KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)



tải về 3.73 Mb.
trang10/50
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.73 Mb.
#107
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   50

Trả lời: (Tại Công văn số 11643/BTC-QLCS ngày 31/8/2010)

Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2003 thì “…1. Đất rừng sản xuất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp… ”.

Theo đó, tổ chức kinh tế (các Công ty Lâm nghiệp) được nhà nước giao đất rừng sản xuất thuộc đối tượng thuê đất theo quy định tại tiết c khoản 1 Điều 2 Nghị định số 142/2005/NĐ-CP của Chính phủ về tiền thuê đất, thuê mặt nước.

Đồng thời tại Điều 14 Nghị định số 142/2005/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định chế độ ưu đãi về miễn tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về khuyến khích đầu tư theo danh mục và địa bàn khuyến khích đầu tư và miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã quy định: “Điều 12. Đơn giá thuê đất

... 2. Đất ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn thì UBND cấp tỉnh quyết định ban hành đơn giá thuê đất thấp hơn đơn giá thuê đất theo quy định, nhưng mức giá cho thuê đất thấp nhất bằng 0,25% giá đất theo mục đích sử dụng đất thuê do UBND cấp tỉnh quyết định”.

Như vậy, chính sách đất đai về tiền thuê đất hiện hành đã quy định cụ thể và có chế độ khuyến khích đối với các doanh nghiệp. Do đó, trong trường hợp các Công ty Lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thuê đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn mà chỉ tiêu khai thác rừng tự nhiên hàng năm hạn chế nên gặp khó khăn về khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính thì UBND tỉnh Đắk Lắk xem xét, quyết định việc áp dụng đơn giá thuê đất với mức thấp nhất theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ và thực hiện chính sách miễn tiền thuê đất theo quy định nêu trên



79. Cử tri tỉnh Đắc Nông kiến nghị:Đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi phương pháp tính thuế tài nguyên cho phù hợp để tạo được động lực cho việc phát triển kinh tế rừng và quy định việc tính thuế tài nguyên giá gỗ tại bãi giao như hiện nay là chưa phù hợp vì giá gỗ tại bãi giao có kết cấu của sức lao động, vì vậy chỉ nên tính thuế tài nguyên trên cây giá đứng của rừng tự nhiên.

Trả lời: (Tại Công văn số 11652/BTC-QLN ngày 31/8/2010)

Tại Điều 6 Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2009 và khoản 3 Điều 4 Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế tài nguyên quy định: Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Đối với gỗ là giá bán tại bãi giao (kho, bãi nơi khai thác); trường hợp chưa xác định được giá bán tại bãi giao thì giá tính thuế được xác định căn cứ vào giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định.

Trong cơ cấu giá bán tại bãi giao bao gồm giá cây đứng, chi phí nhân công và các chi phí khác liên quan đến khai thác gỗ. Do trên thực tế việc xác định giá cây đứng của rừng tự nhiên là rất phức tạp, nên để đảm bảo đơn giản, khả thi và căn cứ tình hình thực hiện trong những năm trước, Luật thuế tài nguyên đã quy định thu thuế tài nguyên theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán tại bãi giao (kho, bãi nơi khai thác). Mức thuế suất thuế tài nguyên được xây dựng với mục tiêu bảo vệ rừng tự nhiên, khuyến khích phát triển kinh tế rừng (được phép khai thác) và với nguyên tắc thuế tài nguyên nhằm vào "giá cây đứng" trong cơ cấu giá bán gỗ tại bãi giao (trường hợp nếu loại trừ giá trị sức lao động thì mức thuế phải cao hơn).

80. Cử tri tỉnh Quảng Nam, Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có chính sách và giải pháp tốt hơn để phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn cụ thể như: chính sách bảo hiểm nông nghiệp với các loại cây trồng, con vật nuôi chính (xác định theo từng vùng), trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ phí bảo hiểm cho hộ nghèo; chính sách bình ổn giá vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp

Trả lời: (Tại Công văn số 11646/BTC-QLN ngày 31/8/2010)

1. Về chính sách bảo hiểm nông nghiệp với các loại cây trồng, con vật nuôi chính:

Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn: “…Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho cư dân nông thôn” và chương trình công tác của Chính phủ, Bộ Tài chính đã tổ chức nghiên cứu và trình Chính phủ Đề án thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2010-2012 (Tờ trình Chính phủ số 48/Tr-BTC ngày 09/4/2010). Trên cơ sở ý kiến phê duyệt của Chính phủ, Bộ Tài chính sẽ tổ chức thực hiện thí điểm cho một số sản phẩm nông nghiệp và tại một số tỉnh, thành phố.

Trong Đề án, Bộ Tài chính dự kiến lựa chọn thí điểm bảo hiểm: Cây lúa tại Nam Định, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, An Giang, Đồng Tháp; Trâu (cày kéo, thịt), bò (cày kéo, thịt), lợn thịt, gia cầm thịt tại Bắc Ninh, Nghệ An, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Thanh Hoá, Bình Định, Bình Dương và Hà Nội; nuôi trồng thuỷ sản cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân trắng tại Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau và những nơi khác nếu có điều kiện.

Nội dung cơ bản của chính sách như sau:

Đề án đã khẳng định để bảo hiểm nông nghiệp thành công thì cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Dự kiến, mức hỗ trợ của Nhà nước và đối tượng được hỗ trợ trong Đề án là: Nhà nước hỗ trợ 90% đến 100% phí bảo hiểm cho hộ nông dân nghèo, cá nhân nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp; hỗ trợ 60% đến 70% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân (không thuộc diện nghèo) sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp và hỗ trợ 50% phí bảo hiểm cho tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp. Khi có quyết định chính thức của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh để thực hiện thí điểm.

Bảo hiểm nông nghiệp rất cần thiết đối với nước ta, là một nước nông nghiệp nằm trong vùng bị ảnh hưởng lớn do thiên tai, bão, lũ lụt,…dịch bệnh…. Các rủi ro này rất cần được bảo hiểm. Tuy nhiên, bảo hiểm nông nghiệp là một nghiệp vụ mới, phức tạp, địa bàn rộng, sản xuất phân tán chủ yếu theo quy mô hộ gia đình, thiên tai, dịch bệnh phức tạp, vì vậy việc tiến hành cần được triển khai thí điểm, trên cơ sở đó sẽ đánh giá, rút kinh nghiệm để điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp với thực tiễn.

Một vấn đề nữa hết sức quan trọng là cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng để triển khai trong thực tiễn. Đồng thời các cơ quan thông tin đại chúng cần tuyên truyền rộng rãi chính sách của Đảng và Nhà nước đến các đối tượng được bảo hiểm, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức, cá nhân để tạo sự đồng thuận trong việc thực thi chính sách.

2 Về chính sách để bình ổn giá cả vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp:

Trong những năm qua, Chính phủ rất quan tâm đến đời sống của người nông dân, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để góp phần điều tiết giá cả đầu vào, đặc biệt là giá cả vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp để giảm bớt khó khăn cho người nông dân, cụ thể như:

Thực hiện các chính sách thuế ưu đãi, miễn giảm thuế, phí, như: Không áp thuế đối với một số hàng hóa đầu vào hoặc liên quan đến dịch vụ cung cấp cho sản xuất nông nghiệp như: giống cây trồng, vật nuôi, nạo vét kênh mương nội đồng; hoặc áp dụng mức thuế suất nhập khẩu từ 0% - 5%, chủ yếu là 0% đối với máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp như: máy cày, máy bừa, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn nuôi, nhằm góp phần giảm chi phí đầu vào cho người sản xuất; Thực hiện miễn thu thủy lợi phí; hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn (Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 và Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009); Một số sản phẩm mà sản xuất trong nước đã có hoặc đã sản xuất đủ thì có thuế suất đến 5% để bảo vệ sản xuất trong nước.

Cùng với các chính sách trên, Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ để bình ổn giá phân bón (một trong những nguyên liệu đầu vào chính của sản xuất nông nghiệp) của các doanh nghiệp bán cho nông dân như: ưu đãi thông qua giá đầu vào đối với nguyên nhiên liệu sản xuất một số loại phân bón sản xuất trong nước như than, điện (bán thấp dưới giá thành sản xuất); khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường kinh doanh đầu tư theo chiều sâu sản xuất các loại phân bón chất lượng cao; hướng dẫn nông dân chuyển sang sử dụng các loại phân bón tổng hợp, phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ vi sinh để nâng cao hiệu quả trồng trọt; nhiều nhà máy sản xuất phân bón đã và đang được xây dựng để chủ động trong sản xuất phân bón, tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước có hiệu quả nhằm hạn chế bớt việc nhập khẩu từ nước ngoài giảm việc bị ảnh hưởng bởi thị trường thế giới; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón đảm bảo đủ nguồn cung đáp ứng nhu cầu trong nước; yêu cầu các doanh nghiệp điều chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh hợp lý trên cơ sở tổng kết, nhân rộng mô hình mạng lưới kinh doanh tổ chức cung ứng phân bón đến tay người sản xuất; thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường chống các hành vi vi phạm về gian lận thương mại, đầu cơ găm hàng tăng giá bất hợp lý, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, không thực hiện quy định về đăng ký giá, niêm yết giá và bán hàng theo giá niêm yết,...

Ngoài các chính sách nói trên, để quản lý được các sản phẩm hàng hóa này, điều hết sức quan trọng là cần có sự phối hợp của các Bộ, ngành Trung ương như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Công An,... còn cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai việc kiểm tra, giám sát thường xuyên, liên tục của cấp uỷ, chính quyền địa phương đối với các đơn vị trên từng địa bàn./.

BỘ Y TẾ
1. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: “Ngành y tế tuy đã có nhiều cải cách nhưng hiệu quả vẫn còn rất hạn chế, người dân vẫn chưa được hưởng các dịch vụ y tế tốt. Đề nghị Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh chủ trương cổ phẩn hóa, tư nhân hóa trong ngành y tế, góp phần mang lại nhiều dịch vụ y tế tốt hơn cho người dân.”

Trả lời: (Tại Công văn số 5776/BYT-VB1 ngày 26/8/2010)

Trong thời gian qua, nhằm huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho y tế, Nhà nước chủ trương thực hiện xã hội hóa các hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt tạo điều kiện và khuyến khích việc huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển và mở rộng các cơ sở y tế tư nhân thông qua thực hiện các chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế,... Với quan điểm xây dựng nền y tế hướng đến chăm sóc sức khỏe toàn dân, toàn diện trên cơ sở kết hợp y tế công và y tế tư, trong đó y tế công giữ vai trò nòng cốt, Đảng và Nhà nước chủ trương không cổ phần hóa các cơ sở y tế công lập hiện có, mà khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng mới các cơ sở y tế ngoài công lập, góp phần phát triển mạng lưới các cơ sở khám, chữa bệnh. Trong Kết luận số 42-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 01 tháng 4 năm 2009 về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập đã ghi rõ: “Không cổ phần hoá bệnh viện công lập hiện có; khuyến khích xã hội hoá, xây dựng và thành lập mới bệnh viện cổ phần, bệnh viện liên doanh, cơ sở khám chữa bệnh, bệnh viện tư nhằm tăng thêm số lượng cơ sở cung ứng dịch vụ và cơ sở dịch vụ y tế chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao và đa dạng của nhân dân, tăng khả năng lựa chọn của người dân đối với các dịch vụ y tế”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã và đang tiếp tục tăng cường đầu tư cho hệ thống các cơ sở y tế công lập thông qua các nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác; đồng thời khuyến khích, thu hút nguồn lực của xã hội đầu tư xây dựng, mở rộng các cơ sở y tế ngoài công lập, nhằm tăng số lượng các cơ sở khám chữa bệnh và số giường bệnh trên vạn dân, phục vụ tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân và từng bước nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. Bộ Y tế đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm một số cơ chế chính sách thúc đẩy việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe nhằm tăng số lượng và chất lượng các dịch vụ y tế.

2. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: “Tình trạng quá tải trong hệ thống cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước đang diễn ra phổ biến nhất là tuyến Trung ương, tuyến tỉnh và các bệnh viện chuyên khoa sâu. Đề nghị ngành y tế có biện pháp xử lý để việc khám và điều trị bệnh của nhân dân được thuận lợi hơn”.

Trả lời: (Tại Công văn số 5776/BYT-VB1 ngày 26/8/2010)

Tình trạng quá tải hiện nay ở các bệnh viện tuyến trên là hệ quả của việc năng lực y tế tuyến cơ sở còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dân về chăm sóc sức khỏe. Điều này do những nguyên chủ quan như: (i) Đầu tư cho ngành y tế tuy có tăng về giá trị tuyệt đối theo từng năm nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; (ii) Chính sách thu một phần viện phí không còn phù hợp với điều kiện hiện nay; (iii) Mức giá thu một phần dịch vụ của một số dịch vụ quá thấp, trong khi ở các tuyến y tế cơ sở không có khả năng tăng thu nên không đủ tái đầu tư; (iv) Thu nhập của cán bộ thấp nên không thu hút được cán bộ có tay nghề cao chuyên môn giỏi về tuyến cơ sở; (v) Việc phân tuyến khám chữa bệnh chưa được chấp hành một cách nghiêm túc.

Bên cạnh đó còn một số nguyên nhân khách quan như kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, giao thông thuận tiện người dân có xu hướng và dễ dàng tìm kiếm dịch vụ khám, chữa bệnh tại những nơi có chất lượng cao. Việc phát triển mở rộng số lượng người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT), cũng như mở rộng quyền lợi của người bệnh có thẻ BHYT cũng làm gia tăng số lượng người khám, chữa bệnh. Một số chính sách ưu việt của Đảng và Nhà nước như khám, chữa bệnh không thu phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo, chính sách người có công cũng làm gia tăng nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân;

Để giải quyết vấn đề này, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, ngành Y tế đã, đang và sẽ triển khai một số giải pháp mang tính đột phá dưới đây:

- Nâng cấp cơ sở hạ tầng, thông qua việc thực hiện hai Đề án: (1) “Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg ngày 02/4/2008) và (2) “Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh việc chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2013” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 930/QĐ-TTg ban hành gày 30/6/2009).

- Triển khai có hiệu quả các dự án hỗ trợ y tế vùng sử dụng vốn vay của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) và một số dự án ODA cho các tỉnh sử dụng vốn vay, vốn viện trợ của các Chính phủ; đồng thời tiếp tục xây dựng các dự án đầu tư mới, trong đó một phần vốn được đầu tư cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các bệnh viện.

- Đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị 06/2007/CT-BYT ngày 27/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân.

- Đẩy mạnh việc triển khai Đề án luân phiên, luân chuyển cán bộ từ tuyến trên hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới (được gọi là Đề án 1816) nhằm nâng cao chất lượng điều trị và chuyển giao công nghệ cho tuyến dưới, thực hiện chống quá tải từ xa, đặc biệt cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn.



3. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: “Đề nghị Nhà nước cần có các giải pháp để khuyến khích, ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các bệnh viện tư nhân nhằm giải tỏa sức ép cho các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh; mở rộng hơn nữa các loại hình y tế tư nhân, cho phép khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế ở dịch vụ ngoài công lập tạo nên sức cạnh tranh giữa các loại hình dịch vụ y tế để người dân có điều kiện lựa chọn những cơ sở khám chữa bệnh chất lượng”.

Trả lời: (Tại Công văn số 5776/BYT-VB1 ngày 26/8/2010)

Trên thực tế, Nhà nước đã có các chính sách nhằm khuyến khích, ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở y tế tư nhân. Đặc biệt Nghị định 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định hết sức cụ thể về các chính sách ưu đãi của Nhà nước và các địa phương đối với các cá nhân tổ chức tham gia vào hoạt động xã hội hóa y tế, như: Cơ sở thực hiện xã hội hóa được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng để xây dựng các công trình xã hội theo các hình thức: (i) Giao đất không thu tiền sử dụng đất; (ii) Cho thuê đất và miễn tiền thuê đất; (iii) Giao đất có thu tiền sử dụng đất và được miễn tiền sử dụng đất. Ngoài ra các đơn vị này cũng được vay vốn tín dụng đầu tư ưu đãi của Nhà nước; được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt quá trình hoạt động, được ưu đãi trong một số năm đầu nếu ở địa bàn ưu đãi đầu tư...

Ngoài ra, để khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển hệ thống y tế, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, Ngành liên quan ban hành các văn bản chính sách để hướng dẫn thực hiện cụ thể, như: Tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của cả nước và các vùng, chỉ đạo các địa phương xây dựng, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của cả nước và các vùng, chỉ đạo các địa phương lập điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để dành quỹ đất phát triển các cơ sở y tế; quy định ưu đãi về thuế, tín dụng đầu tư, tạo sự bình đẳng giữa các khu vực công lập và ngoài công lập.

4. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: “Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu, xem xét, rà soát lại đề án chuẩn quốc gia về các cơ sở y tế và điều chỉnh một số chuẩn cho phù hợp với tình hình thực tế, nhất là trạm y tế chưa có bác sĩ; điều chỉnh danh mục thuốc cho phù hợp, giảm thiểu khả năng đi lại cho người dân vùng sâu, vùng xa”.

Trả lời: (Tại Công văn số 5776/BYT-VB1 ngày 26/8/2010)

Bộ Y tế đã xây dựng và áp dụng Chuẩn quốc gia về y tế xã cho giai đoạn 2001 – 2010. Tuy nhiên để phù hợp với tình hình mới và nâng cao năng lực hoạt động của y tế xã, Bộ Y tế đang xây dựng Chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011 – 2020 trên cơ sở xem xét, điều chỉnh, bổ sung chuẩn quốc gia đã được ban hành hoặc quy định mới cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.



5. Cử tri các tỉnh An Giang, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Trà Vinh, Hà Nam kiến nghị: “Hiện nay, tình trạng đội ngũ y, bác sĩ khám chữa bệnh thiếu rất lớn và phổ biến, một bác sĩ phòng khám một ngày phải khám cho hơn 70 bệnh nhân, nhất là các tuyến xã, vùng sâu, vùng xa. Đề nghị ngành y tế đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực: bác sĩ, dược sĩ đại học, y tá điều dưỡng, cán bộ xét nghiệm… Đồng thời, Bộ Y tế cho tăng biên chế và kinh phí cho các bệnh viện, trạm y tế… mới có khả năng đảm bảo phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân tốt hơn.”

Trả lời: (Tại Công văn số 5776/BYT-VB1 ngày 26/8/2010)

Về đào tạo nguồn nhân lực và quản lý biên chế ở các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện, trạm y tế, theo quy định của Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19/6/2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm “Quyết định việc phân bổ, quản lý chỉ tiêu biên chế hành chính, biên chế sự nghiệp của các đơn vị trực thuộc”. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, việc phê duyệt tổng biên chế hành chính, biên chế sự nghiệp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở định mức biên chế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và khả năng của ngân sách địa phương hàng năm.

Bộ Y tế trân trọng đề nghị cử tri nêu cụ thể tên cơ sở y tế và địa phương cần tăng biên chế để Bộ Y tế rà soát, xem xét các cơ sở đó đã được cấp có thẩm quyền của địa phương xét giao đủ biên chế hay chưa theo định mức của Thông tư liên tịch Bộ Y tế- Bộ Nội vụ số 08/2007/TTLT-BNV-BYT ngày 05/6/2007.

Về đầu tư cho các trạm y tế, ngành Y tế đang chỉ đạo xây dựng đề án đầu tư cho một số trạm y tế xã vùng khó khăn.



6. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ tăng qui mô đào tạo, đầu tư cơ sở vật chất và năng lực cho các trường, cơ sở đào tạo ngành y để đáp ứng được nhu cầu đào tạo cán bộ”.

Trả lời: (Tại Công văn số 5776/BYT-VB1 ngày 26/8/2010)

Thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới và Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Bộ Y tế đã xây dựng Đề án Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y tế đến năm 2020 hiện đang trình Thủ tướng phê duyệt. Việc xây dựng Quy hoạch trên nhằm đáp ứng nhu cầu hết sức cấp thiết của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, Bộ Y tế cũng đã dự thảo đề án Đầu tư, nâng cấp các cơ sở đào tạo nhân lực y tế trong toàn quốc giai đoạn 2010-2015.

Trong các năm qua, quy mô đào tạo tại các cơ sở đào tạo nhân lực y tế liên tục tăng. Ví dụ, chỉ tiêu đào tạo năm 2009 đã tăng gấp khoảng 3 lần so với năm 2002; tại các trường y, số sinh viên được tuyển vào học đã tăng lên, như sinh viên để đào tạo thành Bác sỹ tăng từ 3.300 năm 2001 lên 6.390 năm 2008. Ngành y tế đã chú trọng nâng cao năng lực cho các trường Đại học Y, Dược để có thể xây dựng chương trình và triển khai các hình thức đào tạo phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo của cán bộ y tế và tăng số lượng nhân viên y tế, như đào tạo liên thông từ trình độ trung cấp. Các hình thức đào tạo khác như đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ, đào tạo theo địa chỉ sử dụng, đào tạo cử tuyển cũng đang được áp dụng tích cực thông qua “Đề án đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng núi của các tỉnh thuộc miền Bắc và miền Trung, vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Tây Nguyên theo chế độ cử tuyển” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1544/QĐ-TTg ngày 14/11/2007 và được thực hiện từ năm 2007 đến năm 2018.

7. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ có qui định, chế tài cụ thể và kéo dài thời gian công tác tại các cơ sở y tế công lập đối với các đối tượng thuộc diện đào tạo cử tuyển, bác sĩ, dược sĩ các loại hình đào tạo chuyên tu và đào tạo sau đại học sử dụng ngân sách nhà nước.”

Trả lời: (Tại Công văn số 5776/BYT-VB1 ngày 26/8/2010)

Vấn đề này liên quan đến quy định tại Bộ Luật lao động ngày 23/6/1994, việc nghỉ hưu theo đúng độ tuổi 60 với Nam và 55 với Nữ là quyền lợi của viên chức. Các trường hợp được kéo dài thời gian công tác đã được quy định tại Nghị định số 71/2000/NĐ-CP ngày 23/11/2000 của Chính phủ về việc kéo dài thời gian công tác đối với cán bộ, công chức đến độ tuổi nghỉ hưu, gồm:

- Những người trực tiếp làm công tác nghiên cứu ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước được bổ nhiệm và hưởng bảng lương chuyên gia cao cấp quy định tại Nghị định số 25/CP ngày 23 tháng 5 năm 1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức khu vực hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang;

- Những người có học vị tiến sĩ khoa học làm việc theo đúng chuyên ngành đào tạo; những người có chức danh giáo sư, phó giáo sư đang trực tiếp nghiên cứu, giảng dạy theo đúng chuyên ngành ở các Viện, Học viện và các trường đại học;

- Những người thực sự có tài năng được cơ quan, tổ chức, đơn vị thừa nhận, đang trực tiếp làm việc theo đúng chuyên môn thuộc các lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, nghệ thuật.

Như vậy, các đối tượng cử tri đề nghị kéo dài thời gian công tác không thuộc các đối tượng nêu trên. Nếu kéo dài thời gian công tác sẽ rất bất hợp lý đối với những người được đào tạo chính quy và quyền lợi của viên chức được nghỉ hưu theo đúng độ tuổi quy định của Bộ Luật lao động.



8. Cử tri các tỉnh Quảng Bình, Hải Phòng, Trà Vinh, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Long An, Bắc Giang kiến nghị: “Đề nghị Nhà nước cần ưu tiên tăng ngân sách đầu tư cho việc nâng cấp cơ sở vật chất, các trang thiết bị của các bệnh viện, cơ sở y tế ở các tuyến và có chính sách thỏa đáng cho cán bộ y tế để đảm bảo yêu cầu khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe người dân.”

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   50




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương