nam, tín nữ đều có thọ trì tám phần trai giới, hoặc trong một năm, hoặc mỗi năm ba tháng, vâng giữ giới pháp, làm nơi y chỉ tu học rồi đem căn lành này nguyện sanh về chỗ Phật Vô lượng thọ ở thế giới Cực Lạc Tây Phương đặng nghe chánh pháp, nhưng nếu chưa quyết định, mà nghe được danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì khi mạng chung sẽ có tám vị Ðại Bồ tát như: Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Ðắc Ðại Thế Chí Bồ tát, Bảo Ðàn Hoa Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát từ trên không trung đi đến đưa đường chỉ lối cho thì liền được vãng sanh trong những hoa báu đủ màu.
Phật bảo, nếu trong hàng tứ Chúng nếu có ai phát tâm thanh tịnh thọ trì tám phần trai giới trong một năm(nhứt niên), hoặc một năm ba tháng (tam ngoạt) mà đem công đức đó nguyện sanh về thế giới Cực Lạc của đức A Di Đà, nhưng ngưuời ấy chuư quyết đìịnh sau khi chết sẽ tám vị đại Bồ tát đến đưa đường chỉ dẫn thì liền được vãng sanh vào trong những thứ hoa báu đủ màu sắc.
Tám phần trai giới là những gì? Đó là:
Thứ Nhứt: Không sát sanh

Thứ Hai: Không Trộm Cắp

Thứ Ba: Không Dâm Dục (tại gia không tà dâm)

Thứ Tư: Không Nói Láo

Thứ Năm: Không Uống Rượu

Thứ Sáu: Không trang điểm

Thứ Bảy: Không hát múa đàn

Thứ Tám: Không nằm ngồi giường cao rộng tốt


Đó là tám thứ giới, trai là không ăn quá ngọ (bất thời phi thực) nên gọi là Bát Quan Trai.
Có người hỏi tôi tám phần giới đó đối với người tại gia thì từ giới thứ sáu đến thứ tám thì người tại gia không thọ thôi còn những Thầy xuất gia đã giữ trọn gồm tám phần gìới đó rồi cần chi phải thọ trì trong một năm hay ba tháng?
Phải, những phần giới đó, người xuất gia đã thọ rồi, tuy nhiên Tám Phần Trai Giới(Bát Quan Trai) ở đây khác với tám giới của người xuất gia, giới thì vẫn giống nhau nhưng phần thọ thì lại khác. Tám phần trai giới này khi thọ cần phải tụ lại một chỗ, trong thời gian thọ giới không được rời khỏi Già Lam. Còn tám giới kia khi thọ quí vị chỉ cần giữ giới là được, không nhứt thiết là ở đâu.
Văn Thù Sư Lợi dịch từ Manjushri,

Quán Thế Âm dịch từ Avalokitesvara,

Đại Thế Chí dịch từ Maha srhama prapta,

Vô Tận Ý dịch từ Akohayamati,

Bảo Đàn Hoa dịch từ Pouh thang tha,

Dược Vương dịch từ Bhaishajyaraja,

Dược Thượng dịch từ Bhaisajyasamudgata,

Di Lặc dịch từ Maitreya.


Hoặc nếu có kẻ, nhơn nguyện lực của đức Dược Sư mà được thát sanh lên cõi Trời nhưng nhờ cái căn lành sẵn có ấy chưa hết thì không còn sanh lại những đường ác nữa. Khi tuổi thọ ở cõi Trời đã mãn, sanh lại trong cõi người thì, hoặc làm đến bậc Luân vương, thống nhiếp cả bốn châu thiên hạ, oai đức tự tại, giáo hóa cho vô lượng trăm ngàn chúng hữu tình theo con đường thập thiện, hoặc sanh vào giòng Sát đế lỵ, Bà la môn hay cư sĩ đại cô, của tiền dư dật, kho đụn tràn đầy, tướng mạo đoan trang, quyến thuộc sum vầy, lại được thông minh trí huệ, dõng mãnh oai hùng như người đại lực sĩ. Còn nếu có người phụ nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà hết lòng thọ trì danh hiệu ấy thì đời sau sẽ không làm thân gái nữa.
Nhơn nguyện lực của Phật Dược Sư. Giống như có chúng sanh tạo nghiệp ác, họ không những không tin nhân quả mà còn làm những điều bất thìện nữa, nên phải chịu đọa lạc vào đường ác. Tuy nhiên, những hạng người nầy, gặp cơ duyên nghe được danh hiệu của đức Phật Dược Sư. Do bổn nguyện lực của Phật muốn cho chúng sanh hết khổ, nên nhờ nghe được danh hiệu Phật mà sanh vào cõi Trời. Nhờ căn lành đã có nên chúng sanh nầy không còn sanh vào ba đường ác.Khi Tuổi thọ ở cõi Trời đã hết, sanh vào loài người làm đến bậc Luân Vương, làm chủ cả bốn Châu Thiên Hạ.
Bốn Châu Thiên Hạ là bốn phía:
Phía Đông là Thắng Thần Châu (Đông Thắng Thần Châu)

Phía Nam là Thiệm Bộ Châu (Nam Thiệm Bộ Châu)

Phía Tây là Ngưu Hóa Châu (Tây Ngưu Hóa Châu)

Phía Bắc là Cưu Lư Châu (Bắc Cưu Lô Châu)


Chuyển Luân Vương vị này có bảy thứ báu. Bảy thứ báu đã nói phần trên, vị này cai quản hết bốn phía. Luân là bánh xe. Luân vương có bốn loại bánh xe khác nhau. Bốn loại đó là gì? Đó là bánh xe sắt, bánh xe đồng, bánh xe bạc và bánh xe vàng.
Luân Vương có bánh xe sắt thời thống trị 1 đại châu về phía Nam.

Luân Vương bánh xe đồng thời thống trị 2 đại Châu về phía Nam và phía Tây.

Luân Vương bánh xe Bạc Thời thống trị 3 đại Châu, về phía Nam, phía Tây và phía Đông.

Riêng chỉ Luân Vương xe Vàng thời vị này thống hết 4 đại Châu Thiên hạ


Mười việc thiện (thập thiện) lại chia ra thành ba phần. Thân có ba thiện, Khẩu có bốn thiện và ý có ba thiện.
Thân có ba thiện là:

Không sát sanh

Không Trộm Cướp

Không Dâm Dục (tại gia cấm tà dâm)


Miệng có bốn thiện là:
Không nói dối

Không nói lời thêu dệt

Không nói hai lưỡi (đôi chiều)

Không nói lời ác


Ý có ba thiện là:
Không Tham lam

Không Sân hận



Không sanh tâm ngu si (không tà kiến).
Sát Đế Lợi là hàng vua chúa, Bà La Môn là hàng Đạo Sĩ, người Trung Hoa dịch là Tịnh Duệ vì họ cũng tu hành hạnh thanh tịnh, không hành dâm dục. Cư Sĩ là người tu hành tại gia. Đại Cô là sanh vào trong những gia đình thế tộc lớn. Trong đây viết là Cô(phụ nữ) nhưng theo tôi thì nó có nghĩa là vị này tuy sanh vào trong gia đình thế lớn, mang theo lòng Từ Bi mà đến cứu độ chúng sanh.
Nhờ thiện căn đó mà sanh lại trong cõi người sanh vào gia đình giàu sang, của tiền không lúc nào bị thiếu hụt. Sao gọi là tướng mạo đoan nghiêm, vì tướng mạo người này đẹp đẽ, ai ai nhìn thấy cũng vui mừng.và có công năng khiến loài hữu tình nhìn thấy thì phát tâm tu hành, lìa ba độc. Không những nó không làm cho loài hữu tình đấm nhiễm trước sắc trần, mà sanh ra tâm dâm dục.Trái lại nó giúp cho loài hữu tình phát tâm tu học giữ gìn phạm hạnh.
"Thân Quyến Cận Sở" là người trong thân quyến sinh sống gần nhau, không xa lìa như một trong tám thứ khổ đã nói "Ái Biệt Ly".
"Trí Huệ (Bát Nhã)" người có trí huệ thời không làm những việc hồ đồ. Chúng ta là những chúng sanh không có trí tuệ, nên làm những việc hồ độ kết quả bị trôi lăn trong vòng sinh tử. Trí tuệ có Thế Gian Trí và Xuất Thế Gian Trí, Cái gì gọi thế là gian trí? là chúng ta có thể biện luận và nói ra ý nghĩa của nó. Xuất Thế trí là người thông suốt nhân quả và hiểu biết các Pháp vốn là như vầy. Biết được cõi đời vốn là như vậy, nó chỉ tạo thành bởi nhân duyên và nghiệp rồi cũng theo đó mà biến mất theo thời gian. Lúc nào cũng làm lợi ích cho loài hữu tình.
Đối với tôi hoàn toàn không có được một phần trí tuệ thế gian hay xuất thế gian. Tại sao tôi biết? Vì nếu như tôi có trí tuệ (thế gian) thì tôi không bị người khác khinh thường và tìm cách xa tôi. Những việc của thế gian, tôi không thấu rõ thì làm sao có thể biện luận được. Khi còn học ở trường Tiểu Học và Trung Học sự biểu hiện của tôi thật là ngu dốt, ngu đến nỗi tôi còn biết huống hồ là người bên cạnh tôi ư? Những người bạn tôi, họ đều tìm cách để xa tôi. Có người khinh thường tôi vì tôi quá ngu si. Nhưng tôi không cảm thấy buồn vì những hành động đó. Vì biết tôi đã trải qua bao kiếp làm những việc hồ đồ gieo nhân cho chúng sanh chịu khổ, không trồng được thiện căn thì làm sao có trí huệ được ư? Tâm tôi thật là hoan hỷ vì tôi còn biết được mình là người ngu để tránh gieo trồng ác nghiệp, tránh nhận quả ác mai sau.
Đối với trí huệ xuất thế, tôi cũng không thông suốt, đọc kinh không làm sao hiểu được nghĩa lý trong kinh. Đọc qua thời không nhớ được một câu nào . Khi nói ra việc gì trong vài phút thì lại quên mất. Cho nên những gì tôi giảng trong pháp hội hôm nay quí vị hãy nhớ kỷ, vì nếu có ai hỏi lại thì tôi hoàn toàn không biết mình đã giảng cái gì? Quên cũng đúng thôi, vì trên cõi đời này có quá nhiều cái nhớ nên có quá nhiều thứ khổ mà chúng ta phải nhận lấy. Quên là xong, đừng tri cầu quá khứ cũng đừng trông mông ở tương lai. Quá khứ đã vùi trong lòng đất, tương lai như bọt nước chẳng có gì cần phải truy tìm. Sống hôm nay thì nên biết việc làm của mình hôm nay, qua sáng hôm sau thì phủi sạch tâm trí để sống cho trọn ngày ấy. Sống như vậy thời chúng ta mới thật hưởng một phần chơn lạc.
"đại lực sĩ" là người có sức lực khoẻ mạnh. Không như chúng ta có đủ những thứ bịnh khổ, có bịnh tức là không có khỏe rồi.
Phụ nữ nhàm chán thân nữ nên chí thành mà niệm danh hiệu Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì về đời sau sẽ không làm nữ nhân nữa.
Oai lực của đức Dược Sư Như Lai làm lợi ích cho chúng sanh không thể nghĩ bàn, nên chúng ta cần phải thường niệm danh hiệu của Ngài cũng là nói lên ngôn từ biết ơn đới với Đức Như Lai vì chúng sanh ngu muội mà phải mệt nhọc phương tiện giáo hóa chúng sanh.
Này Mạn Thù Thất Lợi! Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia khi đã chứng được đạo Bồ đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bịnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, hoặc trúng phải những thứ ếm đối, đồ độc, hoặc bị hoạnh tử, hoặc bị chết non.
Đức Phật cho Ngài Mạn thù Thất Lợi biết rằng, khi đức Dược Sư Như Lai thành Phật rồi do sức đại nguyện xưa của Ngài, Đức Thế Tôn kia quán sát thấy chúng sanh chịu nhiều thứ bịnh khổ, bị những thứ bùa ếm, thuốc độc, chết non, hoặc là bị hoạnh tử.

Bùa ếm là một thứ bùa nó trù người cho đến khi chết, dùng tên, ngày tháng năm sanh của người đó hoặc tạo một hình nộm làm bùa trong đó để ếm.Nói đến đây tôi nhớ lại câu chuyện của một Phật tử quy y của tôi.

Phật Tử này theo mẹ về thăm quê ngoại, có gia đình quen biết nhà đình anh ta.Họ muốn gá cô con gái của họ cho anh ta, nhưng anh ta chỉ xem cô như là em trong gia đình. Tuy nhiên, gia đình không bỏ ý mà tìm đủ mọi cách để cho anh ta cưới bằng được cô ấy. Họ mua chuộc bùa chú của người Miên ở Châu Đốc gì đó, rồi gá vào trong một tượng Phật bằng đồng rồi gọi anh ta đến nhà chơi, họ hỏi anh ta "Có biết tượng Phật này là ai không?" anh ta kể: "khi thấy tượng Phật thì con, hình như bị ai đó dùng gậy gõ vào đầu con và làm cho con choáng dáng cả mặt mày". Phật tử này nói hễ thấy tượng Phật thì tâm anh ta thật hoan hỷ và vui vẻ, sao nay thấy tượng Phật lại cảm thấy khó chịu và muốn quay về nhà. Anh ta không trả lời và mặt anh cúi xuống. Vài ngày sau vị Phật Tử này hình mạo xanh xao biến ăn biến ngủ đi bác sĩ chuẩn đoán thì chẳng có bịnh gì, mẹ anh ta lo buồn và nghe lời người thân đi bói toán coi thầy gì đó. Vị đó cho hay là anh ta bị bùa, gãi. Phật tử này không tin, anh ta nói, lúc trở về anh vội vào chùa Phước Sơn gần gũi Tam Bảo trì chú đại bi trong tuần lễ thì anh ta cảm thấy khỏe hơn lúc trước. Tuy vẫn mất 2 ký lô trong thời gian đó. nhưng anh cảm thấy rất là khỏe, tâm trạng vui vẻ. Sau đó ở chơi một tuần nữa thì trở về nước.
Quí vị có tin là chuyện ấy có thật không? theo tôi anh ta không phải bị ếm với sự trù ẻo cho đến chết mà là làm cho anh nghe lời và thương cô con gái của họ.

Đúng vậy! Nếu thật sự là bị bùa bỏ vào tượng phật kia, khi anh ta thấy tượng Phật cảm thấy choáng dáng chính là do phản chiếu mà ra, vì Phật tử thường trì tụng kinh điển, chú lăng Nghiêm, Đại Bi nên có sự gia bị của Phật, khiến anh cảm thấy buồn mà muốn quay về.

Hôm nay trong Pháp Hội này tôi xin khai thị cho quí vị biết, chú rất là linh nghiệm và có sức diệt hết mọi thứ khổ, công năng của nó không thể nghĩ bàn, nên quí vị cần phải phát tâm trì tụng chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm, thập chú..... Nếu có ai trì tụng một cách thành tâm và tin chắc, thời tôi bảo đảm cho quí vị sẽ không bị bùa ếm của ngoại đạo làm hại quí vị được. Nếu không như vậy, thời tôi là người nói láo để gạt người khác, không đáng ngồi đây để giảng kinh cho quí vị nghe. Tuy nhiên phải đem thân khẩu ý thanh tịnh mà tụng kinh trì chú và cần phải thành tâm với lòng tin tưởng. Nếu chỉ tụng trì kinh chú trong một giờ, còn những giờ khác đem thân tạo ác, miệng thì chửi mắng, ý sanh tham thời không thể cảm ứng đạo giao được.

"Cô Độc"(thuốc độc) là người chết vì thuốc độc.

Hoạnh tử là chết bất ngờ không hay biết. Hoặc bị xe tông mà chết, rớt núi mà chết, chìm tàu mà chết ,rớt máy bay mà chết v.v..nghĩa là chết bất đắc kỳ tử (tuổi thọ chưa hết) vậy. Lại cũng có nghĩa, chết trong hoàn cảnh dữ giống như chết trên chiến trường và chết vì bom đạn. Tóm lại, đều là những thứ ác nghiệp mà chúng ta đã trồng trong đời quá khứ, nên nay phải thọ quả khổ ác.

" Yểu tử" là chết non, tại sao có người sống đến trăm năm, tám mươi năm , và có người sanh ra rồi chết, và có người chỉ sống được 10 năm, 20 năm. Người chết non đều là do đời trước phạm tội sát sanh quá nhiều nên nay trả quả phải chết non. Ai muốn mình sống bằng tuổi của người thì trước tiên phải biết quí mạng sống của chúng sanh khác.

Muốn những chứng bệnh đau khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, Ngài liền nhập định, kêu là " định diệt trừ tất cả khổ não chúng sanh". Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồn ánh sáng lớn, luồng ánh sáng ấy nói chú đại đà la ni:
Sau khi Đức Dược Sư Thế Tôn quan sát thấy rõ những thứ khổ của chúng sanh phải chịu như vậy, và muốn cho chúng sanh diệt được những thứ khổ đó và đáp ứng được sự mong đợi của loài hữu tình được mãn nguyện, Phật liền nhập Tam Muội và định này tên là "diệt trừ tất cả khổ não của chúng sanh".
Nhục kế là một trong ba mươi hai tướng hảo của Phật. Nhục là thịt, kế là búi tóc, chính là núm thịt nổi cao lên màu đỏ trên đỉnh đầu Phật trông giống như đùm tóc bới. Từ nhục phóng ra luồng ánh sáng lớn và trong ánh sáng Phật phóng ra, lại diễn thuyết Đà Ra Ni.
Đà ra ni dịch là Tổng Trì nghĩa là nắm giữ hết tất cả. Đà ra ni là do dụng công tu tập thiền định mà có. Đà Ra Ni ở đây dịch là chú, là một trong bốn loại Đà Ra Ni.(Văn đà ra ni, Nghĩa đà ra ni, Chú đà ra ni, và Nhẫn đà ra ni)
Nam mô bạt già phạt đế, bệ sát xã, lu lô tịch lưu ly, bác lặc bà, hát ra xà dã. Ðát tha yết đa ra, a ra hắc đế. Tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
Chú là những mật ngôn của chư Phật chúng ta không thể nào hiểu được ý nghĩa đó, tuy nhiên chúng có thể hiểu đại khái như sau:
"Nam mô" có sáu nghĩa: Kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng.
"Bạt Già Phạt Đế"bhagavate dịch là đấng phước trí vẹn toàn (Thế Tôn).
"Bệ sát xã" là Dược Sư.
" lu lô tịch lưu ly, bác lặc bà, hát ra xà dã" Lưu Ly Quang.
'Ðát tha yết đa ra" tức là Như Lai.
"a ra hắc đế" (A la hán) tức là Ứng Cúng.
'Tam miệu tam bột đà da" tức là Chánh Biến Tri.
"đát điệt tha" là chú thuyết như vầy (tức thuyết chú viết).
Phần chú viết chúng ta không hiểu nên không thể giảng tuy nhiên tôi cố gắng dịch nghĩa cho quí vị, chắc chắn không đúng với diệu dụng của câu chú.
"Án" là Thành tựu (chữ án này khi phát ra thì tất cả pháp giới đều phải định chỉ và tuân theo).
" bệ sát thệ" Nguyện rộng lớn
"bệ sát xã" Diệt hết khổ
"tam một yết đế tóa ha" tam thế tán tức giai giải thoát (tam đời khen ngợi tức thành tựu)(pháp mầu nhiệm có công năng diệt trừ nhứt thiết khổ, tất cả chúng sinh hành theo nhứt định đến được bến bờ bên kia).


Каталог: downloads -> giang-kinh
giang-kinh -> Chú Giải Kinh Kim Cang Và Chánh Pháp Chưa Từng Có ht. Huyền VI
giang-kinh -> GIỚi thiệu kinh trung a hàM Điền Quang Liệt Định Huệ Dịch Nguồn
giang-kinh -> Kinh tứ thập nhị chưƠng tt. Thích Viên Giác Dịch
giang-kinh -> Kinh đẠi phậT ĐẢnh như lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩA
giang-kinh -> Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao
giang-kinh -> PHẬt thuyết a di đÀ kinh yếu giải giảng ký 佛說阿彌陀經 要解講記
giang-kinh -> ÐẠo phật ngày nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa
giang-kinh -> VỊ trí thánh ðIỂn hoa văn trên phật giáo thế giớI
giang-kinh -> Bàn Về Bốn Bộ a-hàm Lương Khải Siêu
giang-kinh -> Sự Thành Lập Kinh Điển Phật Giáo Daisaku Ikeda (The First Mileage of Buddhism) Nguyên Hảo dịch Nguồn

tải về 323.38 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương