Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85


Bảng: 10 tỉnh, thành phố đứng đầu về số vốn FDI đăng kí ở Việt Nam giai đoạn 1988-2008



tải về 0.84 Mb.
trang5/10
Chuyển đổi dữ liệu09.07.2016
Kích0.84 Mb.
#1629
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Bảng: 10 tỉnh, thành phố đứng đầu về số vốn FDI đăng kí ở Việt Nam giai đoạn 1988-2008

Vùng

Thành Phố

Số dự án

Tỉ trọng (%)

FDI đăng kí (triệu USD)

Tỉ trọng (%)

Đồng bằng sông Hồng

Hà Nội

1498

13,6

20228

12,4

Bắc Trung Bộ- Duyên hải miền Trung

Thanh Hóa

42

2,1

6992

4,3

Hà Tĩnh

14

0,1

7940

4,9

Quảng Ngãi

22

0,2

4651

2,8

Phú Yên

44

0,4

6315

3,9

Ninh Thuận

16

0,1

9952

6,0

Đông Nam Bộ

Bình Dương

1734

15,7

9984

6,1

Đồng Nai

1031

9,4

14752

23,1

Bà Rịa-Vũng tàu

226

2,0

16896

10,3

TP HCM

3234

29,4

29245

17,9


Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tính đến cuối năm 2009, có 21 tỉnh, thành phố thu hút trên 1 tỷ USD vốn FDI đăng ký, trong đó có 10 địa phương trên 5 tỷ USD. Hà Nội, TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương chiếm khoảng 60% tổng vốn FDI đăng ký cả nước. Rất nhiều tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Nam Bộ có rất ít dự án FDI, mặc dù Chính phủ đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho các tỉnh đó và chính quyền địa phương rất quan tâm đến hoạt động xúc tiến đầu tư. Thực trạng đó đặt ra hai vấn đề cần được giải quyết: phân bố nguồn lực và hạ tầng kỹ thuật, xã hội.



  1. Đánh giá mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam

  1. Tác động của FDI đến hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam

1.1. FDI tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân xuất nhập khẩu

FDI tác động đến kim ngạch xuất khẩu



  • FDI giúp tăng vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất xuất khẩu

Kể từ khi mở cửa nền kinh tế kinh tế, phát triển quan hệ buôn bán và tiếp nhận đầu tư nước ngoài, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế, song vẫn là một nước nghèo, đang phát triển. Chúng ta có nguồn lao động rẻ dồi dào là lợi thế nhưng luôn ở trong trạng thái thiếu vốn. Kể từ 1988 đến nay, dòng FDI đã trở thành một nguồn bổ sung vốn thiết yếu cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngành sản xuất xuất khẩu nói riêng. Nếu không có FDI, tổng nguồn vốn huy động được trong nước, ngoài việc đầu tư phần lớn để cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng và đầu tư cho khu vực sản xuất khu vực trong nước, thì việc dành ra một lượng vốn đáng kể để đầu tư cho sản xuất xuất khẩu ngay từ những năm đầu sau đổi mới là việc cực kì khó khăn, chưa kể đến những hậu quả nặng nề của thời kì suy thoái kinh tế kéo dài từ cuối thập niên 70 đến cuối thập niên 80. FDI chính là một liều thuốc kích thích sản xuất cho nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng và từng bước tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất xuất khẩu phát triển thuận lợi. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta từ 1988 đến 1990 đã tăng gấp 3 lần, đạt 2,4 tỉ USD, năm 1995 lên tới 8,9 tỉ USD.

Nhìn vào biểu đồ sau có thể thấy, vai trò của FDI trong việc bổ sung vốn cho nền kinh tế nói chung ngày một lớn hơn. Tính đến năm 2008, FDI đã chiếm tới 20% tổng lượng vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế.



Biểu đồ 5: Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế giai đoạn 2000-2008

Đơn vị: Tỉ đồng



Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Xét riêng hoạt động sản xuất xuất khẩu của Việt Nam, FDI cũng có vai trò lớn trong việc bổ sung nguồn vốn. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xuân thuộc bộ Công Thương và Yuqing Xing thuộc đại học Quốc gia Nhật Bản về FDI và hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam năm 2006, sử dụng mô hình Lực hấp dẫn, kết hợp với số liệu về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang 23 nước chủ đầu tư FDI giai đoạn 1990-2004 thuộc 5919 dự án đã được cấp phép tính từ 1988. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam có đóng góp đáng kể của dòng vốn FDI. Cứ 1% tăng trưởng của FDI sẽ tạo ra 0,25% tăng trưởng về giá trị xuất khẩu, hay cứ 2,5 USD vốn FDI sẽ tạo ra 1 USD doanh thu từ xuất khẩu.

Đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch tương đối về cơ cấu. Nếu ở giai đoạn 10 năm đầu sau đổi mới, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là nông sản và các mặt hàng có hàm lượng lao động cao, thì trong khoảng hơn 10 năm gần đây, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch sang các mặt hàng có hàm lượng vốn cao hơn. Trong tương lai, xu hướng này sẽ còn tiếp diễn và ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn cần nhiều vốn hơn nữa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhờ xuất khẩu mà nhà nước đã đặt ra, nguồn vốn FDI càng nắm giữ một vai trò quan trọng hơn nữa trong việc bổ sung nguồn vốn cho sản xuất xuất khẩu.


  • FDI làm tăng kim ngạch xuất khẩu do doanh nghiệp FDI thực hiện khâu sản xuất hoặc gia công hàng hóa tại Việt Nam nhằm mục đích xuất khẩu

Khi nói đến sự gia tăng nhanh chóng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua, đóng góp của các doanh nghiệp FDI là không thể phủ nhận. Điều này được minh chứng bằng tỉ trọng ngày càng gia tăng của khu vực FDI trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, FDI hiện nay có xu hướng hướng về xuất khẩu hơn là nhằm vượt qua hàng rào bảo hộ và hàng rào thuế quan của các nước nhập khẩu hàng hóa. Đồng thời với xu hướng đó là sự phát triển ngày càng mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC). Các TNC này thường được hình thành ở các nước phát triển, với phạm vi tiêu thụ hàng hóa rộng lớn khắp toàn cầu. Các TNC này có xu hướng hình thành các chi nhánh ở nhiều quốc gia, tiến hành hoạt động sản xuất, gia công hàng hóa ở các nước có điều kiện đầu tư thuận lợi, nhất là những nước đang phát triển nhiều tài nguyên, nhân công rẻ và mặt bằng sản xuất lớn, rồi xuất khẩu sang thị trường khác. Với những tiêu chí lựa chọn địa điểm đầu tư như trên, Việt Nam được coi là một điểm đầu tư hấp dẫn, đặc biệt là từ sau khi gia nhập WTO, phạm vi thương mại được mở rộng, năm 2009, Việt Nam xếp thứ 12 trong danh sách 25 nền kinh tế có sức hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất thế giới do Bloomberg bình chọn, Việt Nam tiếp tục chứng tỏ là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư toàn cầu.

Bảng 5: Số liệu về hoạt động xuất khẩu của khu vực FDI tại Việt Nam (có bao gồm dầu thô)

Năm

Giá trị

(triệu USD)

Mức tăng

giá trị(%)



Tỉ trọng KV FDI trên tổng

KNXK (%)


Mức tăng tổng KNXK cả nước (%)

1995

1473,1




27,0

34,6

1996

2155,0

46

29,7

33,2

1997

3213,0

49

35,0

26,6

1998

3215,0

0

34,3

1,8

1999

4682,0

45,6

40,6

23,3

2000

6810,0

45,5

47,0

25,5

2001

6798,3

-2

45,2

3,8

2002

7871,8

16

47,1

11,2

2003

10161,2

29

50,4

20,6

2004

14487,7

43

54,7

31,0

2005

18553,7

28

57,2

22,9

2006

23061,3

24

57,9

22,7

2007

27774,6

20

57,2

21,9

2008

34529,2

24

55,1

29,1

2009

29900,0

-13

52,8

-9,8

Nguồn: Tính toán theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương

Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt nam chỉ đạt 52 triệu USD, đóng góp 2,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đến năm 2009, sau gần 20 năm mở cửa và hội nhập, khu vực này thực sự đã có sự tăng trưởng ấn tượng, kim ngạch xuất khẩu đạt tới 29,9 tỉ USD, tương đương 52,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng tới gần 600 lần về giá trị và tăng tới 21 lần về tỉ trọng. Tuy vậy, hoạt động sản xuất xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2009 do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tỉ trọng đóng góp của khu vực FDI vào kim ngạch xuất khẩu cả nước có giảm so với năm 2008 về tỉ trọng và giá trị. Ngoại trừ năm 1998 và 2001, giá trị xuất khẩu của khu vực này gần như không tăng, tất cả các năm còn lại, đều có tốc độ tăng trưởng trên 20%, tỉ trọng đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng tăng lên. Giai đoạn 2005-2008 là giai đoạn hoạt động hiệu quả nhất của khu vực FDI hướng vào xuất khẩu. Tỉ trọng đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước luôn đạt trên 57%, năm 2008 là giai đoạn cao điểm, giá trị xuất khẩu của khu vực này lên tớ 34,52 tỉ USD. Theo báo cáo của Vụ Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, xuất khẩu 10 mặt hàng chủ lực của doanh nghiệp FDI chiếm 27,5% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 và 24,9% năm 2009.

Xét về tốc độ tăng trưởng, so với mức tăng trưởng xuất khẩu cả nước, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI ở hầu hết các năm đều đạt tốc độ cao hơn. Năm 1997, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI đạt 49% trong khi tăng trưởng xuất khẩu cả nước chỉ trên 26%. Hay trong hai năm 1999-2000, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI là trên 45% trong khi kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ tăng 23-25%. Khu vực FDI duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn so với cả nước cho đến năm 2006. Từ 2006 đến nay, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này xuống thấp hơn so với mức tăng trưởng của cả nước. Năm 2009, xuất khẩu cả nước tăng trưởng âm 9,8% trong khi xuất khẩu của khu vực FDI tăng trưởng âm tới 13%. Nguyên nhân chính là do trong thời kì suy thoái kinh tế, cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của khu vực FDI giảm mạnh hơn so với cầu hàng xuất khẩu của khu vực trong nước, do khu vực FDI chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao trong khi mặt hàng xuất khẩu chủ lực của khu vực trong nước là các mặt hàng thiết yếu cơ bản nên cầu ít co giãn hơn. Một nguyên nhân cũng rất quan trọng là do nhiều chủ đầu tư muốn tránh rủi ro từ khủng hoảng kinh tế đã giảm quy mô đầu tư.


  • FDI giúp nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng Việt Nam xuất khẩu nhờ tác động lan tỏa về công nghệ

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp nói riêng và với cả nền kinh tế nói chung. Làm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm có nghĩa là làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả, số lượng… được quyết định bởi các yếu tố như vốn, công nghệ, lao động… So với các doanh nghiệp trong nước, đây là một là một ưu thế rõ rệt của các doanh nghiệp FDI. Vì thế các doanh nghiệp FDI sản xuất để xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Tuy vậy, sự có mặt của khu vực FDI lại có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.

Bảng : Đánh giá về sức ép cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam

(sức ép cạnh tranh cao nhất = 10; thấp nhất = 1)

Trước hết, sự có mặt của các doanh nghiệp FDI, nhất là các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã kéo theo sự xuất hiện của các công nghệ mới, hầu hết các công nghệ này đều ở mức độ tiên tiến hơn so với trình độ công nghệ của nước ta. Các doanh nghiệp FDI vì thế cũng đòi hỏi nguồn lao động có trình độ cao hơn. Ở Việt Nam, số lao động có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp FDI không nhiều, đa số nguồn lao động hoạt động trong khu vực FDI phải qua đào tạo trực tiếp của nhà tuyển dụng. Những người này được học về quản lý doanh nghiệp, đào tạo nhân sự, các nghiệp vụ ngoại thương, vận hành thiết bị công nghệ cao, hay tham gia nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới… Sự di chuyển nguồn lao động giữa khu vực kinh tế trong nước và khu vực FDI tạo nên một hiệu ứng lan tỏa. Nói cách khác, các doanh nghiệp FDI đã gián tiếp giúp Việt Nam đào tạo một phần lực lượng lao động với trình độ cao hơn, hiểu biết về công nghệ, hiểu biết về quản trị kinh doanh, khả năng nghiên cứu sản phẩm mới, am hiểu thị trường quốc tế, đặc biệt là lối tư duy và tác phong làm việc chuyên nghiệp. Sự hội tụ những yếu tố trên trong lực lượng lao động mới có vai trò quyết định đến chất lượng cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà mỗi doanh nghiệp sản xuất ra.

Điều tra do Viện Nghiên cứu nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực hiện cuối năm 2004 tiến hành đối với doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước thuộc ba nhóm ngành chế biến thực phẩm, dệt may-da giày, cơ khí - điện tử tại hai địa phương là TP.Hồ Chí Minh, Hà nội và một số tỉnh, thành phố xung quanh hai trung tâm kinh tế lớn này. Đây là nơi các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động và tác động tràn của doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp trong nước được cho rằng sẽ thể hiện rõ nhất do khoảng cách về không gian giữa các doanh nghiệp đã được hạn chế. Phân tích kết quả từ hai góc độ: (1) lao động chuyển đi khỏi doanh nghiệp FDI và (2) nguồn gốc lao động mới tuyển dụng của doanh nghiệp trong nước- đều cho thấy có hiện tượng di chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và trong nước, nhưng ở mức thấp. Tất nhiên vào thời điểm đó, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ít có khả năng thu hút lao động từ khu vực FDI do mức lương chi trả còn hạn chế. Tuy nhiên đến nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp đủ mạnh có thể thu hút nhân tài từ các công ty đa quốc gia. Công ty Bitis, Kinh Đô, tập đoàn Masan, công ty Liên Bảo, công ty Việt Văn, công ty Mai Thanh, công ty Masso, Big Solutions, SME, Golden Land hiện là những nơi đầu quân mới của các nhà quản lý giỏi trước đây từng làm việc cho các công ty nước ngoài. Chủ tịch tập đoàn và giám đốc của những công ty này trước đây đều là những người đã từng làm việc cho các tập đoàn nước ngoài hoặc các công ty liên doanh lớn, sau một thời gian làm họ tự tách ra mở công ty riêng để kinh doanh và quản lý dựa trên những kinh nghiệm đã được đào tạo và tích lũy khi còn ở các doanh nghiệp FDI. Giám đốc phát triển thương mại Công ty Goodland ông Trần Anh Tuấn từng là chuyên gia xúc tiến thương mại đầu vào cho các doanh nghiệp Australia tại Thương vụ Australia ở TP HCM; ông Vũ Quốc Tuấn, Giám đốc Công ty Việt Văn từng làm việc cho tập đoàn Keppel Land của Singapore; Giám đốc Công ty SME từng là luật sư tư vấn cho Công ty Akzo Nobel; bà Trần Thị Thanh Mai trước khi lập công ty quảng cáo Mai Thanh từng là Phó Tổng Giám đốc Công ty liên doanh Castrol, tập đoàn Philip Morric, và công ty J.W. Thomson; bà Nguyễn Công Ái Huyên từng phụ trách quản trị nhãn hiệu cho hãng Shell Việt nam hiện là giám đốc công ty Masso, một công ty chuyên cung cấp các giải pháp tiếp thị cho các doanh nghiệp. Ông Hạ Ngọc Linh, Giám đốc Công ty Big Solutions, nguyên là thủ khoa ngành quản trị kinh doanh của Viện Công nghệ châu Á (AIT) cũng đã từng giữ cương vị Giám đốc điều hành cho Motorola Vietnam trong 5 năm.

Thứ hai, đối với FDI dưới các hình thức liên doanh liên kết, các doanh nghiệp Việt Nam sau khi thực hiện việc liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, ngoài đầu tư về vốn, doanh nghiệp Việt Nam còn được nhà đầu tư góp vốn bằng dây chuyền sản xuất hiện đại, công nghệ cao, đặc biệt là các bí quyết công nghệ của họ. Việc tiếp nhận FDI dưới hình thức này cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp thu một cách trực tiếp công nghệ tiên tiến của nước chủ đầu tư và quá trình cải thiện chất lượng sản phẩm cũng diễn ra nhanh hơn và đúng hướng hơn. Một ví dụ điển hình về doanh nghiệp liên doanh thành công của Việt Nam hiện nay có thể kể đến Công ty Cổ phần Cáp điện LS-Vina là công ty liên doanh với tập đoàn LS-Cable Hàn Quốc, thành lập năm 1996, nhanh chóng trở thành công ty con lớn nhất của công ty cáp điện LSCABLE Hàn Quốc và đứng đầu ngành sản xuất cáp điện tại Việt Nam. Năm 2000, LS-Vina Cable đã đạt Chứng chỉ chất lượng tiêu chuẩn Hàn Quốc. LS-Vina Cable đạt được Chứng chỉ ISO 9001 vào năm 2000, và đây là nơi phát hành ra nhóm tiêu chuẩn toàn cầu và được đăng ký bởi UKAS. Hiện nay LS-Vina Cable đang đứng vị trí số một trong những nhà máy sản xuất cáp điện hàng đầu ở Đông Nam Á. Tất cả các loại cáp điện được thiết kế, sản xuất đều phù hợp với nhu cầu từ tiêu chuẩn quốc tế như IEC, IEEA, AEIC, KS, AS/NZS, BS, IS, JIS và TCVN,… . Công ty đã cung cấp sản phẩm cho nhiều công trình trọng điểm quốc gia & ngành điện, đặc biệt là công ty đã xuất khẩu sản phẩm sang nhiều thị trường như Úc, Newzealand, Hàn Quốc, Singapore, Thổ Nhĩ Kỳ, Phần Lan, Ấn Độ…và được khách hàng đánh giá cao. Gần 15 năm hoạt động của doanh nghiệp đã thực sự khẳng định chất lượng và sức cạnh tranh của mặt hàng cáp điện sản xuất tại Việt Nam, đưa mặt hàng cáp điện vào danh mục các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD của Việt Nam từ năm 2007.

Một nghiên cứu khác của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực hiện trên qui mô mẫu gồm 56 nghìn doanh nghiệp thuộc mọi thành phần các ngành trong nền kinh tế đã khẳng định tác động tràn tích cực từ khu vực FDI giúp cải thiện năng suất của các doanh nghiệp trong nước. Theo kết quả nghiên cứu này, tác động tràn ở các doanh nghiệp liên doanh lớn hơn so với các hình thức đầu tư khác, và tác động tràn ở các ngành dệt may-da giày và chế biến thực phẩm lớn hơn so với ngành cơ khí điện tử.

Thứ ba, trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước muốn xuất khẩu được hàng hóa buộc phải nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của mình. Cùng với việc cải thiện chất lượng hàng hàng hóa, kiểu dáng, mẫu mã, chức năng của sản phẩm, học hỏi các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến trình độ người lao động và năng lực nhà quản lí. Các doanh nghiệp này cũng đã chủ động tìm tòi đổi mới sảm phẩm, năng động hơn, nhanh nhạy hơn trong khâu tìm kiếm thị trường và bạn hàng. Sản phẩm cà phê của tập đoàn Trung Nguyên và sản phẩm sữa của tập đoàn Vinamilk là hai điển hình cho sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Trước sức ép của các doanh nghiệp FDI cùng ngành như Nestcafe (đối thủ chính của Trung Nguyên), Abott, Dumex, Nestle (đối thủ của Vinamilk), bắt đầu từ cuộc chiến giành thị trường trong nước, hai tập đoàn này đã vươn lên lớn mạnh và khẳng định được cả khả năng cạnh tranh cả ở thị trường xuất khẩu. Với nỗ lực học hỏi, cải tiến công nghệ, đa dạng hóa và nâng cao chấy lượng sản phẩm, hiện nay, cà phê Trung Nguyên và G7 đang được xuất khẩu đến hơn 43 quốc gia trên thế giới - hệ thống cửa hàng đã hiện diện tại Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan…và trong những năm tới Trung Nguyên sẽ bằng mọi nỗ lực để tiếp tục đưa cà phê và tinh thần cà phê Việt Nam chinh phục những người yêu cà phê trên toàn thế giới. Sản phẩm Vinamilk ngoài việc phân phối mạnh trong nước với mạng lưới 183 nhà phân phối và gần 94.000 điểm bán hàng phủ đều 64/64 tỉnh thành, còn được xuất khẩu sang nhiều nước Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Đức, khu vực Trung Đông, Đông Nam Á…với doanh thu từ xuất khẩu mỗi năm đạt hàng trăm triệu USD.

Như vậy, FDI không những cải thiện chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu ở khu vực kinh tế có đầu tư nước ngoài mà còn gián tiếp tác động tích cực đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu của cả khu vực kinh tế trong nước.

FDI tác động đến kim ngạch nhập khẩu



  • FDI có khả năng thay thế nhập khẩu do nhu cầu trong nước đối với một số hàng hóa nhập khẩu được đáp ứng bởi các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI

Trước đây nền kinh tế nước ta còn lạc hậu, hoạt động sản xuất kém phát triển nên có nhiều những mặt hàng nền sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được, kể cả những mặt hàng tiêu dùng cơ bản. Để giải quyết tình trạng này thì giải pháp thông thường là nhập khẩu mặt hàng đó, tuy nhiên từ khi nước ta tiến hành mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài thì tình hình đã có chuyển biến tích cực. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào rất nhiều lĩnh vực tại Việt Nam, trong đó có những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được, phải nhập thành phẩm từ nước ngoài bao gồm: điện tử, dược phẩm, thiết bị y tế chính xác... Nhờ có FDI, các hàng hóa này được cung cấp bởi các doanh nghiệp sản xuất ngay tại Việt Nam, làm giảm kim ngạch nhập khẩu của cả nước.

Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học bách khoa hà NỘI Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

tải về 0.84 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương