KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 6.12 Mb.
trang71/86
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích6.12 Mb.
#1452
1   ...   67   68   69   70   71   72   73   74   ...   86

Trả lời: Tại công văn số 2120/TTCP-KHTCTH ngày 10/9/2014

Trong thời gian qua, ngành thanh tra và các cấp, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Thông báo Kết luận số 130-TB/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 14/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch số 1130/KH-TTCP và 2100/KH-TTCP của Thanh tra Chính phủ. Kết quả, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong nhân dân, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ công chức các cấp, ngành nói chung, ngành thanh tra nói riêng có sự chuyển biến tích cực; chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo được nâng cao; nhiều vụ việc khiếu kiện kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân...

Tuy nhiên, công tác giải quyết KNTC trong thời gian qua, ở các cấp chính quyền vẫn còn có những hạn chế cần được khắc phục, đó là:

- Khi phát sinh khiếu nại, tố cáo một số địa phương chưa làm tròn trách nhiệm của mình, thiếu quan tâm giải quyết từ gốc, có nhiều vụ việc giải quyết chậm, thẩm tra, xác minh sơ sài, thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính xác, áp dụng pháp luật cứng nhắc, phương pháp giải quyết thiếu thuyết phục, dân không đồng thuận. Một số lãnh đạo địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến công tác tiếp dân và giải quyết KNTC, phó thác cho cơ quan cấp dưới. Có trường hợp ngại va chạm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; có trường hợp còn bảo thủ, không mạnh dạn sửa sai hoặc khắc phục sai phạm chậm, chấp hành quyết định của cấp trên chưa nghiêm túc.

- Việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục người KNTC và công tác hòa giải cơ sở chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên có nhiều vụ việc đơn giản vẫn phát sinh đơn thư KNTC vượt cấp. Thực tế cho thấy, nếu vụ việc được giải quyết kịp thời, có lý, có tình thì người dân đồng tình chấm dứt KNTC, nếu không quan tâm giải quyết hoặc giải quyết không đúng thì người dân khiếu nại vượt cấp, sự việc trở nên phức tạp, khó giải quyết, dân sẽ không tin tưởng vào các biện pháp giải quyết tiếp sau.

- Tình trạng ban hành công văn, thông báo trả lời thay quyết định giải quyết khiếu nại vẫn còn xảy ra tại một số địa phương, nhất là giải quyết lần đầu. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gửi đơn thư KNTC vượt cấp, gửi nhiều nơi, chuyển lòng vòng.

Với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo trên phạm vi cả nước; Thanh tra Chính phủ đề ra một số giải pháp về tăng cường việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, cụ thể:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là pháp luật về đất đai và pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo trong các tầng lớp nhân dân, nhất là những người có quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm liên quan đến khiếu nại, tố cáo và việc triển khai dự án đầu tư phát triển kinh tế- xã hội có thu hồi đất.

- Triển khai thực hiện nghiêm túc Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo. Đặc biệt lưu ý thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, đảm bảo quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp có thẩm quyền phải được tôn trọng và triển khai thực hiện. Khẩn trương hướng dẫn triển khai đồng bộ các quy định của Luật Đất đai hiện hành gắn với tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi để hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực đất đai, đảm bảo người có đất bị thu hồi có cuộc sống ổn định và bền vững.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giải quyết KNTC. Tập trung thanh tra, kiểm tra và nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của người đứng đầu các cấp, ngành trong thực hiện pháp luật về thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khẳng định và đề cao vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, nhằm chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết KNTC tại các địa phương, đơn vị.

- Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, ngành, đơn vị trong tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, gắn tiếp dân với đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương và UBND các tỉnh, thành phố trong việc xử lý các trường hợp khiếu nại vượt cấp, tập trung đông người tại Tp. Hồ Chí Minh và Thủ đô Hà Nội, có biện pháp xử lý nghiêm hành động quá khích gây mất trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ; xây dựng quy chế phối hợp giữa cơ quan Tòa án với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

- Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực KNTC và hướng dẫn các biện pháp xử lý người KNTC có các hành vi vi phạm quy định tại khoản 5 Điều 6 Luật Khiếu nại, khoản 10 Điều 8 Luật Tố cáo.

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công chức các cấp, ngành làm công tác tiếp dân, giải quyết KNTC của công dân.

38. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị hướng dẫn, giải thích các vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo để bảo đảm thống nhất thực hiện.

Trả lời: Tại công văn số 2120/TTCP-KHTCTH ngày 10/9/2014

Sau khi Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo được ban hành, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật. Trên cơ sở đó, Thanh tra Chính phủ cũng đã ban hành nhiều Thông tư hướng dẫn, tổ chức nhiều lớp tập huấn cho công chức làm công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm bảo đảm thống nhất trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, trên thực tế, có những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản hướng dẫn, giải đáp nhằm tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện ở một số bộ ngành và địa phương. Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ đã đẩy mạnh, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo cho cán bộ và nhân dân.



39. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Quá trình thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ công chức ngành thanh tra như chế độ phụ cấp, thâm niên nghề còn có những vướng mắc, đề nghị Thanh tra Chính phủ xem xét hướng dẫn cụ thể về thời gian tính thâm niên nghề cho cán bộ, giải quyết chế độ cho người có thời gian công tác lâu năm trong ngành nhưng không phải là thanh tra viên.

Trả lời: Tại công văn số 2120/TTCP-KHTCTH ngày 10/9/2014

Tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 04/2009/TTLT-BNV-BTC ngày 24/12/2009 của liên Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành toà án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm quy định về đối tượng được hưởng phụ cấp thâm niên gồm: Tổng thanh tra và Phó Tổng thanh tra, Chánh Thanh tra và Phó Chánh Thanh tra các cơ quan Thanh tra nhà nước, Thanh tra viên (Thanh tra viên cao cấp, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên); cách tính thời gian thâm niên cũng được Thông tư hướng dẫn rất cụ thể. Trong thời gian qua, Thanh tra Chính phủ và thanh tra các bộ, ngành, địa phương đã thực hiện đúng quy định về đối tượng và mức hưởng phụ cấp thâm niên.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thấy còn có bất cập: Một số công chức, nhân viên có thời gian công tác lâu năm trong ngành nhưng không phải thanh tra viên thì không được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề thanh tra. Để giải quyết vấn đề này, Thanh tra Chính phủ đã có Văn bản số 139/TTCP – TCCB ngày 19/01/2012 đề nghị bổ sung đối tượng hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề thanh tra; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định cho các công chức, nhân viên có thời gian công tác lâu năm trong ngành nhưng không phải thanh tra viên được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên nghề thanh tra.

Ngày 15/02/2012, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh có ý kiến tại Văn bản số 875/VPCP-KGVX về việc bổ sung đối tượng hưởng phụ cấp thâm niên nghề thanh tra, nội dung như sau: “Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ và các Bộ liên quan nghiên cứu về sự cần thiết, tính hợp lý của việc bổ sung chế độ phụ cấp đối với những người thuộc cơ quan thanh tra nhà nước các cấp nhưng chưa được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để đưa vào Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2012-2020”.

Thanh tra Chính phủ đã làm việc với Bộ Nội vụ về nội dung trên, và trong năm 2014 tiếp tục phối hợp với Bộ Nội vụ để đưa vào nội dung Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2012-2020; khi hoàn thành Đề án sẽ hướng dẫn việc thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên cho công chức, nhân viên có thời gian công tác lâu năm trong ngành không phải thanh tra viên.

40. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Hiện nay có một số cán bộ, công chức sau khi về hưu, hạ cánh an toàn thì xây dựng nhà tiền tỷ, cao hơn rất nhiều so với tổng thu nhập tiền lương của cán bộ, công chức khi đương chức. Cử tri kiến nghị rà soát, sớm làm rõ về những trường hợp trên, tiền có được xuất xứ từ đâu, có phải do “tiêu cực” không.

Trả lời: Tại công văn số 2120/TTCP-KHTCTH ngày 10/9/2014

Pháp luật hiện hành và Luật phòng, chống tham nhũng chưa quy định về kê khai, công khai tài sản của cán bộ là lãnh đạo do Trung ương quản lý, nhưng đã nghỉ hưu. Trong thời gian qua, báo chí và dư luận có nêu thực trạng một số quan chức khi nghỉ hưu mới phát hiện ra có khối tài sản lớn hoặc sau khi nghỉ hưu mới mua sắm xe hơi đắt tiền, biệt thự… đã cho thấy những thiếu sót, kẽ hở trong quy định minh bạch, kê khai tài sản. Với chức năng quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng Thanh tra Chính phủ đã chỉ đạo các vụ, cục chức năng nghiên cứu, rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho phù hợp với tình hình thực tế, nhất là các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập tiến tới kiểm soát được tài sản, thu nhập của các đối tượng phải kê khai tài sản thu nhập khi đã nghỉ hưu.

Đối với trường hợp ông Trần Văn Truyền, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ giai đoạn 2006-2011. Hiện nay, ông Trần Văn Truyền đã nghỉ hưu, đang sinh hoạt đảng ở tỉnh Bến Tre. Sau khi một số cơ quan báo chí nêu về tài sản của ông Trần Văn Truyền, Ban Bí thư Trung ương đã chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan liên quan tiến hành kiểm tra, xác minh tài sản của ông Trần Văn Truyền theo quy định của Đảng và quy định của pháp luật. Sau khi có kết luận kiểm tra, sẽ thông báo theo quy định hiện hành.

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1. Cử tri các tỉnh An Giang, Bình Định, Bình Dương, Long An, Thái Bình và thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Nhà nước đã có những động thái quyết liệt trong việc phòng chống tham nhũng, tuy nhiên trong thực tế phát hiện còn ít và mới chỉ xử lý nghiêm minh với các vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, còn các vụ án nghiêm trọng, rất nghiêm trọng xử lý còn nhẹ, nên chưa có tính răn đe. Vì vậy, tình trạng tham nhũng vẫn còn nhiều với những diễn biến phức tạp và hình thức tinh vi. Đề nghị khẩn trương đưa các vụ án tham nhũng lớn trong thời gian vừa qua ra xét xử và phải tăng cường hơn nữa công tác xét xử các vụ án tham nhũng, đảm bảo nghiêm minh, xét xử đúng người, đúng quy định của pháp luật trong xử lý cán bộ, người đứng đầu có hành vi vi phạm.

Trả lời: Tại công văn số 472/TANDTC-TKTH ngày 29/8/2014

Việc một số vụ việc tham nhũng được phản ánh, xử lý chưa phản ánh đúng tình trạng tham nhũng hiện nay xuất phát từ nguyên nhân các vụ tham nhũng chủ yếu bị phát hiện do công tác xác minh đơn thư tố giác của quần chúng nhân dân, từ các phương tiện thông tin đại chúng.

Trên cơ sở quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013; Nghị quyết số 01-NQ/BCS ngày 10/01/2014 của Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao và Chỉ thị số 01/2014/CT-CA ngày 14/01/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác Tòa án năm 2014, trong đó xác định Tòa án các cấp phải đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, nhất là các vụ án hình sự lớn, trọng điểm, các vụ án tham nhũng; khắc phục triệt để tình trạng để các vụ án quá thời hạn xét xử và việc xử phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo không đúng pháp luật; áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn tài sản nhà nước... Đối với các vụ án tham nhũng lớn, các Tòa án cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các ngành Công an, Viện kiểm sát và các cơ quan chức năng khác để khẩn trương phát hiện, điều tra, kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các tội phạm về tham nhũng lớn của trung ương và địa phương được dư luận quan tâm. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát cùng cấp chuyển sang các Tòa án phải phân công Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà, khẩn trương nghiên cứu hồ sơ và bố trí lịch xét xử để sớm đưa vụ án ra xét xử. Đối với các vụ án lớn, phức tạp, các Tòa án cần chủ động cử cán bộ tiếp xúc hồ sơ vụ án từ đầu, tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc trao đổi thông tin, quan điểm đánh giá chứng cứ, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Phối hợp với các cơ quan hữu quan để mở các phiên toà lưu động xét xử các vụ án tham nhũng và có kế hoạch tổ chức tuyên truyền, đưa tin kịp thời về kết quả của phiên toà, nhằm nâng cao tác dụng giáo dục, phòng ngừa và phát động quần chúng tham gia đấu tranh phát hiện, tố giác loại tội phạm này.

Quán triệt chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao, nhìn chung các vụ án về tham nhũng đã được các Tòa án khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để đưa ra giải quyết, xét xử, đáp ứng yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm này trong tình hình hiện nay, số lượng cụ thể như sau:

- Năm 2010, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết 367 vụ/916 bị cáo (xét xử 259 vụ với 570 bị cáo) trong tổng số 398 vụ/1.047 bị cáo phạm các tội về tham nhũng đã thụ lý, đạt 92,2% số vụ/87,5% số bị cáo phải giải quyết;

- Năm 2011, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết 314 vụ/820 bị cáo (xét xử 220 vụ với 485 bị cáo) trong tổng số 338 vụ/902 bị cáo phạm các tội về tham nhũng đã thụ lý, đạt 93% số vụ/91% số bị cáo phải giải quyết;

- Năm 2012, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết 328 vụ/749 bị cáo (xét xử 245 vụ với 513 bị cáo) trong tổng số 351 vụ/804 bị cáo phạm các tội về tham nhũng đã thụ lý, đạt 93,4% số vụ/93,2% số bị cáo phải giải quyết;

- Năm 2013, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết 383 vụ/893 bị cáo (xét xử 281 vụ với 552 bị cáo) trong tổng số 418 vụ/1.019 bị cáo phạm các tội về tham nhũng đã thụ lý, đạt 92% số vụ/88% số bị cáo phải giải quyết;

Riêng trong 6 tháng đầu năm 2014, các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp đã xét xử 172 vụ với 439 bị cáo phạm tội về tham nhũng, trong đó: Xét xử theo thủ tục sơ thẩm 101 vụ/295 bị cáo, xét xử theo thủ tục phúc thẩm 63 vụ/118 bị cáo và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 8 vụ/26 bị cáo. Các Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt tử hình và tù chung thân đối với 06 bị cáo; xử phạt tù có thời hạn 245 bị cáo; xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo 44 bị cáo. Các Tòa án đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung đối với 37 vụ, Viện kiểm sát chấp nhận 35 vụ, chiếm tỷ lệ 95%. Trong số các vụ án tham nhũng mà Tòa án đã thụ lý thì các tội phạm xảy ra nhiều là: Tội tham ô tài sản (88 vụ/256 bị cáo), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (52 vụ/173 bị cáo), Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (39 vụ/74 bị cáo), Tội nhận hối lộ (18 vụ/68 bị cáo).

Trong quá trình xét xử vụ án, các Tòa án đã áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đối với những bị cáo tham gia với vai trò là người chủ mưu, cầm đầu, chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đối với các bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu, nhất thời phạm tội hoặc bị rủ rê, lôi kéo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (bị cáo hoặc gia đình bị cáo đã khắc phục toàn bộ hậu quả; bản thân hoặc gia đình có công với cách mạng…) và căn cứ vào đặc điểm nhân thân của bị cáo mà thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, thì Tòa án căn cứ vào nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các vụ án có đồng phạm và chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước để cho bị cáo hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ. Việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo chỉ áp dụng đối với những bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng đặc biệt, đúng quy định của Điều 60 Bộ luật hình sự, cũng như hướng dẫn của liên ngành tư pháp trung ương và Tòa án nhân dân tối cao. Khi xét xử các hành vi phạm tội về tham nhũng mà theo quy định của Bộ luật hình sự cần áp dụng hình phạt bổ sung thì kiên quyết áp dụng; đồng thời áp dụng biện pháp kê biên tài sản nhằm thu hồi tài sản của Nhà nước đã bị các bị cáo chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại.

Nhìn chung, việc xét xử đối với các vụ án tham nhũng thời gian qua đã được các Tòa án khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để đưa ra xét xử và áp dụng những hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi phạm tội của bị cáo, mức án mà Tòa án đã tuyên tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi và nhân thân của người phạm tội trong từng vụ án đáp ứng yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. Điển hình như vụ án Vũ Việt Hùng, nguyên giám đốc Ngân hàng phát triển Việt Nam chi nhánh khu vực Đăk Lắk - Đắk Nông cùng các đồng phạm phạm tội “Nhận hối lộ” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ở Đắk Nông; vụ án Nguyễn Thanh Huyền - nguyên Phó tổng giám đốc Vifon cùng các đồng phạm phạm tội “Tham ô tài sản” và “Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; vụ án Vũ Quốc Hảo - nguyên Tổng giám đốc, Chủ tịch hội đồng Công ty cho thuê tài chính ALCII cùng các đồng phạm phạm tội “Tham ô tài sản”, “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”; vụ án Dương Chí Dũng cùng các đồng phạm phạm tội “Tham ô tài sản” và “Cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”…

Để tăng cường hơn nữa công tác xét xử các vụ án tham nhũng, đảm bảo nghiêm minh, xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật trong xử lý cán bộ, người đứng đầu có hành vi vi phạm, trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục chỉ đạo các Tòa án địa phương cần thực hiện các giải pháp sau:

- Tăng cường sự phối hợp với các cơ quan tư pháp, bố trí các Thẩm phán có kinh nghiệm, năng lực tham gia giải quyết các vụ án tham nhũng lớn để nhanh chóng kết thúc điều tra, truy tố và đưa ra xét xử các vụ án này; kiên quyết khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm trong công tác thụ lý, giải quyết các vụ án về tham nhũng. Trong quá trình giải quyết các vụ án về tham nhũng cần đặc biệt quan tâm tới các biện pháp kê biên tài sản và các biện pháp tư pháp, các hình phạt bổ sung nhằm thu hồi tài sản của Nhà nước đã bị các bị cáo chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại. Thông qua công tác xét xử các tội phạm về tham nhũng, nếu Toà án phát hiện có sự buông lỏng trong công tác quản lý là nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm thì ngoài việc quyết định xử phạt đối với bị cáo, cần yêu cầu cơ quan hoặc tổ chức có liên quan áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục các nguyên nhân, điều kiện đó.

- Làm tốt công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xét xử các vụ án về tham nhũng, tích cực tham gia xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách của nhà nước về phòng, chống tham nhũng; đồng thời hướng dẫn, giải đáp kịp thời những vướng mắc về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án về tham nhũng; thường xuyên tập huấn kỹ năng giải quyết, xét xử các vụ án tham nhũng cho Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp.

- Thường xuyên tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động các vụ án về tham nhũng để nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong quần chúng nhân dân.

- Xác định và xử lý trách nhiệm đối với cán bộ, Thẩm phán do lỗi chủ quan để xảy ra sai sót trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án về tham nhũng như: kiểm điểm nghiêm túc và tùy từng trường hợp có thể tạm đình chỉ công tác xét xử, hoặc tạm dừng việc tái bổ nhiệm khi hết nhiệm kỳ để bồi dưỡng, đào tạo lại,… Thực hiện nghiêm quy định của Chính phủ về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức để xảy ra vụ việc tham nhũng trong cơ quan, đơn vị mình quản lý, phụ trách.

- Tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp… đối với đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm của Tòa án các cấp. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức Tòa án các cấp về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm về công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm pháp luật và tội phạm tham nhũng với Tòa án các nước trong khu vực và trên thế giới.

- Tăng cường công tác giám đốc, kiểm tra việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, kịp thời phát hiện và khắc phục ngay đối với các sai sót về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án. Chỉ đạo Tòa án các cấp thực hiện nghiêm việc gửi các bản án đối với các vụ án về tham nhũng mà có bị cáo được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ về Tòa án nhân dân tối cao để giám đốc, kiểm tra nhằm đảm bảo giám sát chặt chẽ công tác xét xử đối với loại tội phạm này.

2. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Tại kỳ họp thứ Sáu vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 67/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc hội về việc tăng cường công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Cử tri đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết nêu trên.

Trả lời: Tại công văn số 481/TANDTC-TK ngày 29/8/2014

Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 67/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc hội nêu trên, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành rà soát tất cả các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có hiệu lực hoặc sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014 trong đó có quy định giao Tòa án nhân dân tối cao chủ trì hoặc phối hợp văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Trong công tác xây dựng các dự án luật, pháp lệnh theo sự phân công của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là người trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng các dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật phá sản (sửa đổi), Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật tố tụng hành chính (sửa đổi), Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân cũng như các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Trong quá trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh nêu trên Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện nghiêm các quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các Nghị quyết của Quốc hội về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, tính khả thi của các dự án luật, pháp lệnh. Do đó, ngày 20/01/2014 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 7 ngày 19/6/2014 Quốc hội đã thông qua Luật phá sản (sửa đổi). Đồng thời tại kỳ họp này Quốc hội cũng đã cho ý kiến đối với dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và dự án Luật này dự kiến sẽ được thông qua tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội.



3. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri cho rằng công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua tuy đạt được một số kết quả, một số vụ án lớn về tham nhũng được điều tra xét xử kịp thời, nhưng số vụ việc phát hiện còn ít, một số vụ chậm xét xử, bị tạm hoãn nhiều lần (vụ ngân hàng ACB, vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, vụ Công ty dệt Phương Đông ở thành phố Hồ Chí Minh…); các vụ tham nhũng mới được báo chí thông tin gần đây như vụ nhận hối lộ 16 tỷ đồng để Công ty tư vấn JTS Nhật Bản trúng thầu, vụ bôi trơn 2 triệu USD tại thành phố Hồ Chí Minh…Cử tri kiến nghị ngành chức năng sớm có kết luận công bố cho cử tri theo dõi giám sát. Đồng thời xem xét trách nhiệm liên quan của người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tình trạng tham nhũng, thất thoát tài sản Nhà nước.

Каталог: userfiles -> files -> TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> UỶ ban quốc phòng và an ninh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)

tải về 6.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   67   68   69   70   71   72   73   74   ...   86




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương