Khuyên ngưỜi niệm phật cs. Diệu Âm Tập 2 o0o Nguồn



tải về 1.87 Mb.
trang10/19
Chuyển đổi dữ liệu13.06.2018
Kích1.87 Mb.
#39923
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   19

36 - Lời khuyên em gái

Như Ngọc,


Anh Năm vừa nhận được thư em, anh viết liền cho em đây vì thư em đã mở ra mấy vấn đề khá hay. Hồng cũng đang chờ thư anh nhưng anh ưu tiên cho em trước đó.
Đọc thư em, anh biết được em đã nghiên cứu nhiều về Phật học. Đó là hữu duyên với Phật pháp. Anh cũng mới mò mẫn đây thôi chứ không phải “đạo pháp cao” như em tưởng đâu! Anh cảm ơn em đã thường về thăm cậu mợ. Thư anh viết cho cậu mợ gởi kèm theo cho em, là để gợi ý cho em bắt chước làm theo, khuyên cô Sáu niệm Phật, để em trả chữ hiếu làm con, thế thôi.
Em Ngọc, Niệm Phật thành Phật là pháp môn bất khả tư nghì. Một người căn tánh bình thường không dễ gì tin được đâu! Một người căn tánh cao mà thiện căn phước đức không có cũng khó mà thể ngộ. Pháp của Phật để lại gần ba ngàn năm rồi mà nay vẫn còn nhiều người nghi ngờ đúng hay sai! Chính vì thế, cơ hội giải thoát của chúng sanh vẫn còn hiếm hoi, rất khó có được. Bây giờ anh trả lời mấy chuyện trong thư của em, từng điểm một.
Đầu tiên anh mừng cho em có đứa cháu ngon, sớm ngộ Phật pháp, xuất gia tu hành. Hãy cố gắng khuyên nhắc giữ vững tâm Bồ-đề kiên cố bất thối để giải thoát. Còn chuyện “cúng dường con trai” chỉ là điều nói cho vui thôi, ai nghĩ sao cũng được, đừng nên chấp vào sự mà bỏ mất cái lý không hay. Trong thư em có viết: “Quý thầy dạy và khuyên niệm Phật để được vãng sanh. Bao giờ Phật Di-Lặc ra đời mới được thọ ký thành Phật. Câu này có hai đoạn, “niêm Phật để được vãng sanh” anh nghe thường xuyên, kinh Phật nói nhiều lắm, có kinh nhắc đến mấy chục lần. Còn đoạn sau: “Bao giờ Phật Di-Lặc ra đời mới được thọ ký thành Phật” thì anh chưa nghe qua. Thầy nào đã nói với em như vậy? Em hãy đến gặp thầy và hỏi thử câu này từ trong kinh nào, đoạn nào? Cố gắng hỏi cho rõ, để anh tìm hiểu thêm. Nếu anh tìm không ra, anh cũng có thể xin nhờ quý thầy ở đây lục giùm để cho minh bạch.
Em nên biết rằng, thà không nói một điều gì về pháp Phật thì thôi, chứ đã nói pháp Phật thì phải lấy kinh Phật ra ấn chứng. Nếu sơ ý đi sai pháp Phật, thay đổi kinh Phật, diễn tả kinh Phật theo ý riêng của mình sẽ tạo tội lớn lắm. Cổ đức nói: “Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Nói sai kinh Phật sẽ mang tội phỉ báng chánh pháp, làm rối lòng tin, đánh mất phần giải thoát của chúng sanh, tội không phải nhỏ đâu! Cho nên, nói kinh không nên bừa bãi, học Phật phải cẩn thận, nghe pháp phải cần tìm chỗ chánh pháp chứ không được đụng đâu nghe đó mà mang hại! Nếu ai theo đúng kinh Phật thì tin, người không theo kinh Phật thì không được tin, cẩn thận xét suy mới được. Đây là anh Năm chân thành nhắc nhở em đó.
Em nên nhớ một điều, pháp vận của đức Phật Thích-ca Mâu-ni có 12 ngàn năm. Chánh pháp một ngàn năm, tượng pháp một ngàn năm, còn lại 10 ngàn năm là thời kỳ mạt pháp. Chúng ta đang sống vào một ngàn năm thứ nhất của thời mạt pháp. Nghĩa là còn hơn chín ngàn năm nữa vẫn còn dưới pháp vận cứu độ của đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Sau chín ngàn năm đó là thời kỳ không còn pháp Phật, chúng sanh sẽ sống trong những cơ cảnh rất nguy hiểm dưới tà thuyết ngoại đạo, cho đến khi Di-Lặc Bồ-tát từ cung trời Đâu Suất nội viện xuống thế gian thị hiện thành Phật dưới cội cây Long Thọ, mở Long Hoa Hải Hội, khai lại Phật pháp để độ chúng sanh. Thời gian này dài đến hơn nửa tỉ năm nữa. Theo kinh Phật nói Đức Di-Lặc sẽ là vị Phật thứ năm của “Hiền-Kiếp” này, được đức Phật Thích-ca Mâu-ni trao truyền chánh pháp làm Phật tại thế giới Ta-bà. Như vậy thì làm gì có chuyện trong thời độ sanh của đức Phật Thích-ca mà chúng sanh phải đợi cho đệ tử của Ngài đến thọ ký mới được thành Phật? Có lẽ từ chỗ: được trao truyền chánh pháp, sơ ý đã hiểu thành: “thọ ký thành Phật” chăng? Sửa một chữ trong kinh thì ý nghĩa trở thành hoàn toàn khác. Thật phải cẩn thận mới được!
Em viết tiếp, “Nghe anh nói niệm Phật thành Phật sao dễ quá. Thái Tử Tất Đạt Đa tu bao nhiêu ngàn kiếp...”. Thắc mắc này rất hay! Chính đức Thích-ca Mâu-ni tu cả vô lượng kiếp nay mới thành Phật, dễ gì ta tu một đời là thành Phật? Nghi vấn của em rất có nhiều người đồng ý! Thật tế mà nói, muốn tu thành Phật phải trải qua nhiền đời nhiều kiếp chưa chắc đã thành. Nhưng, cũng thực tế, tu một đời này thôi cũng thành Phật, đây cũng rất chính xác, đây là sự thật! Như vậy tu thành Phật, nếu nói khó thì cũng khó không tưởng tượng được. Nhưng ngược lại, nếu nói dễ thì cũng dễ lạ lùng, dễ như cất lời niệm 10 câu Phật hiệu “A-di-đà Phật” mà thôi! Anh sẽ cố gắng mổ xẻ tường tận vấn đề này trong thư này cho em, hy vọng em có thể thể ngộ. Được vậy thật là may mắn!
Trước hết nói thành Phật khó? Đúng đó! Khó vô cùng! Đừng nói chi đến thành Phật mà cả đến phẩm vị Tu Đà Hoàn là bậc tu vô lậu thấp nhứt, mới nhập lưu trong hàng Thánh quả Thinh Văn thôi, mà phải phá cho hết 88 phẩm kiến hoăc phiền não mới đạt được. Nhiều người tu hành thật khổ cực nhiều năm, mà có khi một vài phẩm cũng phá không nổi, chứ đừng nói chi đến 88 phẩm. Rất là khó! Trong thư em viết: “...nhiều vị, em thấy cả đời họ lo tu hành. Nhưng đến ngày ra đi có vị cũng quằn quại trên giường, mê man không biết gì cho đến lúc ra đi...”. Vì quá khó cho nên chính đức Bổn Sư Thích-ca cũng trải qua nhiều đời nhiều kiếp tu hành. Vì quá khó cho nên danh từ nhà Phật thường phải dùng đến danh từ “A-tăng-kỳ kiếp” thời gian để nói sự tu học của một người. Chính vì điểm này quá hiển nhiên đã làm cho con người đâm ra nghi ngờ, thất vọng, đành chấp nhận đọa lạc triền miên trong nhiều kiếp số không về với Phật được!
Trước khi đi thẳng vào câu trả lời chính, anh đưa ra một vài thí dụ cụ thể ở thế gian cho em suy nghĩ trước đã. Hiểu Phật đừng nên gấp. Kiên nhẫn ta sẽ thâm nhập sâu hơn, hiểu rõ ràng hơn để đường ta đi khỏi bị vấp ngã oan uổng!
Ví dụ, anh nói rằng, “muốn làm một chiếc phản lực cơ, loài người phải nghiên cứu học hỏi qua hàng triệu năm”. Đúng không? Đúng! Anh nói ngược lại, “ngày nay người ta làm một chiếc phản lực cơ rất dễ dàng và nhanh chóng.” Đúng không? Đúng! Hai câu này có nghịch với nhau không Ngọc?
Làm một chiếc phản lực cơ, loài người phải trải qua bao nhiêu triệu năm rồi bây giờ mới có. Rõ ràng cách đây một ngàn năm con người có mơ cũng không thấy được máy bay. Cách đây cỡ vài chục năm thì mới bắt đầu thấy ló cái dạng của chiếc máy bay. Loài người đã học hỏi từng chút từng chút từ thiên nhiên, từ động lực học. Họ rút kinh nghiệm từ cánh con chim, từ chiếc pháo thăng thiên, từ hàng triệu cái kinh nghiệm như vậy, trải qua bao nhiêu đời kiếp rồi, mới nẩy ra ý nghĩ chiếc máy bay. Anh em ông Wright(?) thử nghiệm chiếc máy bay đầu tiên, nó cất cánh lên được mấy chục thước, đã trở thành phát minh vĩ đại của nhân loại. Từng thế hệ, con người cải tiến dần cho đến chiếc phản lực cơ ngày hôm nay. Như vậy, nếu muốn làm máy bay mà một người tự lực tự cường đi mò từ những cái phát minh khởi thủy, nghiên cứu từ cái cánh con chim, coi nó đậu xuống như thế nào để về bắt chước làm cái cánh giả trên hai cánh tay mình để thử nghiệm, v.v... thì người đó có mơ trong vô lượng kiếp cũng không mơ được chiếc máy bay chứ đừng nói chi thành tựu. Đúng không em? Người khôn ngoan đâu làm như vậy! Họ chỉ cần đem cái kinh nghiệm, kiến thức, cấu trúc, sơ đồ... đã có sẵn rồi bổ túc thêm, họ thành tựu chiếc máy bay còn siêu việt hơn trước nữa là khác. Những sự thành tựu ngày hôm nay, đối với các nhà bác học vĩ đại trước đây họ không áp dụng được, mặc dù chính họ là những con người siêu việt, tiên phong trong ngành khoa học không gian.
Trở lại chuyện học Phật, đức Phật phải trải qua từng A-tăng-kỳ kiếp tu hành, nghiên cứu, rút tỉa kinh nghiệm. Các Ngài lọc lựa lần, thất bại có, thành công có, đau khổ có, sung sướng có. Các Ngài đã qua những đoạn đường dài kinh khủng với vô vàn thương đau, vô tận nhẫn nhục, kiên cố dũng mãnh mới đạt được quả vị giải thoát rốt ráo viên mãn. Vì quá khó cho nên thế nhân khó mà có dịp chứng kiến được một chúng sanh thành Phật, khó tận mắt thấy được một người vãng sanh Tây-phương. Thư em đã viết, ... nhiều vị... cũng quằn quại trên giường mê man không biết gì hết cho đến lúc ra đi. Theo em biết có vị nào biết trước ngày giờ ra đi đâu?”. Đây là chuyện hiển nhiên. Vậy thì quả thực muốn viên thành Phật đạo đâu phải dễ! Chính vì cái suy nghĩ cạn cợt này, mà con người tự đánh mất lòng tin giải thoát, họ thất vọng ở tương lai, họ buông trôi huệ mạng, không cần đến luân hồi nhân quả. Họ lăn xả vào việc đời để tạo nghiệp mà xa lánh đạo pháp của Phật. Ôi! Khổ đau càng thêm đau khổ!
Như Ngọc, em đã đọc kinh Phật, đã đọc lịch sử Thái tử Tất-Đạt-Đa, bây giờ nếu có giờ đọc lại thêm lần nữa đi. Ngài giáng vương cung, bỏ ngôi vị thái tử, xuất gia tầm đạo giải thoát, sáu năm khổ hạnh chốn rừng sâu. Ngài nhịn đói nhịn khát đến nỗi kiệt sức, ốm đến nỗi da bụng dính sát vào xương sống, v.v... Nhưng khi đã ngộ đạo rồi, Ngài có khuyên đệ tử phải tu như Ngài không? Có chỗ nào Ngài bắt buộc người Phật tử phải khổ hạnh như Ngài không? Ngài có bảo chúng sanh phải nhịn đói, chỉ ăn mỗi ngày một hạt mè như Ngài mới là đệ tử của Phật không? Ngài có bảo ta phải tu cho đủ vô lượng kiếp nữa mới được thành Phật không? Ngài đâu có bắt chúng sanh phải làm giống Ngài, phải không?
Tại sao vậy? Tại vì con đường Ngài đi quá chông gai, quá khổ cực. Những sự khổ cực ấy chúng sanh ngày nay ai theo nổi, mà có theo nổi cũng vô ích, vì sao? Vì Ngài đã thấy điều gì cần, điều gì không cần rồi. Điều gì cần hay không cần Ngài nói trong kinh điển, tại mình nghiên cứu không kỹ cho nên mới sơ ý hiểu lầm ý Phật. Nên nhớ Phật đâu muốn mình làm những gì Phật làm, mà Phật chỉ muốn chúng sanh làm những gì Phật dạy. Mình là con Phật mà không nghe lời Phật dạy, thật là bất hiếu quá!
Con đường chứng đạo của Ngài là con đường khai phá, tự Ngài tìm ra chân lý. Bây giờ Ngài lấy chân lý ấy để độ chúng sanh. Còn con đường chúng ta tu học Phật là đường hưởng thụ sự khai phá ấy để đắc thành chánh quả, nghĩa là lấy kinh nghiệm của Ngài để tu, chứ tại sao lại đi nghiên cứu, tự mò mẫm để chứng từng phẩm một mà phải trải qua từng A-tăng-kỳ kiếp thời gian như Ngài? Như ví dụ ở phía trước, ngày nay ta muốn làm máy bay thì hãy đem cái kinh nghiệm trước ra rồi chọn lọc, bổ sung, để hoàn thành chiếc máy bay theo ý muốn, chứ đâu phải đi theo từng chặng, để khám phá từng đoạn như trước nữa. Những nhà khoa học trước đây họ phát minh ra chiếc máy bay, còn chúng ta bây giờ là hưởng lấy cái phát minh của họ để làm máy bay, ngồi trên máy bay mà hưởng thụ cái tiện nghi này chứ. Rõ ràng hai việc khác nhau.

Như vậy nếu ta nghe lời Phật dạy, ta trung thành theo kinh Phật thuyết ra, một lòng tin Phật, y giáo phụng hành, thì làm sao mà không đắc quả. Hãy mở kinh Phật ra coi đi, tràng giang đại hải những lời khai thị như: một đời quyết định thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chứng thành Vô Thượng Bồ-đề, vãng sanh Tây-phương Cực-lạc Quốc, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề, v.v... từ chính kim khẩu của đức Bổn Sư nói ra. Lời Phật là thật ngữ, chân ngữ, như ngữ, Ngài nói thẳng thắn, chân thật, như thị như thị. Vì lòng từ bi, Ngài không muốn chúng sanh phải trải qua vạn kiếp khổ đau, trầm luân đọa lạc trong sanh tử luân hồi, cho nên Ngài đem tất cả kinh nghiệm thù thắng nhứt của mình truyền lại cho chúng sanh, để sự tu hành của chúng sanh có kết quả viên mãn nhanh chóng, tiết kiệm hàng vạn kiếp, khỏi phải phung phí thời gian một cách vô ích, để được thoát nạn chính trong đời này. Thế mà ta không chịu làm theo, lại thích nếm mùi băng mình vào luân hồi, lội dòng ngạ quỷ, ngu si trong cảnh súc sanh, chịu cực hình trong địa ngục vô lượng kiếp rồi mới nghĩ tới chuyện giải thoát, nghĩa là sao?!


Trong kinh Phật thuyết A-di-đà, đức Phật gọi ông Xá Lợi Phất bảo, Ông Xá Lợi Tử, một người có ít thiện căn, ít phước đức, ít nhân duyên, không thể nào được sanh về thế giới đó được”. Nhưng ngay sau đó Ngài nói tiếp, “Này ông Xá Lợi Phất, nếu có người thiện nam, thiện nữ nào nghe ta thuyết về A-di-đà Phật, mà cố nhớ trì giữ danh hiệu Ngài trong một ngày, hoăc hai ngày, ... đến bảy ngày, một lòng nhất tâm, thì người đó lúc lâm chung Phật A-di-đà cùng chư Thánh Chúng sẽ hiện ra trước mặt, người đó lâm chung tâm sẽ tỉnh táo, sáng suốt và chắc chắn được vãng sanh về thế giới Cực-lạc của Phật A-di-đà.
Em hãy đọc thật kỹ đoạn kinh văn này mà suy nghiệm. Trước thì Phật nói phải có đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên, mới được vãng sanh. Nhưng sau đó thì Phật lại nói, chỉ cần nhất tâm niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày là được vãng sanh. Hai câu này nghe qua thật là ngược nhau, nhưng hiểu cho thấu đáo thì không có gì là nghịch chống cả. Một bên là quá khứ, một bên thuộc về hiện tại. Thiện căn, phước đức, là cái quả thành tựu từ cái nhân tu hành trong vô lượng kiếp trước. Chính nhờ cái thiện căn, phúc đức ấy dễ tạo ra cái “duyên” gặp được Phật pháp trong đời này để thành Phật.
Niệm Phật bảy ngày nhất tâm bất loạn tất đắc vãng sanh, là cái công phu tu hành thù thắng do từ TÍN-NGUYỆN-HÀNH đầy đủ của người thiện nam thiện nữ. Sở dĩ được vậy không phải hoàn toàn là do công phu của mình, mà vì đã được sự gia trì của 48 đại nguyện độ sanh của đức Phật A-di-đà. Trong kinh Vô Lượng Thọ, phẩm 6, nguyện 18 còn nói đơn giản hơn nữa, chỉ cần chí thành niệm 10 câu Phật hiệu “A-di-đà Phật” trước khi lâm chung cũng được vãng sanh. Lời Phật đã nói rõ ràng như vậy, có ai dám cho rằng đức Phật nói cho vui chơi không?
Một người có thiện căn và phước đức đầy đủ thì khi nhân duyên đến là họ niệm Phật ngay, họ thành tựu liền, đường tu hành trơn tru phẳng lặng. Đây gọi là “Dễ”, một đời vãng sanh bất thối thành Phật. Người có duyên gặp pháp môn niệm Phật nhưng họ không tin, không chịu niệm Phật là tại vì họ không có tu bồi phước đức từ trước, hoặc còn thiếu thiện căn. Người có thiện căn nhiều (tu hành nhiều) nhưng thiếu phước đức, thì khi có duyên họ sẽ tin sẽ niệm, nhưng thường bị kẻ xấu tới phá hoại, cản trở, nhiều lúc cũng dang dở đường tu không được vãng sanh, họ có thể tạo thêm thiện căn cho đời sau. Đây có thể gọi là “Khó”. Cái khó này nhiều lúc nó kéo huệ mạng của họ trở lại trong sanh tử luân hồi tới “bá thiên vạn kiếp” về sau chứ không phải tầm thường.
Như vậy, sự “dễ” thành tựu hôm nay chính là nhờ cái nhân tu hành từ trước. Người nào đã có thiện căn phúc đức sẵn, khi gặp được nhân duyên thì họ thành tựu liền lập tức. Trường hợp này xảy ra nhiều lắm, tại mình không đủ phương tiện, không có duyên lành để chứng kiến thôi, chứ không phải là chuyện kể quá đáng đâu. Em phải hiểu rằng, vì em chưa thấy, chứ đâu phải là không có. Ví dụ, chuyện con chuột mới đêm qua ăn trộm trứng gà ngay trong nhà mình mà mình cũng không hay, thì làm sao đòi thấy cho hết mọi chuyện đó đây, phải không?
Hỏi rằng, nếu như người đã thiếu thiện căn, phúc đức bây giờ họ quyết tâm niệm Phật cầu vãng sanh có được không? Đây là trường hợp đặc biệt khó vì thường họ không tin. Tuy nhiên nếu sự thông minh chợt phát, họ quyết tâm niệm Phật vẫn được vãng sanh như thường. Vì sao? Vì công đức của câu Phật hiệu bất khả tư nghì. Ngài Đại Sư Ấn Quang dạy: Niệm Phật phương năng tiêu túc nghiệp. Kiệt thành tự khả chuyển phàm tâm. Nghĩa là niệm Phật là có năng lực làm tiêu tất cả nghiệp chướng (túc nghiệp là nghiệp chướng từ vô thỉ tới nay). Niệm Phật cho kiệt thành, chí thiết thì tự ta có thể chuyển phàm thành Thánh, (tức là thành Phật). Còn Ngài Tịnh-Không giảng rằng: Một câu nhất tâm niệm Phật có thể tiêu trừ 80 ức kiếp nghiệp chướng trọng tội”. Như vậy nếu nhất tâm được để niệm Phật, chỉ cần vài ngày là tội chướng có thể tiêu sạch. Một khi tội chướng tiêu tan thì phúc đức sinh ra, bồi đắp thiện căn, phát sinh trí huệ, tự nhiên sẽ thấy được chơn tâm, khai mở Phật tánh. Chắc chắn sẽ được vãng sanh Cực-lạc quốc. Ví dụ như trường hợp ông Châu Quảng Đại ở Washington DC, ông niệm Phật chỉ có ba ngày đã được vãng sanh. Ông không phải tu Phật, chỉ được duyên may giờ chót gặp người khuyên niệm Phật, ông tin theo mà vẫn thành tựu. (Thư anh mới gởi cho cậu mợ có nói chuyện này, tìm đọc sẽ rõ hơn).
Tóm lại, tu hành thành Phật cũng thật là khó mà cũng thật là dễ. Khó là khó với người không tin Phật; dễ là dễ với người tin Phật. Khó vì ỷ mình tài giỏi tự lực tu chứng; dễ vì biết nhờ lực gia trì của Phật. Khó vì cứ muốn tự bơi qua biển nghiệp mênh mông; dễ vì biết đưa tay cho đức Phật A-di-đà cứu độ. Khó vì không chịu cầu xin về Cực-lạc thế giới; dễ vì một lòng một dạ nguyện sanh Tây-phương. Khó vì không chịu niệm Phật; dễ vì nhất hướng chuyên niệm A-di-đà Phật. Khó vì tu không chọn kỹ pháp môn, cứ thấy kinh Phật là nhào đại vào tu không biết kinh đó có hợp cơ hợp lý với mình không; dễ vì biết nghe lời Phật dạy, Phật dạy rằng thời kỳ Chánh Pháp Giới Luật thành tựu; thời kỳ Tượng Pháp Thiền Định thành tựu; thời kỳ Mạt Pháp Tịnh-Độ thành tựu. Khó là vì tu hành mà không xác định hướng đi rõ ràng, lơ mơ mờ mịt trong sinh tử luân hồi; dễ vì xác định rõ ràng hướng đi, đó là: hãy về Tây-phương Cực-lạc trước rồi tính sau. Khó thành Phật cho nên chúng sanh vô biên vẫn đâm đầu vào ác đạo để chịu khổ; dễ thành Phật cho nên trong kinh Phật nói có “hằng hà sa số Phật”. Kinh Vô lượng Thọ, phẩm 13 nói về số lượng người vãng sanh Tây-phương nhiều đến mức độ không ai có thể đếm được số lượng, nếu đếm được thì Pháp Tạng Tỳ Kheo thề không thành Phật. Nếu khó thì làm sao được vậy?!...
Như vậy, được vãng sanh hay không, dễ hay khó đều tùy theo cách hành trì, nhân địa tu hành, chứ không phải xuất gia hay tại gia. Nếu đọc kinh Lăng Nghiêm em sẽ rõ điều này, xuất gia mà không theo đúng pháp Phật, bị tội rất lớn, vì có thể phá hoại Phật pháp, nhiễu loạn lòng chúng sanh. Trong thời mạt pháp này, theo như trong kinh Phật nói, “Tà sư nói pháp như hằng hà sa”. Chính vì vậy mà anh đã nhắc em từ đâu rằng, hễ ai nói đúng theo kinh Phật thì nghe, ai nói sai với kinh Phật thì nhất định đừng nghe!
Đến đây chắc có lẽ anh đã trả lời được cái nghi vấn của em là tại sao những vị nào đó cả đời tu hành mà vẫn bị mê man mờ mịt ra đi rồi chứ? Và đây cũng là dịp cho em hiểu rằng, “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” thì ai cũng có thể “Giai thành Phật đạo”, chứ không thể phân biệt được đâu.
Em Ngọc, Phật Pháp sâu rộng quá, một thư này trả lời chưa trọn hết được ý. Anh khuyên em hãy một lòng chân thành niệm “Nam-mô A-di-đà Phật”, đây là con đường thẳng tắp đến nước Phật. Khi vãng sanh rồi thì không còn sanh tử nữa, nghĩa là chỉ còn một đời này thôi sẽ thành Phật, cho nên mới gọi là một đời thành Phật. Vãng sanh về tới Tây-phương Cực-lạc thì nhờ lực gia trì của Phật A-di-đà mà chúng ta sẽ được hồi phục được tự tánh, khôi phục được cái năng lực vô biên sẵn có của mình. Nếu em được vãng sanh, thì khi đó em sẽ có thần thông quảng đại, trong đó túc mạng thông, giúp em biết được vô lượng kiếp về trước em sống như thế nào? Đã tu hành ra sao? Thiện căn lớn hay nhỏ? v.v... Chứ bây giờ ở đây làm sao biết đến chuyện này được. Phải không em?

Thôi ngừng, thư dài hãy quên nó đi, chỉ cần nhớ niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” là đủ rồi.


Anh Năm

(Viết xong, Úc châu 18/6/2001)


---o0o---

37 - Lời khuyên em gái



Em Ngọc,
Trong một hoàn cảnh khó khăn bận bịu mà em cùng quý bác và anh chị em đã cố gắng tạo được một “Niệm Phật Đường” nhỏ và mỗi ngày gặp nhau tinh tấn niệm Phật thật là quý hóa. Hãy quyết tâm tin tưởng vào lời Phật dạy, niệm Phật cầu sanh về Tây-phương. Trong đời này chúng ta gặp nhau rồi cùng nhau niệm Phật chính là một duyên lành, anh nhớ từng khuôn mặt dễ thương của tất cả quý bác và anh chị em ở An Thái, nhưng tên thì có người còn nhớ, có người chưa biết. Nếu có dịp chụp chung một bô hình rồi ghi hết tên gởi sang Úc thì hay quá. Hãy cố gắng giúp đỡ lẫn nhau, khuyến tấn tu hành, Ngọc thấy có gì cần anh giúp đỡ thì cho anh biết. Nguyện cầu A-di-đà Phật gia trì cứu độ tất cả được vãng sanh Tịnh-Độ, một báo thân này viên thành Phật đạo.
Anh không bao giờ quên em cùng quý bác, quý anh chị em ở An Thái đã lặn lội xa xăm vào niệm Phật với anh. Anh Năm rất sung sướng và cảm động khi nghe em nói rằng tất cả quý bác sẵn sàng vào hộ niệm cho cha má anh khi cần. Anh rất tán thán ý kiến này, đây là tâm lượng Bồ-tát. Người tu hành chân chánh là vậy đó, khi đã biết được con đường giải thoát thì nên thành tâm phát nguyện cứu giúp người khác, bằng cách khuyên người niệm Phật, quyết tâm hộ niệm cho nhau, mong cho từng người được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc. Hãy chân thành để làm thì tự nhiên có sự cảm ứng. Cứu người không ngại khó khăn, không cần trả ơn, nghe được một người vãng sanh ta mừng như chính ta được vãng sanh vậy. Theo lời yêu cầu của em, anh Năm sẽ nói rõ hơn về sự hộ niệm, hơn nữa hôm nay anh nhấn mạnh những gì cần nên làm, những gì không nên làm khi hộ niệm cho một người lâm chung. Có một số thư anh đã nói rồi, cũng nên cần đọc lại. Thôi anh đi vào vấn đề chính.


  1. Tại sao phải hộ niệm?


Khi một người lâm chung, họ sẽ bỏ cái báo thân này và đi vào cảnh giới khác. Thông thường người ta gọi là chết. Tuy nhiên danh từ “chết” là chỉ cho cái nhục thân đã đến kỳ mãn hạn, bản chất của cái thân này là tứ đại kết lại thì bây giờ đã đến lúc nó phải tan rã để trở về với đất, nước, lửa, gió. Nhưng còn chính người đang sử dụng cái thân đó không chết, đến lúc đó họ sẽ không còn lệ thuộc vào cái thân nữa và chuyển qua một cảnh giới “tạm thời” khác gọi là thân trung ấm, để chờ ngày tái sanh (hay đọa lạc!). Tuy nói vậy, nhưng nếu một người trải qua đầy đủ những bước trên, như từ mất thân, đến trung ấm, đến tái sanh, thì nói rằng họ “chết”cũng có thể đúng, vì khi trải qua một cuộc chuyển đổi như vậy họ sẽ đau đớn cả thể chất lẫn tinh thần, sau đó họ hoàn toàn trở thành con người khác, sẽ quên hết những gì trong quá khứ, hoặc nếu bị đọa lạc thì khó có thể trở lại làm người.
Tuy nhiên nếu trong đời người đó biết cách tu hành, biết chọn đúng hướng chuyển thân thì khi báo thân mãn là cơ hội tốt cho họ thực hiện lý tưởng giải thoát, không còn bị tù hãm trong cái thân èo uột khổ sở này nữa, họ sẽ sống trong một cảnh giới tốt đẹp hơn. Trong đó, Tây-phương Cực-lạc Thế Giới của đức Phật A-di-đà là cảnh giới tốt đẹp nhất mà trên tất cả mười phương chư Phật không có chỗ nào sánh bằng. Một chúng sanh trong mười phương cõi Phật muốn sanh về đó thì phải phát lòng tin tưởng, phải niệm A-di-đà Phật, phải nguyện vãng sanh. Nếu ba thứ tư lương này được thực hiện đầy đủ, thì khi lâm chung chỉ cần cất lời niệm 10 câu Phật hiệu, hoặc như HT Tịnh-Không nói, một niệm cũng được vãng sanh. Điều kiện để vãng sanh quá dễ dàng! Tuy nhiên, chỉ dễ dàng đối với người biết niệm Phật với tín hạnh nguyện đầy đủ và được hộ niệm lúc lâm chung. Người có chân thành niệm Phật, nhưng công phu còn yếu, chưa phá nổi nghiệp chướng, chưa đủ an toàn tự lực vãng sanh, nếu không được hộ niệm họ có thể vẫn bị khá nhiều trở lực làm chướng ngại sự vãng sanh.
Thông thường ta chỉ nghe nói đến cầu an hoặc cầu siêu chứ ít nghe nhắc đến “Hộ Niệm”. Cầu an là độ người sống, cầu siêu là độ người chết. Độ người sống là cầu cho người sống được thọ mạng tăng trưởng, tật bệnh tiêu trừ, tiêu tai giải nạn. Khi một người bị bệnh thường là dịp để thiết đàn cầu an, có lẽ đây là cơ hội tốt để kết duyên lành Phật pháp cho họ, còn kết quả cầu an có tốt hay không phải tùy thuộc nhiều vào người đó có thực tâm làm theo lời Phật dạy hay không. Phật dạy tu hành để chuyển nghiệp, nghiệp đang xấu thì phải tạo nghiệp tốt để chuyển đổi hoàn cảnh, nếu được cái tâm như vậy thì cầu an là sự trợ duyên rất tốt. Còn không chịu tạo nghiệp tốt mà muốn chuyển nghiệp thì có khác gì nói rằng không ăn cũng no, không uống cũng hết khát!
Còn cầu siêu là độ cho người chết, giúp cho thần thức nhẹ tội phần nào hay phần đó trong cảnh giới trung ấm và cũng là một hình thức gieo duyên Phật pháp cho họ, mong cho tương lai thần thức sớm thức tỉnh quy y Tam Bảo, cải tâm tu hành để may ra được siêu sanh giải thoát. Nghĩa là có được giải nạn hay không chính yếu là tự họ phải biết quay đầu hay không. Chứ một khi tội đã thành hình, thần thức đang bị quay cuồng trong cơn gió nghiệp thì làm sao cứu được! Như vậy cầu an và cầu siêu nặng về gieo duyên Phật pháp, có tác dụng dài lâu về tương lai, may hay rủi còn tùy thuộc nhiều vào thiện căn, phước đức và nhân duyên của họ.
Còn “hộ niệm” thì trực tiếp cứu độ một người vãng sanh thẳng về Tây-phương Cực-lạc một đời giải thoát sanh tử luân hồi bất thối thành Phật, bằng chính sự thức tỉnh kịp thời của người đó và nhờ sự bảo hộ an toàn của những người hộ niệm. Niệm Phật, có tín hạnh nguyện đầy đủ, cộng với có hộ niệm thì sự vãng sanh có xác suất rất cao. Kinh Phật nói rằng, “đời mạt pháp vạn ức người tu khó có được một người chứng đắc”, là tại vì không có người chịu quyết tâm tu hành theo con đường giải thoát của Phật dạy, mà cứ thích tu lòng vòng, thích cầu đám, chứ không thích hộ niệm để có một niệm giác ngộ vãng sanh ngay thời điểm lâm chung. Chính vì thế mà phải cần đến sự hộ niệm.


  1. Thế thì tại sao rất ít người chú ý tới sự hộ niệm?


Một là, thấy bệnh thì dễ, chết rồi tới thăm cũng dễ, nhưng biết lúc nào chết không phải dễ. Hai là, cầu nguyện cho tật bệnh tiêu trừ, cho tiêu tai giải nạn thì ai cũng thích, nhưng cầu cho được “vãng sanh” thì không ai thích, lý do có lẽ là vì ít có người hiểu rõ được sự vãng sanh, hoặc cứ nghĩ rằng vãng sanh là chết. Đời này ai lại đi cầu chết! Chỉ vì “chết” không thể tránh khỏi, nên khi bị “chết” rồi mới cảm thấy tiếc thương! Vì thương tiếc nên mới nghĩ rằng người thân “có lẽ may ra” còn sống ở đâu đó, thôi thì thử đi cầu siêu. Cầu được hay không cũng chỉ qua vài lần thì tất cả đều đi vào quên lãng!
Thế đời là vậy đó! Tham sống, sợ chết. Sự sống không cần tham cũng sống, ấy thế mà ai cũng tham. Cái chết không có thực mà cứ lo chạy trốn cho nên bị chết mãi. Suốt kiếp cứ lo sợ chết thành ra nó cứ bám sát theo, không thoát ly được. Phải chăng, thực sự con người đang sống trong vọng tưởng, thích giữ cái vô thường giả tạm để sống, còn sự thật thì bỏ quên để mãi mãi rơi vào trạng huống khổ đau!
Cầu an là cầu cho sự sống tốt đẹp, tránh né sự chết. Cầu siêu cầu trong sự chết, mong cho có sự sống trở lại. Tất cả dù có vi diệu cũng chỉ là gieo thêm duyên Phật pháp trong đời, cho vô lượng kiếp về sau chứ không thể giải quyết chuyện một đời này thoát ly sanh tử! Phật dạy rằng, một chúng sanh thực sự không có sự chết, chỉ có sự sống đời đời trải qua thời gian dài vô cùng vô tận, có sướng có khổ trong vô lượng vô biên cảnh giới. Sự chết chỉ là một cảnh khổ đau trong nhiều cảnh khổ mà chúng sanh vì mê muội cho nên phải chịu mà thôi. Con người cứ chấp vào cái vô thường cho là thực thành ra cứ tiếp tục sanh rồi tử, tử rồi sanh, sanh sanh tử tử khổ đau bất tận! Nếu đã hiểu thấu được lý đạo này, ta có thể chấm dứt cảnh đoạn trường tang thương của nhân thế. Nhờ vào đâu? Niệm Phật vãng sanh Cực-lạc Liên Bang, ở đó thọ mạng vô lượng, báo thân này không bao giờ bị mãn, cho nên không còn chứng kiến được cảnh sanh tử tang thương nữa.
Niệm Phật tự vãng sanh chưa đủ chắc chắn. Niệm Phật và được hộ niệm thì mới chắc chắn vãng sanh. Đáng tiếc con người không chịu nghe lời Phật dạy, không chịu nguyện vãng sanh. Tệ hơn nữa, cứ nghĩ vãng sanh là chết thành ra sợ không dám mời ai tới hộ niệm cho mình, con cháu không dám tổ chức hộ niệm cho người thân. Sự hộ niệm đã bị bỏ quên, thành ra chúng sanh đành chịu thiệt thòi không có phần giải thoát vậy!


  1. Hộ niệm là gì?


Như trên ta đã biết rằng con người thực của chúng ta trải qua từ vô thỉ đến vô chung bằng sự mất thân thọ thân, chuyển đổi hình thể qua nhiều môi trường khác nhau, có sướng hơn hoặc khổ hơn, tốt hơn hoặc xấu hơn... chứ không phải chỉ mấy mươi năm ở đời này. Một lần chuyển đổi như vậy là xong một “phần đoạn sanh tử”, hay nói dễ hiểu là một đời. Hầu hết những cảnh sống này đều do nghiệp lực dẫn dắt để trả cái nghiệp báo đã từng kết tập trong quá khứ. Tuy thế, có một điều ta cần phải nhớ, là cái ý niệm cuối cùng lúc lâm chung rất quan trọng, nó có khả năng quyết định cảnh giới đời sau. Nghĩa là, ngay lúc lâm chung nếu nẩy sinh một ý niệm thiện có thể sanh về thiện đạo, một ý niệm ác sanh về ác đạo, niệm một câu A-di-đà Phật sẽ được sanh về Tây-phương Cực-lạc bất thối thành Phật. Chính vì một niệm lúc lâm chung có tầm quan trọng quyết định, cho nên người học Phật nhứt định phải làm sao thực hiện cho được cái ý niệm vãng sanh Tịnh-Độ để được viên mãn giải thoát, viên thành Phật đạo. Ý niệm này lúc bình thường thì ai niệm cũng được, nhưng đến thời điểm lâm chung thì không phải dễ. Lúc đó thân thể đau nhức, đầu óc quay cuồng, sức lực kiệt tận, gia sự rối ren, oan gia phá hoại, ma quái dụ hoặc, nghiệp báo tấn công, v.v... trăm ngàn thứ ồ ạt tấn công sẽ tạo nên một sự khủng bố rất lớn, làm người ra đi phải điên loạn không còn tự chủ được. Cho nên, dù là người có niệm Phật, nhưng nếu công phu chưa đủ để xóa tiêu nghiệp chướng, tâm chưa được thanh tịnh thì phút lâm chung vẫn có thể bị trở ngại, chưa đủ an toàn để vãng sanh. Sở dĩ bị vậy là vì: một là do thế lực tà ác hung hiểm bên ngoài tấn công, hai là thể lực bên trong quá yếu, thần thức mê mệt. Chính vì thế, người muốn vãng sanh Tịnh-Độ thì ngày đêm phải niệm Phật và phải chuẩn bị sẵn sự hộ niệm cho mình. Được như vậy, lúc đó sẽ vững tâm, an nhiên, tự tại, bảo đảm an toàn vãng sanh.
Hộ niệm giảm thiểu sự rủi ro, tăng thêm sự an toàn cho việc vãng sanh. “Hộ” là bảo hộ, hộ trợ, là hành động của người còn khỏe quyết tâm bảo vệ người ra đi, ngăn chận những thứ tà ác bên ngoài tấn công vào làm hại; “Niệm” là ức niệm, tưởng niệm, là làm cho tâm thần người ra đi không bị mê mờ, không bị lầm lạc, tỉnh táo đi theo con đường mình chọn, nói cho rõ ràng hơn, “Niệm” chính là trì niệm danh hiệu A-di-đà Phật. Nói chung, “Hộ Niệm”hay “Trợ Niệm” là nghĩa hiệp cứu trợ người lâm chung thoát khỏi những cảnh giới hung hiểm để vãng sanh về cảnh giới tốt đẹp theo ý muốn. Người học Phật thì ước nguyện cao cả là vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, bất thối thành Phật, viên thành đạo nghiệp, thì ngay thời điểm này tất cả mọi hành động, tâm tưởng, hình ảnh, v.v... đều phải quy tụ về đó, không được xen tạp bất cứ một điều gì lệch ra khỏi Tây-phương Cực-lạc Y Báo Chánh Báo Trang Nghiêm. Y Báo là cõi Tây-phương Tịnh-Độ, Chánh Báo là đức Phật A-di-đà, người lập ra Cực-lạc quốc độ. Như vậy, hộ niệm (hay còn gọi là trợ niệm) là tất cả mọi người chí thành khẩn thiết, hướng tâm về đức Phật A-di-đà cầu nguyện Ngài đại từ đại bi phóng quang tiếp độ người sắp lâm chung. Phương pháp duy nhất cần phải làm là tất cả mọi người đều thành tâm niệm “A-di-đà Phật” để cho từng giây từng khắc người ra đi nghe được danh hiệu “A-di-đà Phật”, niệm được danh hiệu “A-di-đà Phật”, và nhớ quốc độ của Phật A-di-đà để cầu xin vãng sanh về đó.


  1. Khi nào thì bắt đầu hộ niệm?


Trước giờ lâm chung, ngay lúc lâm chung, và sau khi lâm chung ít ra tám tiếng đồng hồ cần phải được liên tục hộ niệm, không bị gián đoạn, nhất là thời điểm lâm chung. Một điều khó là làm sao biết được giờ phút lâm chung để sẵn sàng hộ niệm? Nếu một người có công phu niệm Phật đã đến cảnh giới “nhất tâm bất loạn”, họ biết được ngày giờ ra đi, thì chuyện này trở thành quá đơn giản. Trường hợp này có hộ niệm hay không không mấy quan trọng, lý thú hơn nữa là nhiều khi họ rất tự tại vãng sanh, làm tiệc vãng sanh, mời bà con tới vui tiệc rồi an vui từ tạ ra đi. Còn người có công phu thấp hơn một bực gọi là “niệm Phật thành thục”, “niệm Phật thành phiến”, “lão thật niệm Phật”, dù chưa được nhất tâm bất loạn, nhưng nghiệp chướng đã nhẹ, thần trí tỉnh táo, đôi lúc họ cũng biết được gần chính xác thời gian ra đi, hoặc có thể có những tiên triệu hay linh cảm giúp họ có thể tiên đoán. Những trường hợp này cũng tương đối đơn giản. Riêng những người công phu niệm Phật còn yếu, nghiệp chướng còn nhiều, họ khó có thể biết trước được giờ phút lâm chung, thì đòi hỏi người hộ niệm phải chịu khó cẩn thận tổ chức hộ niệm càng sớm càng tốt. Ví dụ, như chuyện vãng sanh của bác Dư Thị Ky vào tháng 12/2002 vừa qua làm điển hình, bác không biết ngày nào ra đi, nhưng được cái may mắn là nhờ bác sĩ ở bệnh viện báo trước tình hình của bệnh trạng. Giả sử khi đó gia đình không hiểu Phật pháp, không có người niệm Phật, không ai biết hộ niệm, cứ ngày ngày quây quần than thở, buồn rầu, lo chạy lăng xăng để chữa cầu may... thì hậu quả chắc chắn sẽ rối rắm vô cùng, sầu khổ vô biên, sẽ buồn thảm như bao đám tang bình thường khác! Vì dù rằng bác đó là một người hiền, nhưng thực tế thì công phu tu tập không nhiều, thời gian niệm Phật quá ít, thì tự mình khó chống chọi nổi với những thế lực hung hiểm bên ngoài để được chắc chắn an toàn thoát nạn. Thế nhưng, vì gia đình đã tổ chức hộ niệm kịp thời, giúp cho bác an nhiên vãng sanh trong đường tơ kẽ tóc. Thật là may mắn, thật là một đại phước báu trên đời, không có gì sánh được!
Hộ niệm là một buổi công phu tu tập mà công đức so ra còn lớn hơn một buổi tu hành bình thường, vì ngoài công đức niệm Phật còn có công đức cứu độ chúng sanh. Các cụ già cả thì báo thân còn lại này mong manh như hạt sương mai, cảnh sống hụp lặn trong lục đạo luân hồi quá khổ đau, nếu hiểu thấu sự sanh tử quá khổ đau thì quý cụ nên lập nguyện vãng sanh về với Phật càng sớm càng tốt để giải tỏa kiếp nạn khổ hải cuộc đời, chứ tham luyến làm chi nữa cái thân vô thường đã đến ngày tận kiệt này mà coi chừng khó thoát khỏi ách nạn. Niệm Phật vãng sanh Tịnh-Độ thì cần phải tỉnh táo lúc lâm chung. Muốn cho tinh thần được tỉnh táo thì điểm đầu tiên là không được sợ chết. Hãy thường xuyên tự nhắc với chính mình rằng, chúng ta không chết mà chỉ biến đổi hình thức sống qua những cảnh giới khác mà thôi, cho nên còn sợ chết là chưa hiểu đạo, còn sợ chết thì chắc chắn sẽ bị khủng bố, bị hãi hùng, thì làm sao tới lúc đó có thể tỉnh táo để vãng sanh! Người liễu ngộ Phật pháp không những không sợ chết, mà tích cực hơn còn mong cầu được vãng sanh càng sớm càng tốt. Nếu có được tinh thần này thì lúc lâm chung rất dễ được tỉnh táo.
Nghe tới đây, chắc có lẽ nhiều người nghĩ rằng, một người đang sống mà nằm chờ chết thì tinh thần bi quan yếm thế quá! Nghĩ như vậy cũng có cái lý của nó! Tuy nhiên, danh từ “nằm chờ chết” hoặc “bi quan yếm thế” là của thiên hạ, đó là quyền tự do suy tư của họ, còn chúng ta là người niệm Phật, có tín hạnh nguyện đầy đủ, đã thông suốt đạo lý của Phật thì nhất định phải có lập trường vững chắc của mình. Thiên hạ thường rất sợ chết nên kiêng cữ nói “chết”, sợ hãi sự “chết”, trốn tránh cảnh “chết”. Họ cẩn thận quá đến nỗi vừa nghe đến tiếng “chết” thì bắt đầu bị hãi hùng, bị khủng bố! Đây là một trong những lý do chính yếu làm cho tâm hồn bị kinh hãi, rối loạn, điên đảo... khi lâm chung. Sợ chết đâu có tránh khỏi chết, chỉ tạo thêm sự khổ đau cho cuộc sống vốn đã đầy tràn đau khổ, tự đày đọa mình phải khổ trong lúc đang sống, khổ khi lâm chung, khổ sau khi lâm chung, và đày đọa khổ luôn những đời kiếp tương lai. Nghĩ mà thương cho họ!...
Biết tu hành, hiểu đạo, chúng ta không thèm tham sống, cũng không thèm sợ chết. Không thèm tham sống đâu phải là bi quan chán đời, mà thực sự là để luôn luôn được an vui, tự tại trong mọi cảnh sống, mọi chuyện đã có định mệnh, hãy tùy duyên theo định mệnh mà sống. Định mệnh là gì? Là định luật nhân quả. Hãy làm việc tốt, là người tốt, nghĩ chuyện tốt, nói lời tốt, thì tự nhiên định mệnh sẽ tốt, ta cần chi phải cưỡng cầu chạy tìm kết quả tốt cho khổ tâm!?
Không thèm sợ chết thì cái thân nghiệp báo này muốn vãng lúc nào cứ để nó vãng đi, ngày đó ta có niềm vui thoát nợ trần lao, chứ còn chính ta có bao giờ chết đâu mà sợ. Vì chính ta không chết cho nên mới sớm tìm đường thoát nạn, đường niệm Phật vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, vĩnh viễn xa lìa cái cảnh sanh tử biệt ly khổ não. Như vậy mới là vui, chứ dại gì cứ ôm đầu lo sợ chết để chờ ngày bị đem đi chôn. Một người mất báo thân mà không sợ, lại còn vui sướng, thì thử hỏi còn có cái mất nào khác có thể làm cho ta lo sợ hay buồn đau? Tâm hồn an lạc, tinh thần thanh tịnh, cuộc sống tự tại, tư tưởng thoát phàm... Chẳng lẽ đây là trạng thái bi quan yếm thế sao?


  1. Hộ niệm như thế nào?


Hộ niệm, bình thường là một buổi niệm Phật. Trong làng xóm, trong nhóm cộng tu, nhất là các cụ già khi ngã bệnh thì nên mời những người biết niệm Phật tới hộ niệm cho họ. Thực hiện được điều này rất hay, nếu trong nhóm đồng tu của chúng ta đồng tâm nhứt trí làm như vậy thì có thể tin tưởng rằng, ai ai cũng có cơ hội vãng sanh. Tổ chức hộ niệm thường xuyên cho người bệnh sẽ có nhiều sự lợi ích bất khả tư nghì.
Một là, củng cố lòng tin Phật pháp, tăng cường công phu tu tập, trưởng dưỡng công đức cho nhau;
Hai là, giải trừ ách nạn cho bệnh nhân vì niệm Phật là pháp đại sám hối, nghiệp chướng được tiêu trừ, tạo được niềm vui và nguồn an ủi cho gia đình bệnh nhân;
Ba là, tập làm quen với không khí cộng tu tại tư gia, thực tập thuần thục sự hộ niệm;
Bốn là, kịp thời cứu độ người bệnh vãng sanh, không sợ bị sơ hở. Cứu được một người vãng sanh công đức lớn không thể kể xiết!
Như vậy, hộ niệm cho một người bệnh bình thường (nghĩa là chưa phải lâm chung) thì quá đơn giản. Thay vì chúng ta tới niệm Phật đường hay tới chùa để niệm Phật, thì bây giờ hãy cùng nhau tới thẳng nhà người bệnh để niệm Phật, thế thôi. Những nghi thức niệm Phật cộng tu bình thường như nguyện vãng sanh, hồi hướng công đức, đều phải có. Đặc biệt khi hồi hướng công đức nên thêm phần hồi hướng cho bệnh nhân. Mỗi ngày có thể niệm Phật một, hai hay ba thời... tùy theo điều kiện. Bệnh càng nặng càng tăng thêm thời niệm Phật.
Nhưng một khi người bệnh đã quá yếu, nghĩa là có thể phải lâm chung, thì sự hộ niệm không thể chia thành thời khóa nữa, mà phải niệm Phật liên tục 24 giờ không được ngưng nghỉ cho đến lúc vãng sanh và phải tiếp tục như vậy cho đến ít ra cũng sau tám giờ mới được chấm dứt. Cụ thể ta có thể chia ra ba giai đoạn hộ niệm như sau:
*) Những lúc trước lâm chung: Hãy chia phiên nhau hộ niệm liên tục không gián đoạn. Lúc nào cũng phải có vài người ở sát bên cạnh bệnh nhân để hộ niệm. Không nên đông quá, từ 2 đến 4 người là đủ, vì phải cần dưỡng sức để chuẩn bị cho lúc lâm chung và lo liệu nhiều chuyện khác. Chia phiên nên thực hiện so le, ví dụ một nửa thay phiên vào giờ lẻ: 1,3,5... giờ, nửa khác thay phiên lúc 2,4,6... giờ để lúc nào bên cạnh người bệnh cũng có người cũ và người mới, như vậy mới tránh tình trạng cả nhóm buồn ngủ vào lúc cuối phiên mà buông lơi câu Phật hiệu có thể gây nguy hiểm cho người bệnh. Nên nhớ, đôi khi chỉ vì một chút sơ ý này mà uổng công hộ niệm và tội nghiệp cho người ra đi!... Hộ niệm những lúc này không cần những nghi thức bình thường, tất cả đều chỉ niệm Phật mà thôi.
*) Ngay thời điểm lâm chung: Tối quan trọng, tất cả mọi nỗ lực hộ niệm phải dồn vào thời điểm này. Khi thấy tình trạng lâm chung sắp tới, thì mọi người nên tề tựu lại để cùng nhau niệm Phật. Phải niệm thật đều, tốt nhất cần một cái khánh để giữ nhịp chung, không được niệm tự do. Niệm tự do, kẻ nhanh người chậm, sẽ làm loạn tâm người đi, nhất định cố gắng phải tự điều chỉnh âm điệu và tốc độ cho đều, vì tâm nguyện cứu người cần nhắc nhở nhau không nên tự ái. Để tránh tình trạng lộn xộn khi vãng sanh, gia đình nên tin tưởng người hộ niệm, trước đó nên giao trọn vẹn việc hộ niệm cho một người có kinh nghiệm hoặc có uy tín điều khiển sự hộ niệm. Người giữ phần chủ lễ hộ niệm phải sáng suốt lo liệu mọi thứ, như: tinh thần người hộ niệm, ngăn cản người ngoài vào thăm, nhắc nhở không được khóc, chuẩn bị những tờ cáo thị dán ngoài cửa để tránh sự vô tình hay bất cẩn gây trở ngại cho sự vãng sanh, v.v...
Khi lâm chung có thể có những hiện tượng lạ xảy ra như hương thơm, ánh sáng, chim tụ lại, hoa nở, người lâm chung tỉnh táo mỉm cười, thần sắc tươi nhuận, v.v... thì người hộ niệm đừng ngạc nhiên hay hiếu kỳ, đừng nên lên tiếng làm ồn, hãy chân thành nhiếp tâm niệm Phật để cho sự vãng sanh được viên mãn tốt đẹp. Tất cả mọi sự thắc mắc hãy để sau đó mới bàn tới.
*) Sau khi lâm chung: Phải tiếp tục hộ niệm ít nhất tám tiếng đồng hồ. Trong suốt thời gian này không được đụng chạm đến thân thể, không được sửa lại tư thế nằm. Nên nhẹ nhàng đắp mền cho ấm thân, (tịnh tông học hội thì họ đắp mền “Quang Minh”), không nên đắp trùm qua khỏi đầu, không được kêu tên người đi. Nói chung, tất cả mọi người chỉ thành tâm niệm Phật, tâm tâm đều cầu nguyện A-di-đà Phật đến tiếp dẫn vãng sanh. Sau tám tiếng đồng hồ, tất cả mọi chuyện đã ổn định thì không còn ngại gì nữa.
Có người lo ngại rằng, nếu không sửa chữa tư thế nằm của người ra đi thì sau vài tiếng đồng hồ thân thể sẽ cứng làm sao tẩn liệm? Xin trả lời thẳng thắn rằng, vì tâm hộ niệm không thành, vì người đi không tin tưởng, vì gia đình thích tham đắm những danh vọng quá tầm thường cho nên không quyết lòng bảo hộ vãng sanh hoặc không giữ thanh tịnh cho người ra đi, mới xảy ra tình trạng như vậy. Nếu người đi quyết chí vãng sanh, người còn sống quyết lòng nhứt tâm hộ niệm thì chắc người đi được vãng sanh thoát nạn, lúc đó nhiều sự linh hiển huyền diệu xảy ra bất khả tư nghì, không để cho chúng ta phải lo nhiều như vậy đâu! Trong lịch sử hộ niệm vãng sanh đã từng có những trường hợp hộ niệm mười mấy ngày liền mà thân xác người vãng sanh vẫn còn tươi nhuận, vẫn còn mềm mại, còn ở đây nhu cầu của chúng ta chỉ cần 8 tiếng đồng hồ có bao lâu mà lo lắng!
Thương người thân thì phải thương cho trọn vẹn, sống cũng thương, chết rồi cũng thương mới được. Chứ khi sống thì nói thương yêu, còn người thân vừa mới nằm xuống chưa kịp ra đi mà mình đã bỏ chạy rồi, sợ điều này, sợ điều nọ, thế thì nói thương làm chi cho buồn cảnh thế thái nhân tình vậy! Khi còn sống thì người thân của mình là cái thân cho nên ta mới lo cho cái thân đó, chứ khi đã chết rồi thì người thân đâu còn ở trong cái xác thân đó nữa, thì lý do gì ta cứ mãi lo cho cái thân? Cứu người phải lấy châm ngôn “còn nước còn tát” quyết lòng bảo vệ cho tới kỳ cùng rồi sự thể ra sao tính sau. Sửa chữa một xác thân chỉ cần một chiếc khăn thấm nước nóng đắp lên chỗ khớp xương một lát là đủ để sửa rồi, không có khó khăn. Nếu giả sử có khó khăn đi nữa, thì ta cũng phải tận hết bổn phận cứu người trước thì mới khỏi bị ân hận! Những người chỉ lo chú trọng đến cái xác phàm, dù có chôn cất kỹ cho mấy đi nữa, chỉ sau một vài ngày nó cũng thối rữa chắc chắn không còn ai dám tới gần, thì tại sao ta lại cứ quan trọng cái thứ cát bụi đang trở thành cát bụi mà lại quên cái huệ mạng vạn kiếp của người thân!?


  1. Niệm Phật sáu chữ hay bốn chữ?


Niệm sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” hoặc niệm bốn chữ “A-di-đà Phật” đều được. Niệm sáu chữ nặng về sự “cung kính, quy mạng”, niệm bốn chữ thiên về lý “Tự Tánh Di Đà”. Niệm sáu chữ nặng về lòng thành kính ngưỡng nguyện đức A-di-đà phóng quang nhiếp thọ, niệm bốn chữ ngoài sự cầu Phật gia trì còn thêm phần nhiếp tâm vào “Tự Tánh Di Đà” của mình để nội ngoại tương hợp dễ cảm ứng đạo giao. Hộ niệm bốn chữ còn có cái lợi thế là nhiều người dễ niệm đều và người lâm chung dễ nhớ hơn. Tuy nhiên cũng nên tùy theo ý muốn và thói quen của người lâm chung, riêng Tịnh Tông Học Hội trên thế giới thì Ngài Tịnh-Không chủ trương niệm bốn chữ “A-di-đà Phật”, hằng ngày tất cả tứ chúng đồng tu khắp nơi đều niệm bốn chữ “A-di-đà Phật”. Những người quyết lòng tu tập hầu hết ai cũng được vãng sanh.
Để hiểu thêm về công năng của sáu chữ và bốn chữ, trong thời nhà Minh bên Trung Hoa có người hỏi Ngài Liên Trì Đại Sư, vị Tổ-sư thứ 8 của Tịnh-Độ Tông, Ngài nói Ngài dạy người khác niệm sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật”, còn riêng Ngài thì niệm bốn chữ “A-di-đà Phật”. Lại hỏi, tại sao vậy? Ngài nói, người ta thì ưa khách sáo còn Ngài thì không! Đây chính là nói lên hai lý: một là sự “cung kính, quy mạng...” có “năng” có “sở”; hai là lý “Tự tánh Di-đà, Duy tâm Tịnh-Độ” không còn có “năng” có “sở” nữa. (Lý đạo này cao lắm, có dịp sẽ nói rõ hơn).
Nhưng dài hay ngắn gì cũng nên chọn lựa hoặc là bốn chữ hoặc là sáu chữ, chứ không nên dài hơn hoặc ngắn hơn. Ví dụ, một vài nơi người ta thích niệm Phật rất dài hoặc ngược lại niệm rất ngắn. Niệm dài hơn như niệm, “Nam-mô Tây-phương Cực-lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A-di-đà Phật”. Niệm như vậy tỏ ra rất thành kính, có cả Chánh Báo và Y Báo trang nghiêm và công đức tiếp dẫn của đức A-di-đà. “Chánh Báo” là Phật A-di-đà, “Y Báo” là Tây-phương Cực-lạc, “Công Đức” là sự tiếp dẫn vãng sanh. Tuy nhiên, lời niệm này quá dài, 20 chữ, người bình thường đôi khi cũng quên, thì một người đang lâm chung không đủ sức để niệm và cũng không thể nhớ để niệm, cho nên không nên áp dụng để hộ niệm hoặc công phu hằng ngày. Hơn nữa danh hiệu A-di-đà Phật có vô lượng công năng, vô lượng công đức chứ không phải chỉ có công đức tiếp dẫn. vì thế không nên quá thành kính mà niệm quá dài, rất khó nhiếp tâm làm cho khó bề vãng sanh vậy.
Ngược lại, có nơi chỉ niệm “Nam-mô Phật” hoặc đơn giản hơn chỉ vỏn vẹn “Mô Phật” mà thôi. Niệm “Nam-mô Phật” nghĩa là kính lễ tất cả chư Phật, niệm chung tất cả chư Phật trên mười phương thế giới, chứ không nhiếp tâm vào vị Phật nào. Khi hộ niệm hoặc thường ngày niệm như vậy thì chính ta sau cùng không biết quốc độ nào để vãng sanh. Danh hiệu A-di-đà Phật là danh hiệu niệm chung của chư Phật mười phương, vì tất cả chư Phật đều niệm A-di-đà Phật, nhưng A-di-đà Phật còn là danh hiệu của vị Chánh báo Tây-phương Cực-lạc. Cho nên niệm “Nam-mô Phật” là niệm chung chư Phật không có hướng về nhất định, nghĩa là có tất cả mà không có một. Còn niệm A-di-đà Phật là vừa niệm tất cả chư Phật, vừa niệm một Phật, cho nên xác định rõ rệt nơi chốn vãng sanh. Nên nhớ tất cả mười phương chư Phật quốc độ dù có nơi rất thù thắng nhưng vẫn không so sánh bằng Tây-phương Cực-lạc, nhiều quốc độ vẫn còn là uế độ, còn khiếm khuyết, còn tam đồ lục đạo. Ví dụ như Ta-bà thế giới là quốc độ của đức Thích-ca Mâu-ni là một uế độ, ngũ trược ác thế, chỉ riêng Tây-phương Cực-lạc Thế Giới là Tịnh-Độ, tuyệt đối an vui tốt đẹp.
Đơn giản hơn nữa, có người niệm Phật chỉ còn có hai chữ, “Mô Phật”. Cách niệm này không biết đã phát xuất từ đâu? Chúng ta là con Phật, niệm Phật cần phải chân thành, không nên niệm tắt mà thành ra bất kính vậy.


  1. Hộ niệm có cần khai thị không?


Điều tốt nhất là được khai thị càng sớm càng tốt chứ đừng đợi đến lúc sắp sửa chết mới tìm người khai thị, vì lúc đó trăm sự rộn ràng, thân thể đau nhức, tâm thần mỏi mệt làm cho người ra đi nhiều khi không còn đủ bình tĩnh để nghe hiểu được lời khai thị. Khai thị bình thường là những thời pháp giảng giải về Phật pháp. “Khai” là khai mở tri kiến Phật; “Thị” là chỉ cho thấy tri kiến Phật. Phật pháp như một kho tàng quý báu, “Khai” là mở cửa kho tàng và “Thị” là chỉ cho chúng ta biết kho quý ấy. Thời gian một lần khai thị bình thường ít ra cũng một tiếng đồng hồ mới có thể giảng rõ lý đạo và trả lời những thắc mắc của đại chúng. Cách khai thị này rất cần thiết, nhưng chỉ hợp với người còn đang khỏe mạnh chứ không hợp lắm với người sắp sửa lâm chung. Cho nên, tốt nhứt là chúng ta nên thường xuyên nghe pháp, nghe khai thị, nhờ vậy mới dễ giác ngộ và thâm nhập vào Phật pháp, đừng nên đợi đến lúc quá gấp gáp mới mời người đến khai thị.
Đặc biệt những người chưa học Phật hoặc mới bước chân vào cửa Phật, họ chưa hiểu nhiều về Phật pháp, thì khai thị rất cần thiết. Cần thiết ở đây không phải chỉ nói đến lúc lâm chung, mà điều quan trọng hơn là được thường xuyên nghe pháp Phật, nghe “Khai thị” càng nhiều càng tốt, càng sớm càng hay, trong đó công đức niệm Phật và sự vãng sanh Tây-phương Cực-lạc Thế Giới là tối quan trọng cần phải được nhắc nhở thường xuyên cho họ hiểu thấu. Ví dụ như tháng sáu năm ngoái anh Năm về tổ chức niệm Phật cho cậu Hai. Từ trước tới giờ cha má anh chưa biết pháp Phật là gì, cho nên trong một thời gian ngắn ở quê, anh phải khai thị liên tục sáng và chiều. Nhờ vậy, sau mấy tuần khuyên nhủ cha má anh đã hiểu nhiều lý đạo và cố gắng ngày đêm niệm Phật. Thực sự mà nói, nếu không nhờ sự khai thị đó thì cha má anh đến nay chưa chắc đã thành tâm niệm Phật. Khi lâm chung, nếu như chính người ra đi không chịu niệm Phật, dù cho có rất nhiều người tới hộ niệm đi nữa, thì kết quả cũng chỉ là kết duyên cho họ trong vô lượng kiếp sau này thôi. Nghĩa là, nói rõ hơn, trước mắt đọa lạc vẫn đành chịu đọa lạc, sau đó thì còn tùy duyên?!...
Đối với những người đã tu hành lâu năm, đã thường xuyên nghe pháp, nghe khai thị, đã biết niệm Phật, đã thường xuyên nguyện vãng sanh Tây-phương Tịnh-Độ, thì không nên phải lập đàn giảng pháp dài dòng nữa. Ví dụ, như mấy ngày trước khi lâm chung của bác Dư Thị Ky, có người tới giảng về Phật pháp, bác nói, “chuyện này tôi biết rồi, hãy niệm Phật đi”. Đây là một quyết định rất sáng suốt. Giả sử, nếu người đó không chịu niệm Phật mà cứ nói về Phật pháp bên tai, thì tâm hồn của bác có thể bị loạn không niệm Phật được, đưa đến hậu quả có thể bị mất phần vãng sanh.
Tuy nhiên, sự nhắc nhở cho người lâm chung giữ chánh niệm để vãng sanh thì rất cần thiết. Theo HT Tịnh-Không, thì “Khai thị” trong những lúc lâm chung có nghĩa là đặt một người thân thương nhất, hoặc một thiện hữu tri thức bên cạnh để điều chỉnh kịp thời cho người ra đi trong những trường hợp đặc biệt bị sai lạc. Khai thị ở đây có nghĩa là đánh thức, nhắc nhở, khuyên bảo, tránh cho người lâm chung lạc vào những cảnh giới nguy hiểm. Ví dụ như: thấy bệnh nhân có hiện tượng bị hoảng hốt, khủng bố... ta củng cố tinh thần cho họ. Thấy bệnh nhân bị nóng lạnh, khó chịu, bị nhức mỏi... thì kịp thời giúp đỡ để họ thoải mái mà niệm Phật. Bệnh nhân mê muội thấy những cảnh giới lạ như thấy cha mẹ, ông bà, Tiên, Phật(?) nào khác tới rủ rê thì ta kịp thời nhắc nhở họ không được chạy theo vì đó chắc chắn là giả mạo, v.v... Tóm lại, phải kịp thời nhắc bệnh nhân hãy buông xả tất cả vạn duyên, một lòng chuyên niệm Phật, một hướng nguyện về Tây-phương, chỉ được đi theo Phật A-di-đà mà thôi, còn tất cả những hiện tượng khác thì dặn dò họ tuyệt đối không để tâm tới. Hướng dẫn cần ngắn gọn, chỉ đủ để kéo tâm họ trở về câu Phật hiệu, đó gọi là “khai thị”. Ngoài những trường hợp ấy ra, ta không nên mở lời khai thị này nọ dài dòng vì dễ làm loạn tâm người ra đi mà mất phần vãng sanh của họ. Ngài nhấn mạnh, hộ niệm phải hết sức đơn giản, chỉ nên niệm bốn chữ “A-di-đà Phật”, rõ ràng từng chữ, để cho người ra đi nhiếp tâm vào đó vãng sanh, không được xen tạp bất cứ một hình thức nào khác, bất cứ một ý tưởng nào khác.
Khai thị lúc lâm chung không nên nhắc thêm những điều mà bình thời người đó chưa biết làm. Ví dụ, có lần có người giảng về đề tài liên quan đến sự niệm Phật và lúc lâm chung, đã nói đại ý rằng, “...khi biết chắc phải lâm chung, thì nên khuyên người đó hãy phát đại tâm, đem những gì còn sót lại cuối cùng trong đời bố thí lần chót cho chúng sanh...”. Vị đó nói, “ Sự bố thí này rất quan trọng, đã thể hiện tâm từ bi cao cả, tạo được công đức rất lớn, dễ có cảm ứng đạo giao...”. Chính anh vô tình đã nghe qua được cuộn băng này và liền đem nó quay đi quay lại đoạn khai thị này cho một vị Sư và các vị đồng tu khác cùng nghe. Tất cả các vị lần lượt giật mình và đều nói rằng:
- Lúc lâm chung làm sao người đó biết được cái gì là vật cuối cùng để bố thí? Khuyên như vậy khiến cho họ phải suy nghĩ, bị loạn tâm, ngay lúc đó ma quái và oan gia trái chủ tấn công vào, làm sao cứu được? Thì làm sao có thể vãng sanh?
Thực ra lời khuyên này không phải là không quan trọng, nhưng đạo lý chính ở chỗ phải tùy người, chứ không thể gặp ai cũng khuyên như vậy được. Một người biết tu hành, có tâm từ bi, thường hay bố thí giúp người, v.v... thì lời khuyên này rất tốt, nhắc nhở họ làm được việc đại thiện cuối cùng. Còn như người chưa quen làm chuyện này thì không nên khai thị như vậy vì có thể làm cho họ bực mình mà loạn. Một khi tâm hồn đã bị loạn thì khó có thể được vãng sanh. Cho nên, đúng ra cuộn băng đó nên nói rằng, ví dụ,
- Lúc bình thường ta nên khuyên người phải biết buông xả, sẵn sàng bố thí càng nhiều càng tốt, ngay cả những thứ mình rất quý, nếu được, cũng bố thí luôn. Được như vậy thì lúc lâm chung sẽ không còn gì vướng mắc nữa, người đó sẽ dễ được tự tại vãng sanh. Còn khi lâm chung thì ngoài câu “A-di-đà Phật”, không được gợi thêm một ý nghĩ nào khác để tránh loạn tâm, lạc đường, v.v...
Nói “nếu được” mới bố thí, là để ngừa trường hợp người ra đi không phát tâm được, ví dụ như bị quên, không biết cái gì là quý nhất trong đời, không nhớ được cái gì đáng giá còn lại, v.v... Nếu một người không đủ khả năng mà ta nhắc tới thì vô tình trói tâm họ vào đó, làm sao gỡ ra? Vậy thì, lúc gần tới lâm chung ta không nên nhắc đến bất cứ một chuyện gì khác ngoài việc niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, để tâm của họ khỏi bị vướng mắc, khỏi bị lạc đường, mà nhiếp tâm được vào câu Phật hiệu. Không những thế, ta còn phải tìm cách gỡ giùm cho họ thoát khỏi những sự chấp mắc khác (nếu có) để họ an tâm niệm Phật, được như thế mới dễ vãng sanh.


  1. Khi lâm chung có cần tụng kinh không?


Hộ niệm là chính, không nên tụng kinh. Tụng kinh là để tu hành hiểu đạo, cầu an, cầu siêu. Cầu an thì tụng trong những lúc còn sống bình thường hay lúc đau bệnh. Cầu siêu là tụng sau khi đã chết, chứ không thể tụng kinh ngay lúc đang lâm chung. Có một lần, một đồng tu kể lại rằng khi hộ niệm cho một người lâm chung có người quyết định tụng kinh Địa Tạng, vì họ nghĩ rằng để giải nghiệp cho bệnh nhân dễ vãng sanh, cho nên đưa đến tình trạng là phòng dưới thì đang hộ niệm, phòng trên thì tụng kinh Địa Tạng. Chuyện này được hỏi đến HT Tịnh-Không, Ngài nghiêm khắc nhắc lại rằng, lúc lâm chung chỉ được niệm Phật và chỉ nên niệm đơn giản bốn chữ A-di-đà Phật, ngoài ra không được làm điều gì khác. Tụng kinh mục đích là để cho bệnh nhân tụng theo, hiểu nghĩa kinh để thực hiện theo lời Phật dạy. Lúc lâm chung làm sao người bệnh có thể nghe được lời kinh để tụng theo? Tụng kinh Địa Tạng, theo Ngài nói, nếu biết rằng người đó không được vãng sanh, thì khoảng một tuần lễ sau mới tụng để giải bớt nghiệp chướng cho họ và cũng để gieo duyên Phật pháp cho thần thức người đó. Còn đang lúc hấp hối hay lâm chung thì thần trí rối bời, tâm thần đau nhức, oan gia trái chủ trùng trùng tấn công, v.v... làm sao thần thức họ bình tĩnh để tụng kinh. Ngay trong phút tối nguy kịch, chỉ cần một tích tắc tâm bị loạn là có thể bị rơi vào trạng thái nguy hiểm.
Nếu chúng ta đã coi được cuộn phim quay cụ Triệu Vinh Phương vãng sanh, từ đầu tới cuối chỉ thấy người thân niệm Phật hộ niệm, không thấy có tụng kinh. Cụ Phương 94 tuổi, 4 năm niệm Phật, đến năm 1999 an nhiên vãng sanh trong quang minh của Phật, hỏa táng có đạo hào quang ngũ sắc phóng thẳng lên không trung, lưu lại xá lợi, đặc biệt một ống xương biến thành tượng Phật, một đốt xương khác biến thành đài sen, trong đài sen đã nằm sẵn một hạt xá lợi xanh biếc, v.v... Sự hiển ứng này quá rõ ràng. Hãy mau thức tỉnh đường tu, quyết tâm hộ niệm để cứu người, cứu ta.


  1. Hộ niệm có cần lập bàn thờ không?


Có lập được bàn thờ thì rất tốt. Lập bàn thờ thì chỉ để tượng Phật A-di-đà, hoặc hình Tây-phương Tam Thánh. Nếu có hai hình Phật A-di-đà, thì bàn thờ nên đặt trên đầu giường bệnh nhân, còn một hình Phật khác thì cầm hoặc treo cách nào cho bệnh nhân thấy được hình Phật. Trường hợp chỉ có một hình Phật thì đặt bàn thờ tại vị trí nào mà bệnh nhân phải thấy được hình Phật. Nói chung, nguyên tắc chính là bệnh nhân thấy được hình Phật, còn vị trí thì uyển chuyển.
Hình thức bàn thờ nên đơn giản, không nên quá rườm rà. Tượng Phật, đèn, hương, nước lạnh trong sạch là đủ, thậm chí nhiều khi gấp quá chỉ cần một hình Phật cũng đủ rồi. Hẳn nhiên có thêm hoa, quả, thì càng tốt, nhưng không cần quá hình thức mà gây bận bịu cho người nhà. Có nhiều nơi không có tượng Phật, không lập được bàn thờ thì cũng không sao, điểm chính yếu là phải tụ tập những người hộ niệm để niệm Phật liền, nhất định đừng kéo dài thời gian. Nên nhớ rằng, người đang lâm chung đang cần sự hộ niệm, đang chờ từng sát-na lời niệm “A-di-đà Phật” của chúng ta. Vãng sanh được hay không chủ yếu là sự thành tâm niệm Phật của người đi và người hộ niệm là được, còn bàn thờ nếu có sẽ tăng phần trang nghiêm, hỗ trợ tốt cho sự hộ niệm.
Thôi tạm ngưng, thư sau viết tiếp. (Nhớ đọc thêm mấy thư trước đây nữa nhé). Hãy củng cố lòng tin vững chắc, ngày ngày tinh tấn niệm Phật, quyết chí cầu sanh Tây-phương, cộng với được hộ niệm lúc lâm chung, thì một đời này thôi chúng ta đều viên thành Phật đạo. Cầu nguyện Như Ngọc cùng tất cả chư vị Phật tử hết báo thân này đều được mãn nguyện siêu thăng miền Liên Bang Tịnh-Độ.
Nam-mô A-di-đà Phật.

(Viết xong, Úc châu, 27/4/03).
---o0o---



tải về 1.87 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương