Kinh Bát Nhã Trực Chỉ Đề Cương ht từ Thông o0o Nguồn


X. NGƯỜI ĐỆ TỬ PHẬT PHẢI LÀM GÌ ĐỂ CÓ ĐƯỢC PHƯỚC ĐỨC NHIỀU?



tải về 0.62 Mb.
trang7/17
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.62 Mb.
#35514
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17

X. NGƯỜI ĐỆ TỬ PHẬT PHẢI LÀM GÌ ĐỂ CÓ ĐƯỢC PHƯỚC ĐỨC NHIỀU?


Đức Phật bảo: Tu Bồ Đề! Ông hãy tưởng tượng: Nếu số sông Hằng nhiều bằng số cát của sông Hằng thì số sông Hằng đã là nhiều vô số kể. Nói đến số cát của những sông Hằng kia quả là vô lượng vô biên, vượt ngoài con số tính toán suy lường.

Tu Bồ Đề! Như Lai nói thật cho ông biết: Nếu có thiện nam thiện nữ nào đem thất bảo chứa đầy cõi tam thiên đại thiên và nhiều bằng số cát của những sông Hằng kia dùng làm việc bố thí, người nầy được phước rất nhiều.

Nhưng nầy! Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh Bát Nhã Ba La Mật, rồi giảng nói cho người khác nghe , nếu không được nhiều thì chừng bài kệ bốn câu, phước đức của người nầy nhiều hơn người bố thí của cải trước.



TRỰC CHỈ

Nỗi thống khổ của con người có nhiều dạng khác nhau, nhưng chung quy có hai thứ: khổ thân và khổ tâm.

Giúp cho người bớt khổ thân thì giúp cho của cải vật chất. Giúp cho con người hết khổ tâm thì giúp cho sự hiểu biết chân lý, thông qua giáo pháp Phật. Giúp cho của cải vật chất đem lại sự an vui hiện tại trong cuộc sống gia đình. Giúp cho giáo pháp Phật hiểu biết chân lý sẽ đem lại an vui giải thoát giác ngộ cho hiện tại và tương lai. Theo giáo lý Phật, hành vi của cuộc sống hiện tại, ảnh hưởng sự vui khổ của con người trong hiện tại cả tương lai. Vật chất tồn tại khách quan trong quá trình vận động sinh diệt, diệt sinh của nó. Con người là một dạng vật chất, ngũ uẩn hợp thành, con người cũng tồn tại, cũng theo quá trình sinh diệt, diệt sinh. Nhưng con người khác vạn vật ở chỗ con người có tạo tác hành vi. Hành vi tạo tác thiện ác của con người sẽ là một dẫn lực hấp dẫn con người đến hậu quả an vui hay sầu khổ.

Nghiệp nhân (hành vi) thiện ác, quả báo khổ vui hấp thụ nhau trong định luật “Đồng khí tương cầu” “Đồng thanh tương ứng”. Theo giáo lý Phật, vạn tượng vật chất và con người vật chất cùng có chung một bản tánh chơn như. Tánh chơn như tác động vào vạn tượng vật chất gọi là Pháp tánh. Tánh chơn như tác động vào con người vật chất gọi là Phật tánh. Tánh chơn như duy thức học còn gọi là tánh THẮNG NGHĨA là THỰC TÁNH DUY THỨC.

Duy thức luận nói:

Thử chư Pháp thắng nghĩa.



Diệt túc thị chân như

Thường như kỳ tánh cố

Tức duy thức thực tánh.”

Giúp cho của cải vật chất dù nhiều vô lượng vô biên, nhưng sự giúp đỡ đó chỉ trừ được khổ thân cho con người trong giai đoạn. Với giáo lý Phật, nếu con người chỉ biết hưởng thụ dục lạc cho thỏa mãn hả hê trong hiện tại mà không gieo hạt giống lành, trồng nhơn tốt là một thiếu sót lớn lao. Theo giáo lý Phật, chết không có nghĩa là đoạn diệt. Cũng như vật chất có hư hoại nhưng hư hoại không có nghĩa là vĩnh viễn tiêu ma.

Hướng dẫn cho nhiều người nghe học Bát Nhã Ba La Mật là gieo vào lòng người ta hạt giống Bồ đề, Niết bàn để có ngày đơm bông kết trái. Thế nên, phước đức của người làm việc bố thí của cải không thể sánh bằng.

---o0o---


XI. BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA LÀ MỘT THỨ KINH ƯU VIỆT

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Nếu chỗ nào có người giảng nói kinh Bát Nhã Ba La Mật chỉ được chừng bốn câu kệ, trời, người, A Tu La đều nên cúng dường và xem chỗ đó như tháp miếu Phật.

Người thọ trì đọc tụng toàn kinh thì phước đức vô lượng vô biên, là người thành tựu pháp tối thượng hi hữu bậc nhất. Chỗ nào có kinh điển nầy là ở chỗ đó có Phật hoặc hàng đệ tử lớn của Phật ở đó.

TRỰC CHỈ

Phật là người giác ngộ chân lý hoàn toàn. Căn bản của sự giác ngộ chân lý là trí tuệ Ba La Mật. Kinh nầy dạy con người sử dụng trí tuệ để nhận thức chân lý. Mà trí tuệ ở đây là thứ trí tuệ Ba La Mật ấy. Sử dụng thứ trí tuệ nầy, quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác bước đến chẳng còn xa. Thế cho nên, giảng nói ý nghĩa chừng bốn câu kệ mà phước đức đã là nhiều, giảng nói hết ý nghĩa của toàn kinh thì công đức lại càng nhân lên gấp vạn bội.

Kinh là lời dạy của Phật. Kinh dạy con người phương pháp để trở thành Phật. Do đó, ở đâu có kinh như có Phật ở đó, hoặc đệ tử tôn túc của Phật ở đó. Chẳng những thế, người ta còn hiểu: Rằng “Bát Nhã Ba La Mật, còn là mẹ sanh ra chư Phật”. Vậy mà chẳng mắc tội hỗn xược với Phật tí nào!

---o0o---


XII. PHẢI HIỂU RÕ Ý PHẬT VÀ ĐÚNG NHƯ PHÁP MÀ THỌ TRÌ, PHƯỚC ĐỨC MỚI NHIỀU


Bạch Thế Tôn! Kinh nầy gọi tên là chi? Chúng con phải tụng trì như thế nào?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Kinh nầy tên là Bát Nhã Ba La Mật, ông nên theo danh tự đó mà phụng giáo hành trì.

Nầy! Tu Bồ Đề! Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, không phải Bát Nhã Ba La Mật mà gọi là Bát Nhã Ba La Mật, đấy thôi!

Tu Bồ Đề! Ông hiểu như thế là đúng: Như Lai không có nói pháp.

Tu Bồ Đề! Vi trần và thế giới nhiều người cũng hiểu như ông, rằng: vi trần của tam thiên đại thiên thế giới là nhiều, còn tam thiên đại thiên thế giới là ít.

Tu Bồ Đề! Vi trần, Như Lai nói chẳng phải vi trần, gọi rằng vi trần. Thế giới Như Lai nói chẳng phải thế giới gọi là thế giới vậy thôi.

Tu Bồ Đề! Ông hiểu như thế là đúng:

Không thể nhìn sắc thân 32 tướng mà cho là được thấy Như Lai. Như Lai nói 32 tướng là phi tướng, gọi là 32 tướng vậy thôi.

Tu Bồ Đề! Giả sử có thiện nam thiện nữ đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng để bố thí, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh nầy chừng bốn câu kệ, giảng nói cho nhiều người nghe, thì phước đức của người nầy nhiều hơn người trước.



TRỰC CHỈ

Bát Nhã Ba La Mật là thứ trí tuệ có khả năng nhận thức vũ trụ vạn hữu. Vì là một công năng nhận thức cho nên trí tuệ không có kích thước: ngắn, dài, rộng, hẹp....Cũng không có màu sắc: đỏ, trắng, xanh, vàng...Lẽ ra nó cũng chẳng có danh xưng. Vũ trụ vạn hữu là pháp NHƯ THỊ nó tồn tại khách quan. Cái công năng nhận thức cũng là NHƯ THỊ mới nhận thức được thật tướng. Gạn hỏi chi ly, giải đáp tỉ mỉ, càng tỉ mỉ, chi ly càng rời xa thật tướng. Nhằm hướng dẫn cho đệ tử mình sử dụng thứ trí tuệ đó, bất đắc dĩ, Phật vận dụng hành xử ngôn từ: Bát Nhã Ba La Mật, để mà khai thị. Trong quá trình tu tập, người đệ tử Phật, sử dụng Bát Nhã Ba La Mật vào tri kiến mình, để ngắm nhìn vạn hữu, nhận thức thật tướng của vạn pháp. Sử dụng Bát Nhã Ba La Mật mà không chấp mắc Bát Nhã Ba La Mật, Phật tử hãy luôn luôn nhớ rõ!



PHẬT THUYẾT BÁT NHÃ BA LA MẬT, TỨC PHI BÁT NHÃ BA LA MẬT, THỊ DANH BÁT NHÃ BA LA MẬT.

Vì sao Như Lai phủ nhận sự thuyết pháp của mình trong suốt cuộc đời hóa độ chúng sanh?

Tìm hiểu nguyên nhân, ta thấy có hai lý do:

1.Pháp được gọi là pháp, Như Lai đã nói, nó không phải sở hữu riêng của Như Lai. Nó là sự sự vật vật tồn tại khách quan trong vũ trụ, là sở hữu chung của loài người. Phật là người giác ngộ chân lý, Phật đem cái vốn liếng quý báu đó, hướng dẫn cho con người, đưa con người vượt ra sự si mê lầm lạc về tư tưởng, vượt ra sự đói nghèo khổ cực, vì sự áp bức bất công của xã hội. Thuyết được những điều lợi lạc cho thế nhân, đều có thể gọi là thuyết pháp. Do đó, Như Lai phủ nhận sự thuyết pháp của mình, nhằm dạy cho các đệ tử biết: pháp là chân lý, là sở hữu chung của nhân loại, chớ không phải độc quyền sở hữu của Như Lai.

2.Đã có lần Phật nói: Những pháp Phật đã nói, ít như chút đất dính ở móng tay, còn pháp Phật chưa nói đến, nhiều như đất của ba ngàn đại thiên thế giới.Nếu nói, Phật nói pháp, chấp chặt pháp Phật nói thì mắc tội đóng khung tri kiến Phật. Tri kiến Như Lai không chỉ gói gọn trong những ngôn từ văn tự ghi lại trong kinh điển mà người ta cho là pháp của Như Lai nói.

Vấn đề thế giới và vi trần: Nếu bảo rằng thế giới chỉ có một, thế giới ít, vi trần vô lượng vô số, vi trần nhiều. Nói như vậy không đúng. Thử hỏi: vi trần nhiều, vậy vi trần từ đâu mà có? Thế giới ít, thế giới kết hợp bởi những gi?

Chẳng qua, thấy vi trần nhiều, do ta nhìn ở mặt DỊ. Nhìn thế giới ít, do ta thấy phía mặt ĐỒNG. Vi trần nhiều do nhìn ở mặt HOẠIDIỆT của thế giới. Thế giới ít do nhìn ở mặt TỔNGTHÀNH. Vi trần và thế giới không phải khác mà cũng không phải một. Đó là diệu lý: bất tức bất ly, tương tức tương nhập của vạn pháp. Tu học Bát Nhã Ba La Mật hãy như vậy mà nhận thức, như vậy mà tư duy, như vậy mà thọ trì. Và do như vậy mà Như Lai nói:

NHƯ LAI THUYẾT VI TRẦN, TỨC PHI VI TRẦN, THỊ DANH VI TRẦN, NHƯ LAI THUYẾT THẾ GIỚI TỨC PHI THẾ GIỚI, THỊ DANH THẾ GIỚI.

Rằng Như Lai có 32 tướng tốt, Như Lai nói đó là những tướng của tướng sư, theo sự thấy biết của họ mà đề ra. Phỏng xử có tướng sư khác theo sự thấy biết của mình, ông ta viện ra thêm hai tướng nữa. Thế là một Như Lai có 34 tướng tốt! Một tướng sư khác, cũng theo sự thấy biết của mình, nhìn xem kỹ càng, ông ta tuyên bố rõ là Như Lai có 30 tướng chẵn. Thế nào? Phật có vì thế mà tăng giảm địa vị vô thượng chánh đẳng chánh giác của Như Lai?

Như Lai, Phật là căn cứ trình độ giác ngộ chân lý trọn vẹn, giải thoát vô minh phiền não tận cùng. Vấn đề 30, 32, hay 34 tướng, tùy trình độ hiểu biết và ấn định của các tướng sư. Thế nên, đệ tử Phật, tu học Bát Nhã Ba La Mật, không dựa trên 32 tướng, tùy thuộc trình độ hiểu biết và ấn định của các tướng sư. Thế nên, đệ tử Phật, tu học Bát Nhã Ba La Mật, không dựa trên 32 tướng. Thấy Như Lai qua 32 tướng, không phải là cái thấy đích thực của chính mình, mà ta nhìn Như Lai qua con mắt của các tướng sư Ấn độ 25 thế kỷ trước!

Phật e sợ đệ tử mình học đòi tướng sư hoặc đam mê tướng số, nên dạy kỹ cho các môn đệ rằng:



NHƯ LAI THUYẾT TAM THẬP NHỊ TƯỚNG, TỨC THỊ PHI TƯỚNG, THỊ DANH TAM THẬP NHỊ TƯỚNG.

Giảng nói giáo lý Bát Nhã là tạo cái duyên tăng thượng cho người muốn đi con đường giải thoát giác ngộ, thành Phật. Cho nên Phật nói: Người bố thí thân mạng như số cát sông Hằng, phước đức đã là nhiều, người làm việc pháp thí, truyền bá Bát Nhã Ba La Mật, phước đức nhân lên vạn bội.


---o0o---

Каталог: kinh -> Ebooks -> Giang-Kinh
Giang-Kinh -> LỜi vàng phật dạY (kinh pháp cú dhammapada)
Giang-Kinh -> Kinh bách dụ Tâm Minh ngô TẰng giao chuyển Thơ
Giang-Kinh -> A hàm Mưa Pháp Chuyển Hóa Phiền Não
Giang-Kinh -> VỚi phật giáo nhân gian hoằng Ấn Trước Tác
Giang-Kinh -> QUÁn thế Âm bồ TÁt phổ MÔn phẩm giảng ký 觀世音菩薩普門品講記 演培老法師講述 釋寬嚴記
Giang-Kinh -> Kinh quán vô LƯỢng thọ Đời Lưu Tống, Ngài Cương-Lương Gia-Xá Dịch Việt Dịch : Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản pl 2526 1982
Giang-Kinh -> ÐẠo phật ngày nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa
Giang-Kinh -> Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa 淨土大經解演義

tải về 0.62 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương