Khuyên ngưỜi niệm phật cs. Diệu Âm Tập 2 o0o Nguồn



tải về 1.87 Mb.
trang4/19
Chuyển đổi dữ liệu13.06.2018
Kích1.87 Mb.
#39923
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

28 - Lời khuyên người bác

Kính thăm Bác,


Hôm trước cháu có nhận được thư cháu Tuyết cho biết bác đang bị bệnh. Từ xa xôi cháu không biết gì hơn thành tâm cầu Phật gia trì cho bác. Nghe cháu Tuyết nói rằng bác đã phát tâm niệm Phật, cháu mừng lắm. Nếu vững lòng tin, chí thành niệm Phật, nguyện cầu sanh về Tây-phương thì bác dễ được sự cảm ứng đạo giao, hoặc là sớm bình phục, hoặc có mãn báo thân này thì bác được hoàn thành viên mãn giải thoát. Phật pháp lý đạo cao siêu, thậm thâm vi diệu, không thể nào chỉ trong một lá thư tầm thường mà cháu có thể giải thích cho trọn. Hãy lấy niềm tin để đi về đất Phật bác ạ.
Cuộc đời có khác gì một giấc mộng đâu bác! Ai hiểu đạo thì tìm cách thoát cảnh mộng để trở về với cảnh giác. Người mê muội thì vừa thoát cơn mộng này thì chìm vào cơn mộng khác, triền miên trong mộng khó có ngày thoát thân. Đêm đêm ta nằm trong tiểu mộng, thì cuộc đời này từ lúc sinh ra đến lúc buông tay cũng chỉ là một đại mộng! Khi một người về đến Tây Phương Cực-lạc rồi, họ quay nhìn xuống thì bảy tám mươi năm của con người trên thế gian này cũng chỉ là tiểu mộng mà thôi, vì đối với thời gian vô cùng vô tận ở cõi Tây-phương thì đây chỉ là một giấc ngủ trưa của họ. Cháu thành tâm cầu nguyện cho bác được thoát nạn trong đời.
Thưa bác, với người tuổi trẻ thì khó khuyên giải họ tu hành, nhưng ở đây cháu mạnh dạn khuyên bác hãy quyết tâm tìm đường giải thoát, vì không giải thoát thì không còn đường nào tốt hơn để đi. Giải thoát bằng cách nào? Bằng đường niệm Phật. Với hiện tình của bác không thể chơi vơi vô định hướng được, mà phải xác định rõ hướng đi mới hưởng phần lợi ích thật sự. Sự lợi ích thiết thực nhất đối với bác không phải là cầu mong sống thêm vài năm nữa để chịu khổ sở, mà là tìm đường về tới thế giới Cực-lạc, được vậy bác mới được vĩnh viễn xa lìa sanh tử khổ nạn. Hãy quyết tâm vãng sanh về Tây-phương bác ạ, nếu không về được đó thì mình phải lạc vào những con đường khác, luân hồi sanh tử khổ đau vô tận!
Về được Tây-phương bằng cách nào? Bằng cách “Đới nghiệp vãng sanh”. Thế nào là đới nghiệp vãng sanh? Hôm nay cháu xin nói rõ sự việc này cho niềm tin của bác vững chắc, không lay chuyển, để chắc chắn hưởng được đại lợi. Nhiều người cứ tưởng rằng, làm gì có chuyện chỉ tu một đời mà vượt được lục đạo luân hồi, thoát qua tam giới, viên thành Phật đạo? Họ nói nhiều vị tu hành nhiều đời, nhiều kiếp mà chưa chắc đã đắc đạo, làm sao một người bình thường như ta, còn đầy nghiệp chướng mà hòng thoát nạn? Thực ra câu nói này đúng, nhưng không phải lúc nào cũng đúng đâu. Đúng khi ta tự chọn con đường tự lực, tự tu, tự chứng, chứ không đúng lắm với người niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, vì niệm Phật thì được hưởng cái ân huệ: “Đới nghiệp vãng sanh”. Vấn đề này vượt ra ngoài sự lý luận bình thường. Cũng như nói rằng, có làm mới có tiền, không làm làm sao có tiền? Nói chung thì đúng, nhưng có những trường hợp đặc biệt không theo lệ đó, ví dụ như người may mắn trúng số độc đắc thì sao? Người niệm Phật vãng sanh Tây-phương Cực-lạc để chứng được bậc bất thối Bồ-tát cũng giống như người bỗng dưng may mắn trở thành tỉ phú bởi trúng số vậy. Thật là may mắn!
Đới nghiệp vãng sanh là người còn nghiệp chướng nhưng vẫn được vãng sanh để một đời thành Phật. (Cũng xin nhắc lại, “Một đời thành Phật” không phải là vừa mới ra đi là thành Phật liền, nhưng vừa mới thoát ly cõi trần này là về ngay được đến cõi Tây-phương, nghĩa là vượt qua được tam giới lục đạo. Cảnh giới ở Tây-phương toàn là Bồ-tát, cao hay thấp tùy theo công phu tu tập, nhưng nhất định không còn lọt lại vào ba đường ác, tất cả những thần thông diệu dụng của tự tánh đều được hồi phục. Sống trong cảnh giới an vui “Cực-lạc” đó và tu hành cho đến ngày thành Phật. Vì ở đó thọ mạng dài vô cùng vô tận không còn chết nữa, cho nên mới nói chỉ có một đời thành Phật là vậy).
Đới nghiệp vãng sanh là pháp tu chính yếu của pháp môn Tịnh-Độ. Trong 84 ngàn pháp tu của Phật để lại chỉ có niệm Phật mới được đới nghiệp vãng sanh, còn tất cả pháp môn khác đều thuộc về tự lực tu chứng lấy. Đây là sự việc rất đặc biệt trong Phật đạo. Nếu tu hành mà không chú ý, không nghiên cứu kỹ kinh Phật, cứ lấy ý nghĩ thường tình cho rằng pháp nào cũng tu, Phật nào cũng niệm, đây không phải là điều cấm kỵ trong việc tu hành, nhưng coi chừng bị mất phần vãng sanh. Tu như vậy gọi là tạp tu, không chuyên hướng, rất khó nhứt tâm, dễ bị mông lung, dễ lạc vào đường hiểm. Nếu nghiên cứu kinh Phật thật kỹ thì danh hiệu A-di-đà Phật đã bao gồm mười phương chư Phật trong đó rồi. Một điểm nữa, Xen tạp: là điều tối kỵ nhất của pháp Niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ. Cho nên, hễ còn xen tạp thì khó vãng sanh. Muốn được vãng sanh thì không được xen tạp. Chính vì điểm này, nhiều vị cao tăng đến cuối đời ngộ được lý đạo, thấy được “sanh-tử” là việc lớn, đều quay về với câu Phật hiệu. Quý Ngài quyết định đóng cửa buông xả tất cả, chỉ còn nhất tâm niệm một câu “Nam-mô A-di-đà Phật” để vãng sanh.
Cháu xin nhắc lại, nếu bác muốn chỉ trong thời gian ngắn ngủi còn lại này được giải thoát, thì chỉ niệm câu A-di-đà Phật. Nếu còn vọng cầu nhiều nơi thì dù tu hành có giỏi cho mấy, theo đúng chánh đạo đi nữa, bác cũng sẽ rơi vào trong thế tự lực tu chứng, nghĩa là tự mình đi lấy, bỏ rơi mất phần gia trì của đức Phật A-di-đà và mất luôn phần hộ niệm của chư Phật mười phương. Trong kinh Phật nói rõ như vậy chứ không phải lời của cháu đâu. Điều này tự Bác quyết định lấy, tự hiểu lấy về công phu tu hành của chính mình liệu có đủ sức tự thoát ly sanh tử luân hồi được chăng? Đó là nói sự may mắn theo chánh đạo của Phật còn vậy, nếu lỡ rơi vào ngoại đạo thì sẽ như thế nào nữa?!...
Đới nghiệp vãng sanh là gói nghiệp lại để vãng sanh. Nghiệp chướng là gì? Nghiệp là sự nghiệp; chướng là chướng ngại. Nghiệp chướng là sự chướng ngại cản trở con đường giải thoát gây ra bởi cái sự nghiệp mình đã tạo từ vô thỉ đến nay. Mình làm chuyện gì gọi là sự. Làm xong sẽ có kết quả, đó là nghiệp. Ví dụ gieo lúa là sự; có lúa để ăn là nghiệp. Mình chửi người là sự; mình sẽ bị người đó ghét, là nghiệp. Sự là nhân, nghiệp là quả. Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Khi bị có nghiệp rồi thì nghiệp lại trở thành cái nhân để tạo cái quả khác. Ví dụ, người ta ghét mình là Nhân, rồi người ta đánh mình là Quả. Nhân-Quả, Quả-Nhân, Nhân-Quả... cứ thế chồng chất lên nhau. Đó là định luật Nhân-Quả vậy.
Nghiệp báo trên đời có thể là nghiệp hữu lậu như nợ tiền bạc, nợ nhơn nghĩa, nợ danh vọng; cũng có thể là nghiệp vô lậu như giết hại chúng sanh, ý nghiệp vi tế, tham, sân, si, v.v... trong đó sát sanh là nghiệp chướng nặng nhất, tạo thành mối oán thù truyền kiếp gọi là oan gia trái chủ, không dễ gì nó tha thứ cho mình đâu.
Từ vô lượng kiếp đến nay mình đã tạo ra rất nhiều nghiệp, thiện có, ác có, vô ký (không thiện không ác) có. Trong đó thiện thì ít mà ác thì nhiều. Chính vì thế mà mình khó thoát khỏi lục đạo sinh tử khổ đau.
Còn nghiệp phải trả nghiệp! Tu hành là đoạn nghiệp. Phật dạy, “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, không làm điều ác, làm tất cả việc lành, để có nghiệp tốt và có công đức trả nợ nghiệp. Đây là điều căn bản nhất mà mọi nơi đều phải tuyên dương. Thế nhưng chỉ có thế thôi không đủ. Vì thực tế nói thiện thì dễ mà làm thiện thì khó, bên cạnh làm ác thì dễ mà nói ác cũng dễ, cho nên nghiệp ác trong đời nhiều hơn nghiệp thiện rất nhiều. Thiện ác đặt trên tiêu chuẩn 10 điều. Một người phải làm ít nhất được tới 70% thập-thiện-nghiệp mới mong được tái sanh làm người trở lại. Nhìn chung trong thế gian, người làm được cở 30% tiêu chuẩn thập thiện thôi đã thấy khó rồi đừng nói chi tới 70%. Nhìn đó mới thấy ác nghiệp càng ngày càng lớn, ác chướng đời này lớn hơn đời trước. Trả nghiệp một đời chưa xong làm sao mong trả cho hết nghiệp của vô lượng kiếp. Chính vì thế mà con người cứ mãi trầm luân trong biển khổ không thể thoát nạn và càng về sau càng khổ hơn. Cho nên, làm lành lánh dữ chỉ là bước căn bản đầu tiên phải làm, thuộc về phước báu hữu lậu thế gian, chứ chưa đủ để vượt thoát sanh tử. Đây là một vấn đề lớn khác khá quan trọng có dịp cháu sẽ trở lại, hôm nay xin bác hãy chú ý thẳng đến điểm chính để hiểu tại sao bác có thể được vãng sanh trước đã. Hiểu được vấn đề trọng đại vãng sanh, tự nhiên sẽ rõ điều thiện điều ác thôi.
Có người hỏi, vậy thì những người cả đời làm ác rồi chờ lúc gần chết niệm Phật cầu sanh Tây-phương là được Phật cứu liền, dễ dàng như vậy sao? Cách đây mấy tháng chị Hai cũng có hỏi đến chuyện này, cháu đã trả lời sơ qua rồi. Hôm nay cháu nói rõ thêm, mong Phật lực gia hộ cho bác hồi phục trí lực và tỉnh táo để thể nhận lý đạo cao siêu hầu vững tâm lập chí giải thoát. Phật A-di-đà có thể cứu độ tất cả chúng sanh dù đã bị những tội ác lớn. Như trong kinh nói trên từ Đẳng Giác Bồ-tát, dưới cho đến hàng tội ác trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều được nhất thời bình đẳng thành Phật. Chúng sanh dưới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều là những người mang tội lớn, vẫn được cứu độ nếu họ hồi tâm quay đầu niệm A-di-đà Phật. Nghe nói đến chuyện này không ai dám tin, nhưng xin bác hãy tin tưởng vững chắc như vậy để được cứu, vì đó là lời trong kinh của Phật. Trong kinh Vô Lượng Thọ (VLT) Phật nói, dù người đã phạm tội ngũ nghịch thập ác, nếu biết hồi đầu, vẫn được cứu độ như thường. Trong kinh Phật, trong lịch sử Phật giáo thực sự đã có trường hợp như vậy chứ không phải chưa có, đó toàn là những người không tu hành gì cả, làm ác rất nhiều, cuối đời ăn năn sám hối, niệm Phật vãng sanh.
Có điều nên nhớ cho rõ, tội ác này là tội của quá khứ, nghĩa là từ ngày hôm qua trở về vô lượng kiếp về trước, những tội ác xảy ra trong khoảng thời gian mình còn mê muội chưa hiểu rõ Phật pháp, chứ không phải là tội cố tình làm ra sau khi đã được người chỉ bày đường chánh nẻo tà. Trong kinh VLT phần Hạ Bối Vãng sanh, Phật dạy: “Giả sử như những người ít làm công đức, nhưng nay phát Tâm Vô Thượng Bồ-đề, một hướng chuyên tâm niệm A-di-đà Phật, vui vẻ tin tưởng, không có nghi ngờ. Lấy tâm chí thành đó nguyện sanh về thế giới kia. Người đó khi lâm chung sẽ mộng thấy được Phật và cũng được vãng sanh”. “Phát tâm Bồ-đề” có nhiều tiêu chuẩn, trong đó chư Tổ-sư dạy rằng, “người nào phát nguyện vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc là người phát Tâm Vô Thượng Bồ-đề”, nghĩa là sự phát tâm cao thượng nhứt. Ví dụ, như bác, giả như trước kia (ví dụ thôi) có làm ác nhiều, tội nặng như giết cha hại mẹ đi nữa, nhưng nay thành tâm hối lỗi, niệm Phật cầu về Tịnh-Độ, bác vẫn có thể được độ về Tây-phương. Ngược lại, khi đã nghe xong thư này mà nếp ác xưa không đổi, tâm không hoàn thiện, không biết ăn năn lỗi lầm thì chắc chắn nợ cũ phải đền, nghiệp mới phải trả, không thể trốn chạy thoát được. Đây là cháu ví dụ một cách tệ hại mà còn được như vậy, huống chi từ hồi giờ bác có làm chuyện gì sai trái lớn đâu mà lo sợ không được đủ phần vãng sanh. Cứ tin tưởng vững mạnh thì bác sẽ được giải thoát.
Muốn được như vậy thì cần phải tu tinh tấn để “Đoạn Nghiệp”. Quan trọng lắm! Người nghiệp chướng nhẹ bao giờ cũng tu hành dễ giải thoát hơn người nghiệp nặng. Nhưng đoạn nghiệp có hai dạng, một là Diệt Đoạn, hai là Phục Đoạn. Diệt đoạn là phải tận diệt cho đến khi nào sạch hết nghiệp chướng, giống như nhổ cỏ phải nhổ tận gốc rễ. Phục đoạn thì ngăn chận sự phát triển của nghiệp chướng, phủ phục nó lại, như lấy đá đè cỏ cho nó không ngóc cổ lên, không cần nhổ tận gốc rễ. Diệt đoạn cần thiết cho người thực hành theo những pháp môn tự lực, vì chính họ phải tự thực hiện tất cả để chứng đắc. Còn nghiệp chướng thì họ không thể vượt thoát khổ nạn. Còn người niệm Phật cầu sanh Tây-phương Cực-lạc thì khác, chỉ cần phủ phục phiền não, nghiệp chướng là được. Phủ phục bằng cách nào? Bằng cách niệm A-di-đà Phật. Nghĩa là bất cứ một hình tướng nào hiện ra đều lấy câu Phật hiệu dập tắt nó. Tất cả những phiền não như lo lắng, giận hờn, buồn sầu, oan ức, thị phi... đều trả lời bằng cách niệm A-di-đà Phật.
Như vậy niệm Phật chính là chuyển tất cả nghiệp chướng thành công đức, gọi là “Chuyển nghiệp”. Chuyển xấu thành tốt, chuyển khổ thành vui, chuyển hư thành thật, v.v... Cao hơn nữa “chuyển phiền não thành Bồ-đề”, chuyển tham sân si thành giới định huệ. Niệm Phật là chuyển đổi tất cả nghiệp Ta-bà khổ hải thành An Dưỡng Cực-lạc, và sau cùng là “Chuyển Phàm thành Thánh”. Một pháp tu hành đơn giản mà siêu việt. Ngài Phổ Hiền Bồ-tát dạy: “Danh hiệu Phật chứa đựng vô lượng vô biên công đức của hết thảy Phật Pháp, hiển thị vô lượng vô biên uy lực, giải ngộ vô lượng tri kiến giải thoát, siêu việt mọi tư duy ngôn từ…” (Kinh Niệm Phật Ba-la-mật, phẩm 4). Nhờ sức chuyển lực mà đoạn nghiệp nhanh, và phần còn lại thì “Đới Nghiệp Vãng Sanh”. Cho nên người đã có cơ duyên niệm Phật thì may mắn giống như người thế gian trúng số độc đắc vậy.
Pháp môn Tịnh-Độ lấy đới nghiệp vãng sanh làm chính, cho nên dễ dàng, thích hợp với mọi căn cơ, và sự thành tựu thắng vượt hơn những pháp tu tập khác. Chính vì thế mà Chư Phật, Bồ-tát, đều khuyên chúng ta nên niệm Phật để hưởng được lực gia trì, chóng thành đạo quả, nhất là thời mạt pháp này.
Tu hành đến cuối cùng là đoạn diệt nghiệp chướng. Bây giờ nói đến thực tế, như bác đang bệnh làm sao mà đoạn nghiệp? Thưa bác được chứ, đó là Sám hối nghiệp chướng. Bác được cứu cánh giải thoát là nhờ diện này đây. Cuộc đời của bác chắc chắn có nghiệp chướng, tất cả nghiệp chướng đang dồn nổ lực công phá bác trong những ngày cuối của báo thân này. Trong những ngày này bác bị bệnh nằm liệt trên giường, không thể làm công đức gì để trả nghiệp được, thì chính cái tâm chân thành ăn năn điều sai, chí thiết hối tội, thành thật hổ thẹn lỗi lầm... sẽ là pháp giải nghiệp cho bác. Nếu nhớ được cụ thể thì thành tâm sám hối lỗi đó, nếu không nhớ thì cứ sám hối chung. Thành tâm đọc câu này:
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp,

Đều do vô thủy tham sân si,

Bởi thân miệng ý phát sinh ra,

Hết thảy con nay nguyện sám hối.
Bên cạnh đó phải nhứt tâm, một lòng niệm Phật, 1) hồi hướng chung về khắp pháp giới và, 2) hồi hướng cho oan gia trái chủ để trả oán nợ tiền khiên, giảm sự trở ngại vãng sanh. Nên nhớ khi thành tâm sám hối nghiệp chướng, chí tâm niệm thì một câu Phật hiệu có thể giải trừ được 80 ức kiếp nghiệp chướng trọng tội. Đây là lời Kinh luận nói. Bác hãy vững lòng tin tưởng điều này đừng nên nghi ngờ mà chịu thiệt thòi oan uổng. Cụ thể, mỗi buổi chiều sau khi niệm phật, hoặc làm điều lành gì bác (hoặc với g/đình) nên hồi hướng như vầy”:
Nguyện đem công đức này,

Trang nghiêm Phật Tịnh-Độ

Trên đền bốn ơn nặng,

Dưới cứu khổ ba đường,

Nếu có kẻ thấy nghe,

Đều phát lòng Bồ-đề

Hết một báo thân này

Đồng sanh Cực-lạc Quốc.
Đây là lời hồi hướng chung, nó bao gồm đầy đủ ba loại hồi hướng là: hồi hướng Bồ-đề, hồi hướng chúng sanh và hồi hướng thực tế để cho ta được vãng sanh thoát ly tam giới. Tuy nhiên, để cho phần hồi hướng mạnh thêm, ta có thể đọc lại lời nguyện y như vậy nhưng đổi câu “trang nghiêm Phật Tịnh-Độ” bằng câu “hồi hướng cho tất cả oan gia trái chủ”, để đặc biệt hồi hướng cho những chúng sanh bị ta giết hại, não loạn. Có thể đọc nhiều lần trong ngày sau khi niệm Phật. (Bốn ơn nặng là: ơn cha mẹ; ơn chúng sanh; ơn Tổ Quốc; ơn Tam Bảo. Ba đường khổ là: điạ ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Cứ như vậy bác đi thì bác được Phật cứu độ theo diện: “Sám hối nghiệp chướng, đới nghiệp vãng sanh”.
Cách tu đã có, đường về Tây-phương đã rõ ràng minh bạch, nếu Bác tin tưởng quyết lòng đi thì đắc. Còn nếu cứ chạy lòng vòng, cầu vái lung tung, thì cháu dám xin nói thẳng rằng, không có phép mầu nào khác có thể cứu Bác được siêu thoát đâu.

Một điều quan trọng khác, trong những thời gian này con cái trong gia đình nên niệm Phật hộ niệm, ăn chay làm lành, nếu phóng sanh được để hồi hướng công đức cho Bác thì tốt lắm, như ra chợ mua cá, ốc, sò… đem ra sông hồ thả. Còn không thì cũng phải tuyệt đừng giết hại sanh vật như heo, gà, v.v... để ăn hay cúng tế. Nếu phạm tới, nghiệp sát sanh tạo thêm oan gia trái chủ, đang sám hối mà sát sanh thì đó là sám hối giả mạo, làm cho oán trước thù sau tăng phần hung hãn khốc liệt.


Tóm lại đây là pháp môn tu tập tối thượng để được cứu độ về Tây-phương Cực-lạc, nhưng nhiều người chưa hiểu tới. Đây là một pháp môn rất vi diệu nhưng lý giải không được, cho nên bình thường con người không dễ dàng chấp nhận! Chính cái tâm nghi ngờ là mấu chốt làm cho họ mất phần giải thoát. Nhưng xin bác nhớ rằng, đây là sự thật, là nguyện độ sanh của đức Phật A-di-đà, Ngài thề rằng người niệm được như vậy mà Ngài không tiếp dẫn về tới Tây-phương Ngài không thành Phật, (nguyện 18), đã có nhiều chứng minh rõ ràng. Ấy thế mà đến nay còn hằng hà sa số người không tin, chê không chịu tu theo, không thèm niệm Phật. Pháp môn này tất cả mọi người phải dùng lòng tin tưởng vững chắc để vào, để thành tựu. Cho nên không có TÍN TÂM nhất định bị sa thải. Cái chữ TÍN này đã trở thành chướng ngại lớn lao. Vấn đề này chỉ nhờ vào thiện căn phước đức cá nhân mà thôi. Người thiếu thiện căn phước đức mà thông minh biết quay đầu tin tưởng để niệm Phật thì họ vẫn được giải thoát như thường, vì công đức của câu Phật là bất khả tư nghị. Cho nên không niệm Phật không thể giải thoát được.
Thôi thư đã dài, với tất cả tấm lòng chân thành, cháu cầu cho bác giác ngộ đạo pháp, thức tỉnh được con đường thành đạo trong đời. Cầu chư Phật gia trì cho bác, cầu Phật A-di-đà phóng quang cứu độ. “Lục tự Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây-phương”. Hãy “Nhứt tâm niệm sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật, không cần khổ công cũng đi tới Tây-phương”, mong bác giữ vững đường tu.
Cháu kính thư.

(Viết xong, Úc châu ngày 22/1/2002)


---o0o---

29 - Lời khuyên em gái



Em Vân,
Anh Năm vừa thực hiện một chuyến ngao du xa hơn một nửa quả địa cầu mới về. Anh đi ngay trong thời điểm mà tụi khủng bố cướp 4 chiếc máy bay tấn công nước Mỹ. Ngày 11/9/01 hai chiếc máy bay tông vào hai tòa nhà cao nhất thế giới (trung tâm mậu dịch thế giới) ở New York thì anh Năm đang ở bên đó, chỉ mới vừa rời Mỹ đi qua Toronto ở Canada, một nước sát cạnh Mỹ, có thể lái xe qua lại được. Khi vừa tới nhà thì anh Năm nhận được thư em. Đầu thư cho anh gởi lời thăm Thành, và chúc toàn gia đình em an khương, hạnh phúc.
Vân, đọc thư em mà anh Năm vui buồn lẫn lộn(!). Vui vì nhìn lại được nét bút của em vẫn như xưa, vẫn như ngày mình còn trẻ, em là đứa em dễ thương và có lẽ thương anh Năm nhiều nhất. Buồn vì nay lại hay tin cô Bốn bị bệnh đang nằm trong bệnh viện. Cô bệnh mà còn nhớ tới anh Năm và nhắn em nhờ anh Năm đọc kinh “Thủy Sám” cho cô. Anh Năm đã để tên cầu an cho cô trong Niệm Phật Đường rồi, cầu cho cô sớm giải nạn. Ôi! Đời thật là vô thường, thật là huyễn hóa, phải không em?!...
Vân, anh có xuất gia hồi nào đâu mà hỏi ở chùa hay ở nhà? Xuất gia thì tốt, nhưng điều quan trọng hơn là lập chí tu hành, xây dựng đạo hạnh, tu bồi công đức mới là chính. Đời mạt pháp này phải cẩn thận, đừng thấy cái hình thức bên ngoài mà lầm cái thực chất bên trong. Anh bây giờ an cư, thanh đạm, sống rất tùy duyên, dành nhiều thì giờ để niệm Phật hơn là lo lắng về chuyện con cái, nợ nần, nghĩa nhơn. Anh quyết tâm buông xả để lo đường thoát nạn.
Em Vân, anh biết em đang bận rộn nhiều lắm, nào là con cái, nào là buôn bán kiếm tiền, cho nên khó có thì giờ lo những chuyện khác?… Trong suốt thời gian qua anh không viết thư về thăm cô vì chính anh ở đây cũng bận lắm, quanh năm quần quật với miếng ăn toát mồ hôi, thành ra không còn có giờ viết thư nữa! Đến sau này, mới đây thôi, tự nhiên anh hiểu được Phật pháp, anh thấy được con đường giải thoát quý báu. Từ đó anh đổ hết tâm trí vào việc tu hành, anh tập buông xả nhiều hơn nữa để học Phật. Anh muốn trong dòng họ mình ai ai cũng học Phật cả, chính vì thế cho nên hễ cứ viết thư cho ai là anh đều xoay quanh vấn đề này, vô tình mỗi lá thư của anh bỗng nhiên đều trở thành thư khuyến tu, mà khuyến tu thì đối tượng không thể bừa bãi được. Ấy thế, nhiều lúc anh muốn viết thư cho em, cho cô, cho chú Chín, cô Mười… cho tất cả anh chị em, bà con chú bác trong gia đình mà không viết được. Vì sao em biết không? Vì không khéo anh sẽ trở thành người thày lay, chưa chi mà đi dạy đời, thì bị chửi chết. Nhưng một khi tâm anh đã hướng về Phật rồi thì cứ mở một lời là cái lưỡi nó hướng về Phật. Ráng kiềm chế lắm thì cũng chỉ tránh được một câu, đến câu thứ hai nó cũng xen vào việc khuyên tu hành giải thoát. Muốn né mà né không được!
Cái miệng là phương tiện truyền thanh của cái tâm. Trong đời sống bình thường, nghe ai nói chuyện vài câu ta có thể biết được người đó thuộc hạng nào trong xã hội, hễ người thích đấu tranh chém giết thì họ chỉ thích nói việc chiến tranh, dao búa; người thích tiền bạc thì mở lời là họ bàn chuyện buôn bán, làm ăn; người thích thơ phú thì có cấm họ cũng xổ vài câu mây gió trăng sao. Tâm anh đã hướng Phật thì cũng vậy, nói một vài câu là anh lại muốn người ta niệm Phật. Vấn đề này đôi lúc khá rắc rối, vì lỡ nói với người theo tôn giáo khác thì sao? Với người không tin Phật thì sao? Không khéo họ bôi bác Phật giáo thì vô tình anh đem cái họa đến cho họ! Thành ra, anh đành ngậm câm cho chắc ăn! Chính vì vậy, hễ ai viết thư hỏi thì anh mới dám nói, còn không anh đâu dám tự ý viết thư khuyên gì được.
Phật dạy rằng: “nhất thiết duy tâm tạo”. Cái cảnh giới mình đang sống hoàn toàn do tâm mình hiện ra: tốt xấu, thiện ác, lành dữ, phải trái… đều do chính tâm mình tạo nên (gọi là nghiệp nhân), để rồi chính mình thọ hưởng lấy (gọi là quả báo). Nhân duyên quả báo tơ hào không sai. Lúc mình tạo nhân thì tha hồ thoải mái, đến lúc thọ hưởng quả báo thì tha hồ khóc than! Khởi tâm động niệm đều có thể tạo nhân, nẩy ra một ý ghét thương cũng đã kết thành nghiệp chướng. Trong bao nhiêu đời kiếp rồi, thử hỏi cái khối nghiệp chướng này tả sao cho nổi! Khi hiểu được đạo Phật, anh mới sợ cái nhân. Thấy con người cứ lăn xả vào việc tạo nghiệp, anh thấy thật tội nghiệp cho họ! Thế nhưng có đồng thanh mới tương ứng, có đồng khí mới tương cầu. Không đồng nhịp cầu thanh khí thì khó tương thông. Cho nên nhiều lúc muốn giúp người mà giúp không được. Thiếu thiện căn phước đức rất khó tu hành. Thiếu nhưng quyết tâm tu thì bồi bổ phước đức thiện căn không khó. Cái khó là tại không tu thôi.
Trong tâm, anh tha thiết được viết một bức thư tới em để khuyên một vài lời cho em làm tròn đạo hiếu với cô và cũng chính cho em nữa. Nhưng duyên chưa tới thì anh chỉ đành chờ. Có lần Huy Hồng, con cô Sáu, ghé nhà anh, tình cờ đọc được một lá thư anh viết cho cậu mợ, Hồng bỗng nhiên hiểu được con đường giải thoát. Em nó viết thư cho anh, lời thư rất cảm động và tha thiết. Sau đó cứ mỗi lần có thư anh, Hồng sao ra nhiều bản gởi đi khắp nơi, nhiều lần nó đọc thư anh qua điện thoại cho cô Sáu nghe. Tâm của Hồng rất là tốt, em nó quyết tâm muốn cứu độ người mẹ mà không biết làm sao. Khi gặp thư của anh viết, nó chộp lấy ngay cơ hội đó làm lời khuyên tu. Anh thường khuyên Hồng “cố gắng giúp dì Bốn, cậu Chín, dì Mười với nghen”, nghĩa là anh điềm chỉ cho Hồng gởi đại những lá thư anh viết tới để làm cái cầu kết duyên tu hành. Hãy thành tâm cứu người, cứu được người nào hay người đó, còn được hay không hãy tùy thuận theo căn lành phúc đức của họ. Hôm nay, em đã viết thư cho anh thì cái duyên đã có. Anh sẽ cố gắng hết sức giúp em trong tất cả khả năng. Cứu được cô như cứu chính người mẹ của anh vậy. Trong thời thơ ấu, chính cô đã thương yêu, nuôi dạy anh từng cái khăn đến chiếc áo, từ ống kem đánh răng cho đến đôi giày… làm sao anh quên cho được.
Anh nghĩ cứu cô dễ dàng chứ không khó đâu. Có điều khó là em có nghe theo không? Cô có nghe theo không? Chứ cứ việc chạy cà rông, đụng đâu nghe đó thì đành chịu thua. Hãy nghe cho kỹ nghen, đừng đọc phớt qua mà hiểu lầm ý anh thì tiếc lắm đó. Anh giúp một người, dù bất cứ trường hợp nào, đang trẻ trung lành mạnh, đang yếu đuối trong cơn bệnh hoạn, khẩn cấp như sắp lâm chung… cũng giống nhau thôi, luôn luôn anh chỉ khuyên võn vẹn có ba lời. Sau ba lời khuyên nếu được chấp nhận thì còn duyên, nếu không chấp nhận thì coi như đây chỉ là lần kết duyên cho vô lượng kiếp sau này của họ mà thôi. Ba lời khuyên đó là:
-Một là phải tin Phật, lòng tin vững như tường đồng vách sắt vào uy đức của Phật, chỉ có Phật mới có đủ khả năng cứu độ mình. Không những chỉ cứu khổ cứu nạn mà còn có khả năng cứu độ mình thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, vượt qua khỏi tam giới, vĩnh biệt sinh tử, sanh về với cõi Phật trong một đời này mà thôi. Nói gọn lại đây là lòng Thành Tín Phật, Chơn Tín Phật, Thâm Tín Phật... Cái “Tín Tâm” này là đầu mối tối quan trọng để được cứu độ. Không có tín tâm thì đành chịu thua, không cứu được.
-Hai là phải biết buông xả. Buông bỏ cái thân tâm, nhân tình, thế giới, này đi, đừng luyến tiếc nó nữa. Tất cả chỉ là mộng huyễn chứ không có gì thực đâu, và một lòng nhứt tâm khẩn thiết “Nguyện”sanh về cõi Tây-phương Cực-lạc của Phật A-di-đà khi mãn báo thân này. Tây-phương Cực-lạc Thế Giới là một thế giới có thực, một cảnh giới vô cùng thù thắng trang nghiêm, an vui Cực-lạc. Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ. Một người muốn được giải thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, muốn thoát khỏi được kiếp người đau khổ, muốn thắng được nghiệp chướng, quả báo, muốn trả được nợ oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp… thì phải chí thành chí thiết “Nguyện” vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc.
-Ba là thành tâm niệm Nam-mô A-di-đà Phật, đó gọi là “Hạnh” của sự tu hành. Từ sáng tới chiều, từ chiều tới sáng luôn luôn niệm câu Phật hiệu. Lúc trang nghiêm niệm ra thành tiếng, lúc không trang nghiêm thì niệm thầm trong tâm. Niệm Nam-mô A-di-đà Phật ở bất kỳ chỗ nào, bất kỳ trường hợp nào. Đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, nói nín, thái rau, bửa củi, buôn bán, tính toán… đều có thể niệm được Phật hiệu. Thậm chí Tổ-sư Ấn Quang còn cho phép rằng, ngay lúc đang đi cầu vẫn thầm niệm Phật trong tâm để tránh sự gián đoạn. Lỡ có quên, hễ nhớ thì ngay tức khắc niệm liền. Cứ thế mà tu thì chắc chắn trong đời này được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà, vĩnh viễn thoát ly khổ nạn, đoạn tuyệt tam giới vô an, ra khỏi lục đạo luân hồi tiến đến Vô sanh Pháp nhẫn.
Người nào phát tâm Tín-Nguyện-Hạnh dũng mãnh, kiên định lập trường bất thối, cứ một đường như thế đi tới thì chắc chắn một đời này thôi sẽ được mãn nguyện. Đây là lời khai thị khẳng định của chư vị Tổ-sư Tịnh-Độ tông. Bây giờ bắt đầu tu còn kịp không? Dư sức kịp. Tu bao lâu mới thành? Nếu nhứt tâm niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày thì thành tựu, (xem kinh “Phật thuyết A-di-đà”). Thậm chí niệm Phật 10 câu trước lúc lâm chung cũng được vãng sanh (Nguyện 18, kinh Vô Lượng Thọ). Có bằng chứng không? Có, không những có mà còn có nhiều lắm. Ví dụ cụ thể nhứt mới vài năm về trước ông Châu Quảng Đại tại Washington DC, một người chưa từng tu Phật nhưng cơ may đến ông niệm A-di-đà Phật ba ngày thôi được vãng sanh về Tây-phương, ông đã trút được gánh nặng của bệnh ung thư tàn tệ đang nằm chờ chết.
Vân, đọc tới dòng thư này em đã xác định rõ lời khuyên của anh chưa? Em có còn mập mờ gì nữa không? Về quê em đã đọc được mấy lá thư của anh? Em đọc kỹ không? Nếu đã đọc kỹ thì làm gì có chuyện bảo anh đọc kinh “Thủy-Sám” để cứu cô. Anh có bao giờ nhắc nhở đến kinh đó đâu? Một ngàn lần, một vạn lần anh Năm lạy lục năn nỉ cậu mợ Hai là phát tâm niệm Nam-mô A-di-đà Phật để được cứu độ thoát khỏi sinh tử luân hồi. Chỉ cần có lòng TÍN tâm vững mạnh, chí thành NGUYỆN vãng sanh Tây-phương Cực-lạc là được vãng sanh. Đây là lời khẳng định của Đại sư Ngẫu Ích, của tất cả 13 Vị Tổ-sư Tịnh-Độ Trung-Hoa đều khuyên như vậy. Vị đại sư Sơ Tổ Tịnh-Độ tông của Việt Nam, người viết cuốn Niệm Phật Thập Yếu cũng xác định như vậy. Có Tín có Nguyện vãng sanh rồi thì ngày đêm trì giữ câu Phật hiệu để tiêu nghiệp chướng, để biến tâm mình thành tâm Phật, để đắc vãng sanh về phẩm vị cao ở thế giới Cực-lạc. Một pháp môn tối ư vi diệu, tối thắng chí thượng trong đạo Phật, cực kỳ linh nghiệm mà anh đã viết về cậu mợ Hai nói rõ từng chút, giải thích cạn lời, từng chữ từng câu, ước chừng muốn nhuộm cả máu trong tim của anh, với một mục đích duy nhất là để cho cha má anh được thoát nạn trong đời này. Ấy thế, đến khi em đọc lại hiểu lầm, một sự lầm lẫn khá xa!…
Nhắc lại, anh khuyên niệm Phật và chỉ có niệm Phật mới cứu được một người trong thời mạt pháp này, em không biết sự tối thắng của câu Phật hiệu lại còn bảo anh tụng “Thủy-Sám” để cứu cô? Anh có biết kinh Thủy-Sám đâu mà tụng. Trong đời nhà Đường có một vị Thiền sư, tu hành luôn mười đời, đều làm cao tăng, đến đời thứ 10 thì trở thành quốc sư Ngộ Đạt. Nhà Sư được vua tặng một chiếc ghế trầm hương rất quý và nhà vua quỳ mọp dưới chân đảnh lễ quốc sư. Ngài nổi lòng kiêu ngạo, dương dương tự đắc, tự thấy mình cao quý hơn vua thần Hộ Pháp của Ngài bỏ đi, Ngài bị một oan gia đã theo suốt trong mười đời nhập vào thân biến thành cái mụt có hình mặt người để hại Ngài.
Từ Bi Thủy-Sám Pháp là phương pháp giải nghiệp cho Ngài Ngộ Đạt quốc sư. Như vậy, Thủy-Sám xuất hiện từ thời Nhà Đường bên Trung Quốc, có thể có lưu dụng trong các chùa làm pháp giải nạn, chứ đó đâu phải là kinh của Phật. (Phải biết phân biệt là kinh của chính Phật thuyết đều phải bắt đầu bằng bốn chữ “Như Thị Ngã Văn”, những kinh không có bốn chữ này thì không phải của Phật). Cũng như pháp Lương Hoàng Sám là do vua Lương Võ Đế lập đàn giải nạn cho vợ ông ta, rồi sau này người ta áp dụng phương pháp đó để cầu giải nạn vậy. Còn bây giờ một mình anh Năm, một cô Ba, một đứa con suốt ngày bận bịu như em, tụng khơi khơi, lấy lệ, thì công đức tìm đâu ra mà hòng giải nghiệp cho mẹ!? Mà giả như giải được một nghiệp nào đó trước mắt, thì còn hàng vạn nghiệp khác ai giải cho đây? Như vậy tụng “Từ Bi Thủy Sám” thì cũng tốt chứ không sao cả, nhưng phải có công đức thật lớn thì mới giải được cái nạn trong nhứt thời, chứ làm sao giải được cái nạn kết tụ trong vô lượng kiếp, làm sao giải cái nạn sanh tử đây?
Em Vân, tu hành đừng nên mập mờ vô định hướng. Tu chỉ biết “Tu” chứ không biết tương lai sẽ đi về đâu thì uổng công lắm đó. Thấy kinh nào cũng nhào vô tụng, thấy pháp nào cũng muốn nhào vô hành mà quên rằng kinh đó, pháp đó đang nói gì, dẫn ta tới đâu, cứu độ cho ai... thành thử cứ chạy lòng vòng suốt đời, rốt cuộc cũng không đi tới đâu hết. Pháp môn của Phật có vô lượng vô biên, mỗi pháp là món thần dược trị một tâm bệnh. Học Phật mà không hiểu biết về Pháp môn có khác gì người vào tiệm thuốc chộp đâu uống đó. Nhiều lúc không ích lợi mà coi chừng còn bỏ mạng, bị loạn tâm. Ấy không phải là tại pháp Phật sai mà tại mình đi trật đường. HT Tịnh-Không thường nhắc đến Ngài Ngộ Đạt để thức tỉnh tứ chúng đệ tử tránh con đường đó, thì sao có người lại nhào vô tu để cầu giải nghiệp cho kiếp hữu lậu này. Nếu như Ngài Ngộ Đạt một lòng nghe theo lời Phật dạy, xác định rõ hướng đi, nhất hướng chuyên niệm A-di-đà Phật, nguyện vãng sanh Tây-phương thì ngay một đời Ngài có thể đã về Tây-phương với Phật thành bậc Bồ-tát rồi, có đâu phải lăn lộn tới mười đời, để sau cùng bị gặp nạn cơ hồ táng mạng. Nếu muốn độ sanh thì với năng lực của một vị Bồ-tát bất thối ở cõi Tây-phương, thần thông bao trùm vũ trụ pháp giới, họ quán xét rõ ràng nghiệp báo chúng sanh, họ thừa nguyện tái lai để cứu độ thì công đức nhiều gấp ngàn vạn lần hơn một phàm tăng dưới thế.
Chính vì thế, người muốn thành đại nguyện cứu độ chúng sanh thì phải niệm Phật cầu về Tây-phương trước rồi mọi chuyện khác sẽ tính sau. Sanh tử là chuyện trọng đại, luân hồi là điều đáng sợ. Qua một cuộc cách ấm là công phu bị xoá sạch, hiểm nạn trùng trùng, làm sao ta dám bừa bãi? Độ người mà “Tánh” mình chưa kiến, “Tâm” mình chưa định, “Trí” mình chưa thông tuệ… thì có thể dẫn chúng sanh đi sai đường và làm khổ người khác phải đến cầu đám cho mình chứ được gì đâu! Đúng không em?
Tất cả kinh điển đại thừa Phật đều dạy chúng sanh phải phát nguyện sanh về Tây-phương thì mới thoát nạn. Phật không dạy nguyện trở lại làm người, làm nhà sư, làm hiền nhân quân tử. Vì nguyện trở lại là tự mình trói mình trong luân hồi sanh tử, nhất là đời mạt pháp này khó bề thoát khỏi ma chướng. Trong kinh Niệm Phật Ba-la-mật, Đức phật dạy, Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật, thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho thân tâm thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ phần Pháp Thân, âm thầm ứng hợp với BI TRÍ trang nghiêm của Phật…” (niệm phật Ba-la-mật/phẩm 2). Pháp thân là Phật, niệm Phật thì thân tâm tự thanh tịnh, Phật tâm tự khai mở, đây là pháp lấy thẳng quả địa Phật để tu thành Phật. Trong chuyến đi “ngao du” các nước vừa qua, thăm anh em bạn bè thì ít, mà hầu hết anh Năm đến các chùa ở Mỹ, Pháp, Canada để thăm quý Tăng-Ni. Anh đem theo một cuộn video quay lại sự việc cụ Triệu Vinh Phương, 94 tuổi vãng sanh năm 1999 tại Trung Quốc. Quý Sư Ni, Thượng-tọa, Đại-đức nhìn thấy đều giựt mình kinh ngạc. Chính cả những vị HT coi xong cũng đành tán thán.
Năm 1994, cụ 89 tuổi mới bắt đầu quy y ăn chay niệm Phật. Năm 1998 hai lần thấy Phật hiện ra trên không trung giữa ánh quang minh rực rỡ. Năm 1999 cụ tỉnh táo niệm Phật đến hơi thở cuối cùng rồi vãng sanh trong tư thế kiết tường. Trong ngày vãng sanh, bốn lần Phật A-di-đà xuất hiện, mỗi lần Phật xuất hiện ánh quang minh sáng rực khắp nhà giữa đêm khuya, hương thơm xông ra ngát cả trong ngoài. Khi hỏa táng nhục thân, có đạo hào quang ngũ sắc bay lên không trung. Cụ để lại nhiều xá lợi, đặc biệt có một ống xương biến thành tượng Phật, và một đốt xương khác biến thành đài sen. Tất cả đều là sự thật. Cụ Triệu Vinh Phương đã thành tựu đạo quả ngay trong một đời chỉ nhờ vào năm năm chí thành niệm “A-di-đà Phật”.
Thấy vậy anh mới ước ao sao, trong dòng tộc mình có được những người vãng sanh. Anh xin cầu nguyện cho tất cả mọi người, cả thân lẫn sơ, mau mau tỉnh ngộ, suy xét lại thế đời, chỉnh đốn pháp tu, nhanh chóng phát tâm Niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ để được viên mãn Phật Đạo như cụ Triệu Vinh Phương. Cuộn video này vừa được chuyển âm tiếng Việt, anh đang nhờ chuyển qua hệ NTSC để gởi về VN và các nước khác để giúp người VN. Nếu muốn coi chắc chắn em sẽ thấy tận mắt một trường hợp vãng sanh quý báu này!
Trong thư em nói “Em sợ Má em đi theo cái cảnh của mợ Hai Thừa chắc em chết mất”. Đọc hàng chữ này anh Năm nghẹn ngào và thấy thương em nhiều hơn. Trong đời của dì Hai cũng không có làm điều gì sai trái cho lắm. Dì có tâm hồn rộng lượng, vui vẻ thoải mái với mọi người. Dì chỉ có một cái tội là không chịu tin Phật thành ra nhiều lúc hơi ngạo mạn đối với Phật pháp. Sau cùng dì chịu nạn thật khá nặng. Năm 93 anh về, cầm tay người dì ruột mà anh rơi nước mắt. Lúc đó anh chưa hiểu Phật pháp là gì cho nên không có một lời khuyên. Thật là tội! Bây giờ anh thấy con đường giải thoát thì dì đã đi rồi, còn cách nào cứu được nữa. Ôi! Đành chịu theo số mệnh!
Trong chuyến đi vừa rồi, anh có đến Buffalo (Mỹ) để thăm anh năm Lang con của dì, anh khuyên anh đó phải lo báo chữ hiếu với người cha. Anh Lang chịu nghe theo và hứa viết thư khuyên bác Hai niệm Phật. Đây cũng là chuyện lạ trên đời, vì từ hồi giờ anh Lang không tin Phật, ngay trước ngày anh đi, anh Lang còn điện thư (email) cho anh và gọi anh là người “ngũ thập nhi bất tri thiên mệnh” vì anh ưa nói chuyện tu Phật. Ấy thế chỉ có một ngày gặp nhau nói chuyện mà anh ta đã tin tưởng và chấp nhận viết thư khuyên bác Hai niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, đó là con đường báo hiếu trọn vẹn nhất mà hồi giờ ảnh không thấy. Cho nên nếu tin Phật Pháp, em nên chân thành khuyên chồng con, anh chị em, bạn bè… tu hành. Người nào tu may người đó. Tin hay không tùy theo căn lành phước đức của họ, riêng em nên bắt đầu niệm Phật đi, ai nói đúng sai kệ họ mình cứ lặng lẽ tu. Gặp người chống đối hãy thương họ nhiều hơn chứ đừng sanh tâm ghét bỏ, vì với cái tội phỉ báng chánh Pháp, nếu không hối lỗi thay tâm đổi tánh, họ khó có thể tránh được hiểm nạn về sau. Chỉ vì nghiệp chướng sâu dày họ đành đi theo con đường hiểm nạn. Thương hại thay!
Trong thư, em nói muốn báo đền hiếu thảo nhưng không biết làm sao. Thực ra không riêng gì em mà hầu hết con người trên thế gian này không biết cách nào để báo hiếu. Họ sống bừa bãi, nghĩ đơn giản rằng làm một ít việc lành cho cha mẹ là báo hiếu, chứ thực ra làm lành mà không có trí huệ coi chừng việc lành của mình lại thành việc ác và gây thêm tội chướng nữa là khác. Ví dụ, nhiều người tới ngày giỗ thì giết heo gà để cúng, ngày đám cưới thì làm con heo quay để lên bàn thờ, cha mẹ đau bệnh thì giết heo bò để tế thần linh cầu cho giải nạn... những hình thức hiếu thảo đó phải chăng tạo nên nghiệp ác chồng chồng, oan gia trùng trùng, quả báo điệp điệp, biết ngày nào mới gỡ nổi! Đọc thư em, anh thấy em có tin Phật nhưng không biết tin ở đâu. Chính ngay cô Bốn cũng vậy, vì không biết đường nào để đi cho nên tâm trí cứ rối bời, chơi vơi thất vọng, phiền não từ đó hiện ra tạo thêm sự khủng hoảng vô ích và nhiều khi còn tai hại nữa. Anh Năm nói sơ qua một vài căn bản để cho em hiểu về phật Pháp trước, sau đó nếu em tin tưởng anh Năm sẽ tìm cách giúp thêm sau.
Đầu tiên nên hiểu rằng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện thành Phật ở cõi Ta-bà này để thuyết kinh giảng đạo cứu độ chúng sanh. Ngài thuyết giảng trong 49 năm trường đã để lại 84 ngàn pháp môn tu tập. 84 ngàn pháp môn tu tập để đối trị với 84 ngàn phiền não tâm bệnh của chúng sanh. Thực ra, Phật thuyết kinh giảng đạo không có một định thuyết, mà chỉ tùy cơ ứng thuyết, tùy bịnh cho thuốc để cứu trị mà thôi. Điểm chính yếu của Phật là sau cùng nói lên cái nguyện hải độ sanh của đức A-di-đà Phật để cứu độ tất cả chúng sanh vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc, một đời viên mãn Phật quả. Danh hiệu A Di Dà Phật đã trở thành pháp môn tối thắng có thể độ nhất thiết chúng sanh bình đẳng thành Phật. Chính vì phương tiện độ sanh tối vi diệu, tối viên mãn mà chư Phật mười phương đều nhất tâm tán thán và hộ niệm. Như vậy mục đích chính của đức Thích-ca Mâu-ni Phật xuống phàm là dạy cho chúng sanh câu phật hiệu “A-di-đà Phật” để quy nạp chúng sanh về cõi Cực-lạc, một đời liễu thoát sanh tử. Tu hành ít người liễu ngộ điều này cho nên thường cứ chạy theo cái thị hiếu ngoài, ham nhiều pháp môn, hiểu nhiều thuật ngữ, hoặc cầu xin phước báu… thì làm sao thoát nạn cho được, nhất là thời mạt pháp này chướng nạn trùng trùng, vạn người tu tìm không ra một người đắc. Năm 1999, ở Trung Quốc có cụ Triệu Vinh Phương niệm Phật vãng sanh, đã được thâu hình tại chỗ. Trong lời thư bái tạ của con trai cụ, khởi đầu đã nêu ra đoạn kinh Phật rằng: “Danh hiệu A-di-đà Phật có đầy đủ vô lượng vô biên bất khả tư nghị, thậm thâm bí mật, tối thắng vi diệu, vô thượng công đức”. Vì sao? Vì “danh hiệu A-di-đà Phật đã gồm có 10 phương tất cả chư Phật, chư Bồ-tát, Thanh Văn, A La Hán, tất cả chư Đà La Ni, thần chú vô lượng hành pháp. Là pháp vô thượng chí cực đại thừa, tối thắng, thanh tịnh, liễu nghĩa diệu hạnh”. Nhờ sự vi diệu này mà bà cụ Triệu Vinh Phương chỉ thành tâm Niệm Phật 5 năm đã tự tại vãng sanh trong ánh quang minh của Phật, viên thành Phật Đạo.
Nói tóm lại, muốn cứu má em thì em nên mau mau khuyên cô hãy làm đúng theo những gì anh Năm nói trong thư này, thì anh tin chắc cô được giải cứu. Phật A-di-đà sẽ cứu độ cô. Nên nhớ nếu tin tưởng vững chắc thì kết quả sẽ đến ngay. Anh Năm tóm tắt những điểm chính sau, sau này nếu còn thấy chỗ nào thiếu anh bổ túc thư sau:
Hãy hiểu rõ đời này vô thường, có sinh có tử là chuyện đương nhiên. Tử sanh đều nằm trong số mạng cả, lúc chưa tới số chết có năn nỉ cũng không chết, lúc đã tới số thì có cúng trăm miễu ngàn chùa cũng không lưu lại được đâu, (chỉ trừ những vị đạo pháp cao dày mới tự tại tử sanh). Thế thì lo sợ ích lợi gì. Chết là cái thân bất tịnh này chết, chứ chính ta, cái thần thức của ta không bao giờ chết. Nghĩa là sau khi bỏ xác thân này rồi ta vẫn còn sống, chỉ sướng hơn hay khổ hơn mà thôi. Nếu biết sướng hơn thì lo cầu đi sớm cho khỏe. Nếu biết sẽ khổ hơn thì ngay bây giờ phát tâm tu hành để chuyển nghiệp vẫn còn kịp. Đã đến giai đoạn này ngoài niệm Phật ra không còn cách nào cứu thoát được đâu. Chắc chắn như vậy.
Biết rõ rằng thần thức của ta không bao giờ chết, thì hãy mau mau chọn cảnh giới tốt lành để về khi hết báo thân này. Trong tất cả mọi thế giới chỉ có thế giới Cực-lạc là tối thắng nhứt. Cho nên ngày đêm nguyện cầu sanh về Tây-phương Cực-lạc với Phật. Cứ thành tâm phát lời nguyện, ví dụ:
Nam-mô A-di-đà Phật, con xin phát nguyện khi hết báo thân này vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc của Phật A-di-đà. Cúi xin Phật thương con mà nhiếp thọ, từ bi tiếp dẫn”.
Nên phát nguyện mỗi ngày mới giữ được chí nguyện. Nên nhớ lời nguyện có sức mạnh quyết định đường vãng sanh. Cho nên có nguyện thì có đi, không nguyện không bao giờ được đi.
Đừng để mất thời gian nữa. Bắt đầu niệm Nam-mô A-di-đà Phật ngay. Nếu khỏe thì niệm thành tiếng, không khoẻ thì niệm thầm trong tâm. Nên nhép môi theo tiếng niêm để tự thức tỉnh, tránh hôn trầm, tránh mê man bất tỉnh hay chìm trong ác mộng. Khi ngủ hãy niệm thầm cho đến khi thiếp luôn. Trong giấc ngủ nếu có mộng, dù dữ hay lành, nhất thiết đừng sợ cũng đừng mừng, cứ việc thành tâm niệm Phật. Chắc chắn mọi sự đều được qua khỏi. Nếu trong giấc ngủ niệm không được thì vừa thức giấc hãy niệm Phật liền. Làm được như vậy chắc chắn được chư Phật hộ niệm, mọi cảnh ma chướng đều phải lánh xa và cô được bảo vệ an toàn.
Dứt khoát bỏ tất cả mọi ý nghĩ sai lầm, dẹp tất cả mọi vọng niệm, bỏ tất cả những sự lo lắng, sợ sệt. Hãy nhiếp tâm vào tiếng niệm Phật, lấy câu A-di-đà Phật dập tắt tất cả vọng niệm, nghĩa là hễ có ý nghĩ gì nổi lên thì niệm A-di-đà Phật liền để dập tắt nó. Tâm tâm tưởng tưởng đều hướng về đức Phật A-di-đà. Nhứt tâm, vững lòng tin vào sự cứu độ của Phật A-di-đà, hãy kiệt thành tin tưởng nghĩ nhớ tới Phật, niệm Phật tương tục trong điều kiện đó sẽ tương ưng với quang minh của Phật Di Đà liền, tất cả nghiệp chướng được tiêu trừ rất nhanh chóng. Nếu báo thân này chưa mãn thì cô sẽ lành bệnh sớm. Nếu báo thân đã mãn sẽ thấy Phật tới báo (hoặc nằm mộng thấy hoặc được Phật thọ ký ngay trong lúc thức tỉnh).
Chính em phải thường xuyên bên cạnh cô để niệm Phật phụ gọi là hộ niệm. Cứ việc thành tâm niệm Phật cho cô thì tự nhiên nghiệp chướng sẽ tiêu trừ và sau cùng được vãng sanh Tây-phương. Tụng kinh, cầu sám chỉ tiêu trừ những hiện nghiệp nhẹ mà thôi, không thoát nạn được. Trong lúc đang lâm chung mà tụng kinh chỉ làm loạn tâm, không tốt. Niệm Phật hộ niệm là tốt nhứt.
Thôi anh Năm ngừng. Làm con hãy lấy hiếu dưỡng phụ mẫu làm đầu. Chữ hiếu đạo không phải nhỏ đâu. Em phải ráng cố gắng chăm sóc cho cô để trả cho tròn chữ hiếu. Chăm sóc việc ăn uống, thuốc thang, nuôi dưỡng nhục thân là trả Tiểu Hiếu. Lo cho cha mẹ vãng sanh Cực-lạc, thoát vòng sanh tử là trả Đại Hiếu. Người nào thực hành pháp môn niệm Phật, ngày đêm liên tục niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” để cầu sanh Tịnh-Độ, thì chỉ một đời này thôi sẽ vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc Thế Giới. Nhớ kỹ nghen.

Thương em,

Anh Năm.

(Viết xong, ngày 28/9/2001)
---o0o---



tải về 1.87 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương