KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 6.12 Mb.
trang73/86
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích6.12 Mb.
#1452
1   ...   69   70   71   72   73   74   75   76   ...   86

Trả lời: Tại công văn số 477/TANDTC-TKTH ngày 29/8/2014

  1. Về việc xét xử oan sai và các giải pháp khắc phục án oan sai

Trong năm 2013, các Tòa án nhân dân giải quyết được 364.819 vụ án các loại trong tổng số 395.415 vụ án đã thụ lý (đạt tỷ lệ 92,3%). Trong 6 tháng đầu năm 2014 (từ ngày 01/10/2013 đến 31/3/2014), các Tòa án đã giải quyết 158.124 vụ án các loại trong tổng số 243.180 vụ án đã thụ lý (đạt tỷ lệ 65%, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước). Mặc dù số lượng các loại vụ án trong năm 2013 tăng gần 35.000 vụ so với cùng kỳ năm trước; số lượng các loại án trong 6 tháng đầu năm 2014 tăng 12.351 vụ so với cùng ký năm trước, với tính chất các vụ án ngày càng phức tạp, phát sinh một số hành vi phạm tội và tranh chấp mới, nhưng với việc chủ động nắm bắt tình hình, đề ra nhiều giải pháp hữu hiệu và tổ chức thực hiện quyết liệt, nên công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục có sự chuyển biến tích cực, chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục được đảm bảo và có những tiến bộ nhất định; tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan năm 2013 giảm hơn 0,12% so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Tòa án trong 6 tháng đầu năm 2014 là 1,7%; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Tòa án giảm 0.05% so với cùng kỳ năm trước. Việc xét xử các vụ án hình sự về cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo đảm bảo đúng pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay; chưa phát hiện trường hợp nào xét xử trong năm 2013 và 6 tháng đầu năm 2014 kết án oan người không có tội; việc giải quyết các vụ việc dân sự và vụ án hành chính đã bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Bên cạnh các thành tích đã đạt được, cũng còn tồn tại một số khuyết điểm, thiếu sót nhất định, trong đó, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán chưa giảm mạnh.

Việc các bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán có nguyên nhân là do một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, còn hạn chế về năng lực, trình độ, bản lĩnh nghề nghiệp; một số trường hợp việc nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa kỹ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, áp dụng pháp luật chưa chính xác… Trong công tác xét xử các vụ án hành chính, phần lớn các Thẩm phán còn hạn chế về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội; còn có Thẩm phán có biểu hiện ngại va chạm đối với cơ quan hoặc người có thẩm quyền đã có quyết định hoặc có hành vi hành chính bị khởi kiện, phần lớn là các trường hợp Thẩm phán Tòa án cấp huyện khi xét xử các vụ án liên quan tới quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ tại một số Tòa án địa phương thực hiện chưa tốt nên chưa kịp thời phát hiện để uốn nắn, rút kinh nghiệm về các sai sót nghiệp vụ của cán bộ, Thẩm phán.

Để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án, khắc phục tình trạng xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm trong thời gian tới Toà án nhân dân tối cao sẽ tiếp tục tập trung làm tốt hơn nữa công tác đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức và Hội thẩm Tòa án nhân dân trong toàn ngành, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán; đẩy mạnh việc đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, dân chủ, công khai, đúng quy định của pháp luật; chú trọng hơn tới công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và rút kinh nghiệm công tác xét xử. Bên cạnh đó chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức Tòa án các cấp. Tăng cường kỷ luật công vụ; xác định rõ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán và Hội đồng xét xử đối với những sai sót do lỗi chủ quan. Những trường hợp Thẩm phán xét xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm thì phải kiểm điểm nghiêm khắc, làm rõ trách nhiệm của Thẩm phán, trường hợp do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc do năng lực yếu kém thì phải bị miễn nhiệm, cách chức hoặc không được bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán. Những Thẩm phán có bản án, quyết định bị huỷ hoặc sửa do sai lầm nghiêm trọng, cho bị cáo hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật thì phải bị kiểm điểm, đánh giá về năng lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm, tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm để có biện pháp xử lý phù hợp. Nếu do lỗi chủ quan của Thẩm phán thì có thể bị chuyển sang làm công tác khác hoặc khi hết nhiệm kỳ, Chánh án tạm dừng không tái bổ nhiệm từ 6 tháng đến 01 năm để tiếp tục kiểm điểm, rút kinh nghiệm, học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Tăng cường công tác giám đốc việc xét xử của Toà án cấp trên đối với các Toà án cấp dưới, kịp thời phát hiện để uốn nắn, rút kinh nghiệm trong toàn hệ thống Tòa án về những sai sót trong hoạt động xét xử.

2. Về việc chậm đưa vụ án ra xét xử và các giải pháp khắc phục

Yêu cầu đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử các loại vụ án, đảm bảo giải quyết các vụ án trong thời hạn theo quy định của pháp luật là một nhiệm vụ quan trọng đã được đề cập trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao khi chỉ đạo hoạt động của các Tòa án trong thời gian qua. Việc khắc phục các vụ án quá thời hạn xét xử là một nội dung được đề cập trong nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác của ngành trong năm 2013 (Nghị quyết của Ban cán sự đảng, Chỉ thị của Chánh án, các Công văn số 69/TANDTC-TK ngày 22/4/2013 và Công văn số 79/TANDTC-TK ngày 06/5/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao). Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Hội nghị toàn ngành để đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đề ra các giải pháp khắc phục việc để các vụ án quá thời hạn xét xử. Tổ chức các đoàn kiểm tra nội dung này tại các Tòa án địa phương để chấn chỉnh kịp thời. Tăng cường cán bộ, Thẩm phán cho các đơn vị có số lượng lớn các loại vụ án phải giải quyết. Phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT - BTP - BNG - TANDTC ngày 15/09/2011 hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật tương trợ tư pháp. Theo đó, tại khoản 4, Điều 15 quy định: sau sáu tháng kể từ ngày Bộ tư pháp gửi hồ sơ ủy thác tư pháp hợp lệ lần thứ hai cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc bộ ngoại giao mà không nhận được thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp thì Tòa án sẽ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu nhập được để giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.

Số liệu án quá hạn luật định các năm vừa qua, cụ thể như sau:

- Năm 2010, tổng số vụ án để quá thời hạn quy định của pháp luật là 1.787 vụ án, chiếm tỷ lệ 0,61% so với tổng số vụ án đã thụ lý.

- Năm 2011, tổng số vụ án để quá thời hạn quy định của pháp Luật là 1.071 vụ án, chiếm tỷ lệ 0,32% so với tổng số vụ án đã thụ lý.

- Năm 2012, tổng số vụ án để quá thời hạn quy định của pháp luật là 869 vụ án, chiếm tỷ lệ 0,24% so với tổng số vụ án đã thụ lý.

- Năm 2013, tổng số vụ án để quá thời hạn quy định của pháp luật là 410 vụ, chiếm tỷ lệ 0,1%.

Kết quả công tác năm 2013 cho thấy, mặc dù số lượng các loại vụ án toàn ngành phải giải quyết là 395.415 vụ, tăng gần 35.000 vụ, nhưng số lượng các vụ án để quá hạn luật định do lỗi chủ quan của Tòa án chỉ còn 410 vụ (bằng 0,1%), giảm 50% so với năm 2012, đặc biệt cho tới nay không có vụ án nào thuộc thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để quá thời hạn xét xử.

Việc để án quá hạn luật định có nguyên nhân chủ quan từ phía Tòa án. Nhưng thực tiễn cho thấy trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, nhiều trường hợp đương sự không hợp tác với Tòa án khi Tòa án tiến hành thẩm định tại chỗ, đo đạc thực địa; các cơ quan có liên quan trong nhiều trường hợp không làm hết trách nhiệm của mình trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án; vấn đề giám định trong lĩnh vực xây dựng chi phí rất lớn và gặp không ít khó khăn; nhiều vụ việc có rất đông đương sự và cư trú tại nhiều địa phương khác nhau, thậm chí cả ở nước ngoài nên quá trình thu thập chứng cứ khó khăn, mất nhiêu thời gian. Trong giải quyết các vụ án hành chính, một số vụ án người khởi kiện không cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình; có trường hợp phải đợi ý kiến của các cơ quan, chính quyền các cấp có liên quan hoặc người bị kiện là lãnh đạo chính quyền phải giải quyết công việc nên không tham gia tố tụng được nhưng không ủy quyền ngay cho người có đủ điều kiện làm đại diện...nên cũng làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài. Đây cũng là vấn đề Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Quốc hội xem xét, điều chỉnh khi ban hành Nghị quyết về công tác tư pháp năm 2014 để đảm bảo tính khả thi cho ngành Tòa án khi thực hiện các chỉ tiêu, yều cầu của Quốc hội.

Trong thời gian tới, các giải pháp khắc phục tình trạng chậm đưa vụ án ra xét xử được Tòa án nhân dân các cấp xác định, cụ thể như sau:

- Tiếp tục bổ sung cán bộ, Thẩm phán cho các Tòa án, đặc biệt là các đơn vị có số lượng lớn các vụ án phải thụ lý, giải quyết.

- Trong công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo các đơn vị cần tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công tác của cán bộ, công chức; nắm chắc tình hình, kết quả thực hiện công tác xét xử hàng tháng để có kế hoạch, giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử các loại vụ án; tiếp tục đổi mới các thủ tục hành chính tư pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết công việc, đặc biệt trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án; khẩn trương tổ chức rà soát, thống kê chính xác số lượng các vụ án quá hạn luật định để tập trung cán bộ giải quyết dứt điểm các vụ án này.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; rút kinh nghiệm và xử lý nghiêm các cán bộ, Thẩm phán thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác dẫn đến để các vụ án quá thời hạn xét xử theo quy định của pháp luật.

- Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và công tác trao đổi nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao với các Tòa án địa phương để tháo gỡ những vướng măc về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các loại vụ án.

- Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình giải quyết các loại vụ án; khẩn trương xây dựng để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua Pháp lệnh xử lý các hành vi cản trở hoạt động tô tụng của Tòa án để nâng cao trách nhiệm và xử lý những hành vi vi phạm liên quan tới trách nhiệm của các cá nhân và cơ quan có liên quan đến việc cung cấp chứng cứ và tiến hành một số hoạt động hỗ trợ Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.

- Tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho các Tòa án khi thực hiện nhiệm vụ của mình trong quá trình giải quyết các loại vụ án.

3. Về việc xét xử nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật và công khai trước công luận những sai phạm của Điều tra viên, kiểm sát viên và cán bộ Tòa án trong vụ án oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang

Liên quan đến vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn ở tỉnh Bắc Giang, ngày 25/01/2014, Cơ quan cảnh sát điều tra đã có quyết định đình chỉ điều tra đối với ông Nguyễn Thanh Chấn. Ngày 18/02/2014, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có Quyết định tổ chức xác minh làm rõ nội dung đơn của ông Chấn tố giác một số cán bộ tiến hành tố tụng vụ án nêu trên có hành vi bức cung, dùng nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án. Ngày 08/5/2014, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã khởi tố bị can đối với 01 kiểm sát viên và 01 điều tra viên về hành vi “Làm sai lệch hồ sơ vụ án” theo Điều 300 Bộ luật hình sự, đồng thời ra lệnh bắt tạm giam 04 tháng đối với 02 bị can để phục vụ việc điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Hiện nay, các cơ quan điều tra đang tiến hành điều tra để làm rõ hành vi của các bị can trong việc làm sai lệch hồ sơ vụ án, dẫn đến việc kết án oan ông Nguyễn Thanh Chấn về tội “Giết người”.

Hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án dẫn đến việc kết án oan người không có tội, bỏ lọt tội phạm, ngoài việc làm ảnh hưởng đến trật tự hoạt động tư pháp, còn xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân, tính mạng, danh dự nhân phẩm, công ăn việc làm của người bị oan đồng thời còn ảnh hưởng tới gia đình, dòng tộc của họ. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung, vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án dẫn đến vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn nói riêng, quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao là phải xem xét xử lý nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật đối với hành vi sai phạm đó, áp dụng triệt để các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, đưa ra xét xử công khai, trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa để làm rõ các hành vi sai phạm của các bị cáo, trên cơ sở đó sẽ ra bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân cũng sẽ thực hiện tốt việc phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí nhằm đưa tin về kết quả giải quyết vụ án.



9. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Theo Luật đất đai (sửa đổi) tất cả các tranh chấp đất đai (kể cả có giấy CNQSD đất hoặc không giấy) đều tập trung do Tòa án nhân dân giải quyết sẽ dẫn đến quá tải. Đề nghị ngành Tòa án phải có kế hoạch đào tạo đủ nguồn nhân lực để giải quyết một cách tốt nhất theo luật định, tránh kéo dài thời gian gây phiền hà cho nhân dân.

Trả lời: Tại công văn số 486/TA-TKTH ngày 29/8/2014

Vấn đề bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối với các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có các Tòa án nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước và lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đặc biệt quan tâm, chú trọng. Hằng năm, trên cơ sở kinh phí đào tạo, bồi dưỡng được cấp, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao đã chỉ đạo các đơn vị chức năng lập kế hoạch và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cơ sở đào tạo thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ, công chức và Thẩm phán của các Tòa án, bảo đảm đáp ứng yêu cầu công tác chuyên môn, nghiệp vụ, cùng với việc hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh công chức theo quy định của Nhà nước.

Bên cạnh đó, để bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ cải cách tư pháp - đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, trong những năm qua Ban cán sự đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đã tập trung chỉ đạo các đơn vị chức năng, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng nhiều đề án, dự án, chương trình, kế hoạch về đổi mới cơ cấu tổ chức, bộ máy cùng với nâng cao chất lượng, bổ sung đủ số lượng cán bộ, công chức, nhất là Thẩm phán các Tòa án nhân dân. Trong đó, có một số đề án lớn, mang tính chiến lược như “Đề án tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ đối với các Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới” (do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao cho Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao thực hiện), “Quy hoạch phát triển nhân lực của Tòa án nhân dân giai đoạn đến năm 2020”, “Chiến lược đào tạo cán bộ, công chức Tòa án nhân dân đến năm 2020”,...

Như vậy, để thực hiện mục tiêu của Đảng, Nhà nước đặt ra đối với các Tòa án nhân dân hiện nay thì việc chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là một giải pháp cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao năng lực, phẩm chất đối với cán bộ và năng cao chất lượng xét xử của các Toà án nhân dân, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

Tiếp tục hoàn thiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) để trình Quốc hội khóa XIII, thông qua vào kỳ họp thứ 8 (tháng 11/2014); đồng thời, hoàn thiện Đề án Thành lập Học viện Tòa án để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và triển khai thực hiện. Tạo cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ tinh thần cải cách tư pháp và các quy định của Hiến pháp năm 2013 “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

10. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Kiến nghị Tòa án nhân dân có kế hoạch rà soát lại các vụ án hình sự có mức án từ chung thân đến tử hình, nhưng đến nay vẫn còn khiếu nại để xem xét, giải quyết, khắc phục án oan sai; đồng thời chỉ đạo các Tòa án cấp dưới có giải pháp hạn chế đến mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy bỏ, cải sửa nghiêm trọng do nguyên nhân chủ quan.

Trả lời: Tại công văn số 481/TANDTC-TK ngày 29/8/2014

Trong năm 2013, các Tòa án nhân dân giải quyết được 364.819 vụ án các loại trong tổng số 395.415 vụ án đã thụ lý (đạt tỷ lệ 92,3%). Trong 6 tháng đầu năm 2014 (từ ngày 01/10/2013 đến 31/3/2014), các Tòa án đã giải quyết 158.124 vụ án các loại trong tổng số 243.180 vụ án đã thụ lý (đạt tỷ lệ 65%, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước). Mặc dù số lượng các loại vụ án trong năm 2013 tăng gần 35.000 vụ so với cùng kỳ năm trước; số lượng các loại án trong 6 tháng đầu năm 2014 tăng 12.351 vụ so với cùng ký năm trước, với tính chất các vụ án ngày càng phức tạp, phát sinh một số hành vi phạm tội và tranh chấp mới, nhưng với việc chủ động nắm bắt tình hình, đề ra nhiều giải pháp hữu hiệu và tổ chức thực hiện quyết liệt, nên công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục có sự chuyển biến tích cực, chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục được đảm bảo và có những tiến bộ nhất định; tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan năm 2013 giảm hơn 0,12% so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Tòa án trong 6 tháng đầu năm 2014 là 1,7%; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Tòa án giảm 0.05% so với cùng kỳ năm trước. Việc xét xử các vụ án hình sự về cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo đảm bảo đúng pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay; đến nay, chưa phát hiện trường hợp nào xét xử trong năm 2013 và 6 tháng đầu năm 2014 kết án oan người không có tội; việc giải quyết các vụ việc dân sự và vụ án hành chính đã bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Bên cạnh các thành tích đã đạt được, cũng còn tồn tại một số khuyết điểm, thiếu sót nhất định, trong đó, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán chưa giảm mạnh.

Việc các bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán có nguyên nhân là do một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, còn hạn chế về năng lực, trình độ, bản lĩnh nghề nghiệp; một số trường hợp việc nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa kỹ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, áp dụng pháp luật chưa chính xác… Trong công tác xét xử các vụ án hành chính, phần lớn các Thẩm phán còn hạn chế về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội; còn có Thẩm phán có biểu hiện ngại va chạm đối với cơ quan hoặc người có thẩm quyền đã có quyết định hoặc có hành vi hành chính bị khởi kiện, phần lớn là các trường hợp Thẩm phán Tòa án cấp huyện khi xét xử các vụ án liên quan tới quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ tại một số Tòa án địa phương thực hiện chưa tốt nên chưa kịp thời phát hiện để uốn nắn, rút kinh nghiệm về các sai sót nghiệp vụ của cán bộ, Thẩm phán.



1) Về việc rà soát lại vụ án hình sự có mức án từ chung thân đến tử hình, nhưng đến nay vẫn còn khiếu nại để xem xét, giải quyết, khắc phục án oan sai

Ngày 29/11/2013, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 69/2013/QH13 về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII (sau đây gọi chung là Nghị quyết 69), có đề ra một số yêu cầu đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và công tác của các Tòa án trong thời gian tới, trong đó có nhiệm vụ thực hiện tốt công tác giám đốc, kiểm tra, rà soát các vụ án hình sự đã xét xử trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII có mức án phạt tù từ 20 năm, chung thân đến tử hình, có đơn kêu oan kéo dài nhằm phát hiện án oan, sai để báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8.

Thực hiện yêu cầu Nghị quyết 69 đề ra, trong thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành rà soát, kiểm tra 31 trường hợp có đơn kêu oan, đặc biệt là các vụ án được xét xử trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII có mức phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình, đảm bảo việc xét xử phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội; đồng thời, không bỏ lọt tội phạm. Qua kiểm tra cho thấy về cơ bản việc xét xử của Tòa án là đúng pháp luật. tuy nhiên cũng đã kháng nghị để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm 04 trường hợp do điều tra chưa đầy đủ. Hiện nay đang tiếp tục xem xét 55 trường hợp còn lại để báo cáo Quốc hội về vấn đề này tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII theo đúng yêu cầu Nghị quyết 69.

Đồng thời, hiện nay để phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII về tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật theo yêu cầu tại Nghị quyết số 74/2013/QH13 ngày 24/6/2014 của Quốc hội về Chương trình hoạt động giám sát năm 2015 và báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII về kết quả kiểm tra, rà soát các vụ án hình sự đã xét xử trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII có mức án phạt tù từ 20 năm, chung thân đến tử hình, có đơn kêu oan kéo dài, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đang khẩn trương tích cực xây dựng kế hoạch về việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 74/2013/QH13 ngày 24/6/2014 của Quốc hội về Chương trình hoạt động giám sát năm 2015 trong hệ thống Tòa án nhân dân, nhằm các mục tiêu là: Rà soát đầy đủ, chính xác các trường hợp oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật; Đảm bảo việc nắm bắt đầy đủ các thông tin về tình hình thực hiện các quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực tố tụng hình sự; Việc tự rà soát, kiểm tra phải được tiến hành thận trọng, khách quan, qua đó xem xét một cách kịp thời, chính xác các trường hợp có đơn kêu oan, đảm bảo việc xét xử không làm oan người vô tội, đồng thời không để lọt tội phạm; Thông qua kết quả rà soát phải xác định được trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng để xảy ra các trường hợp oan, sai; rút ra được những nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc xét xử oan, sai; đồng thời đảm bảo thực hiện tốt các quy định của pháp luật liên quan tới việc giải quyết các yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực tố tụng hình sự.



2) Các giải pháp hạn chế án oan sai do nguyên nhân chủ quan

Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác xét xử, tránh để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định và chỉ đạo các Tòa án tập trung thực hiện tốt các giải pháp trong thời gian tới, cụ thể là:

- Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm để các bên thực hiện đúng quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật, đặc biệt là nghĩa vụ chứng minh, xác định sự thật khách quan của vụ án, các vấn đề pháp lý tranh chấp cần giải quyết trong vụ án. Tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của họ tiếp cận công lý, giao nộp tài liệu, chứng cứ, tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham gia các phiên tòa. Kết luận về vụ án phải phù hợp với tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án. Phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở pháp luật và các tình tiết, chứng cứ, lập luận đã được kiểm tra, xem xét, kết luận toàn diện, đầy đủ tại phiên tòa. Quá trình hỏi và tranh luận tại phiên tòa phải bảo đảm thực sự khách quan, minh bạch và công bằng, không được thiên vị và định kiến. Các vấn đề về nội dung và tố tụng giải quyết vụ án phải được xem xét toàn diện, đầy đủ, không được bỏ sót bất cứ vấn đề pháp lý hoặc tình tiết, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án. Trường hợp tài liệu điều tra thể hiện bị cáo không nhận có hành vi phạm tội, trừ trường hợp phạm tội bị bắt quả tang, tại phiên tòa bị cáo kêu oan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và được trình bày tại phiên tòa có mâu thuẫn với nhau nhưng không thể làm rõ và kết luận được tại phiên tòa thì Tòa án phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

- Cần tập trung làm tốt công tác đào tạo, đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức. Theo đó cần đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng loại đối tượng công chức và loại hình học tập; có chính sách khuyến khích, động viên, hỗ trợ cho cán bộ, công chức tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn theo chuyên, tập trung vào những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử và các quy định mới của pháp luật.

- Thường xuyên thực hiện việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử cho đội ngũ Hội thẩm nhân dân; phối hợp ban hành quy định về trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân và cơ quan, đơn vị nơi Hội thẩm nhân dân công tác trong việc bố trí thời gian để Hội thẩm nhân dân tham gia công tác xét xử theo yêu cầu của Tòa án.

- Nâng cao trình độ lý luận chính trị, tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán.

- Chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, trên cơ sở đó tích cực tham gia hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự, đảm bảo xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và rút kinh nghiệm công tác xét xử. Khi đơn vị có các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan thì lãnh đạo Tòa án đó phải tiến hành ngay việc rút kinh nghiệm đối với Hội đồng xét xử. Chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Xem xét thành lập Hội đồng lựa chọn các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mang tính chuẩn mực về áp dụng phát luật, chứa đựng nhiều nội dung hướng dẫn áp dụng pháp luật để đưa ra tham khảo ý kiến bình luận của các chuyên gia pháp luật trong và ngoài ngành và tập hợp thành các “Tập án mẫu” để các Tòa án tham khảo, vận dụng trong quá trình giải quyết, xét xử các loại vụ án.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra kỷ luật công vụ. Xác định rõ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán và Hội đồng xét xử đối với những sai sót do lỗi chủ quan. Những trường hợp Thẩm phán xét xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm thì phải kiểm điểm nghiêm khắc, làm rõ trách nhiệm của Thẩm phán, trường hợp do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc do năng lực yếu kém thì phải bị miễn nhiệm hoặc không được bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán.

- Tăng cường công tác giám đốc việc xét xử của Toà án cấp trên đối với các Toà án cấp dưới, kịp thời phát hiện để uốn nắn, rút kinh nghiệm trong từng đơn vị cũng như toàn ngành về những sai sót trong hoạt động xét xử. Những vụ án mà bị cáo kêu oan thì phải kịp thời xem xét một cách thận trọng, kỹ càng, toàn diện cả về chứng cứ buộc tội và gỡ tội, đảm bảo không để xảy ra oan sai, nhưng cũng không để lọt tội phạm. Tất cả các vụ án hình sự lớn, trọng điểm dư luận xã hội quan tâm, các vụ án về tham nhũng, các vụ án mà bị cáo bị kết án với mức hình phạt cao nhất và những vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại có giá trị tranh chấp lớn hoặc có tính chất rất phức tạp, quá trình giải quyết có khiếu nại, tranh chấp kép dài thì phải được Tòa án chủ động kiểm tra theo trình tự kiểm tra giám đốc việc xét xử, không đợi có đơn đề nghị của đương sự thì mới xem xét.

- Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, kết hợp với thực hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân”, gắn với phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Tiếp tục thực hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình, khắc phục những tồn tại, khuyết điểm sau khi kiểm điểm tự phê bình của cán bộ, Đảng viên ngành Tòa án theo tinh thần Nghị quyết TW 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.



11. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Ông Văn Ngọc Tuệ, thôn Bản Châng, xã Mỹ Thanh, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn đã gửi hồ sơ tại Tòa án nhân dân tối cao từ ngày 27-6-2012 theo giấy biên nhận số 08/BN-PTD nhưng đến nay vẫn chưa được xem xét, giải quyết. Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao sớm xem xét, trả lời đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án số 19/DSPT ngày 18-8-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn.

Каталог: userfiles -> files -> TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> UỶ ban quốc phòng và an ninh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)

tải về 6.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   69   70   71   72   73   74   75   76   ...   86




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương