KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)


ỦY BAN TÀI CHÍNH NGÂN SÁCH



tải về 7.28 Mb.
trang4/101
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích7.28 Mb.
#2002
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   101

ỦY BAN TÀI CHÍNH NGÂN SÁCH
1. Cử tri tỉnh Lâm Đồng và TP Cần Thơ kiến nghị: Đề nghị Quốc hội nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, kiểm toán đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

Trả lời: Tại công văn số 2180/UBTCNS13 ngày 03/9/2014

Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách xin trả lời như sau: Để đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng vốn ngân sách nhà nước để đầu tư vào các dự án, Quốc hội đã ban hành hệ thống văn bản pháp quy có liên quan, quy định cụ thể, đầy đủ về các nội dung liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan trong việc thanh tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí (Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí); quy định về việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư công, quản lý nhà nước về đầu tư công; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư công, đảm bảo sử dụng ngân sách nhà nước hiệu quả, tiết kiệm (Luật đầu tư công). Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đã tổ chức các đoàn giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN đối với các dự án, công trình. Theo đó, trong năm 2013, thực hiện sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đã chủ trì giám sát chuyên đề về “Việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006 - 2012”, gửi báo cáo tới các vị ĐBQH tại kỳ họp thứ 5. Năm 2014 Ủy ban Tài chính - Ngân sách tiếp tục giám sát về tình hình huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công, sẽ gửi báo cáo tới các vị ĐBQH tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII. Đối với Kiểm toán nhà nước, hàng năm Quốc hội đều lưu ý chú trọng kiểm toán các chương trình trọng điểm quốc gia, chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư công,…



2. Cử tri TP Đà Nẵng kiến nghị: Kiến nghị Quốc hội xem xét, giám sát chặt chẽ việc quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài (ODA) bảo đảm hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, hạn chế tốc độ gia tăng nợ công hiện nay.

Trả lời: Tại công văn số 2176/UBTCNS13 ngày 03/9/2014

Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách xin trả lời như sau: Trong những năm vừa qua, cùng với kết quả đạt được, công tác quản lý, sử dụng, giám sát việc sử dụng, đầu tư các công trình, dự án bằng nguồn vốn ODA nói riêng và quản lý, sử dụng nợ công nói chung đang đặt ra nhiều vấn đề nổi cộm, thu hút được sự quan tâm của dư luận và các ĐBQH. Trước bối cảnh đó, trong năm 2014, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đã và đang triển khai chuyên đề giám sát về tình hình huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ công và sẽ báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII. Chuyên đề giám sát tập trung chủ yếu vào việc đánh giá tình hình huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý nợ công nói chung và việc quản lý, sử dụng vốn vay ODA nói riêng. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và giám sát quản lý nợ công, bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia.



3. Cử tri tỉnh Tiền Giang và TP Hải Phòng kiến nghị: Kiến nghị về tình trạng đầu tư dàn trải, gây lãng phí trong đầu tư công và không hiệu quả nhưng không có cá nhân, tố chức nào chịu trách nhiệm và đề nghị tăng cường giám sát trong đầu tư công; tăng cường giám sát trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, bảo đảm hiệu quả trong sử dụng NSNN.

Trả lời: Tại công văn số 2179/UBTCNS13 ngày 03/9/2014

Để đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng vốn ngân sách nhà nước để đầu tư vào các dự án, Quốc hội đã ban hành hệ thống văn bản pháp quy có liên quan, quy định cụ thể, đầy đủ về các nội dung liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan trong việc thanh tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí (Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí); quy định về việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư công, quản lý nhà nước về đầu tư công; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư công, đảm bảo sử dụng ngân sách nhà nước hiệu quả, tiết kiệm (Luật đầu tư công). Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đã tổ chức các đoàn giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN đối với các dự án, công trình. Theo đó, trong năm 2013, thực hiện sự phân công của Ủy ban thường vụ Quôc hội, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đã chủ trì giám sát chuyên đề về “Việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiêu chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006 - 2012”, gửi báo cáo tới các vị ĐBQH tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII.

Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong quản lý, sử dụng nguồn vốn NSNN, tránh lãng phí nguồn lực của nhà nước trong đầu tư công, trong thời gian tới, Ủy ban Tài chính - Ngân sách sẽ tiếp tục tăng cường hoạt động giám sát trong đầu tư công và chỉ rõ trách nhiệm đối với từng tố chức, cá nhân khi phát hiện có sai phạm trong lĩnh vực đầu tư công.

4. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Theo quy định tại điểm d, điều 30 Luật ngân sách Nhà nước, nguồn thu của ngân sách Trung ương hưởng 100% gồm “Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành”. Cử tri cho rằng quy định như trên là chưa hợp lý vì khoản thu thuế thu nhập doanh nghiệp hạch toán toàn ngành do nhiều địa phương đóng góp. Vì vậy, đề nghị Quốc hội xem xét khi sửa đổi Luật ngân sách Nhà nước xác định đây là khoản thu phân chia giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.

Trả lời: Tại công văn số 2175/UBTCNS13 ngày 03/9/2014

Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách có ý kiến như sau: Theo Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30 tháng 5 năm 2014 của Quốc hội về điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Dự án Luật ngân sách nhà nước sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 và thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, khi tiến hành thẩm tra Dự án Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi), Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách sẽ nghiên cứu kiến nghị của cử tri, bảo đảm các quy định của Luật phù hợp với thực tiễn.



5. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành quy định phân cấp cho Chính phủ, Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc xóa nợ thuế cho các tổ chức, cá nhân.

Trả lời: Tại công văn số 2177/UBTCNS13 ngày 03/9/2014

Về nội dung này, Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách xin được trả lời như sau: Theo quy định tại Điều 67 Luật quản lý thuế, thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã được phân cấp cho Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (xóa nợ đối với người nộp thuế là doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản quy định tại khoản 1 Điều 65, cá nhân quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 65, hộ gia đình quy định tại khoản 3 Điều 65 của Luật quản lý thuế); Thủ tướng Chính phủ (xóa nợ đối với trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ mười tỷ đồng trở lên); Bộ trưởng Bộ Tài chính (xóa nợ đối với trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ năm tỷ đồng đến dưới mười tỷ đồng); Tổng Cục trưởng Tổng cục thuế, Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan (xóa nợ đối với trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt dưới năm tỷ đồng).



ỦY BAN QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
1. Cử tri các tỉnh Phú Yên, An Giang, Tây Ninh, Lào Cai, Lai Châu, TP Cần Thơ, TP Hà Nội kiến nghị

*Đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam:



+ Về chức vụ của sĩ quan:

- Đề nghị nên có những qui định nhằm tiến tới giảm dần số lượng sĩ quan mang cấp hàm từ đại tá trở lên trong lực lượng Quân đội nhân dân;

- Đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm h, khoản 1: Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự cấp huyện thành Chính ủy Ban Chủ huy quân sự cấp huyện bởi vì cấp Trung đoàn có chính ủy, trong khi đó Ban Chỉ huy quân sự cấp huyện được xác định là cấp tương đương với Trung đoàn; Hơn nữa Ban Chỉ huy quân sự cấp huyện vừa làm nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy, lĩnh vực quân sự quốc phòng đồng thời thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng theo chỉ đạo của ngành dọc cấp trên;

- Đề nghị bổ sung thêm 1 số cụm từ sau vào điểm h, khoản 1 Điều 11 để quy định rõ hơn việc quy định cấp hàm đối với lực lượng Bộ đội Biên phòng từ cấp Đồn trưởng, Chính trị viên của cấp Đồn về trách nhiệm và quyền lợi của lực lượng Bộ đội biên phòng, không nên giao cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cụ thể hóa như khoản 2, Điều 11. Cụ thể như sau:

h) Trung đoàn trưởng, Chính uỷ Trung đoàn; Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự cấp huyện; Đồn trưởng, chính trị viên các Đồn;

+ Về Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan (Điều 15):

- Điểm c, khoản 1: đề nghị xem lại cấp bậc quân hàm giữa Giám đốc Học viên và Hiệu trưởng các trường sĩ quan vì 02 đơn vị này có đối tượng đào tạo khác nhau (Học viện đào tạo cao hơn) nên quân hàm của Giám đốc Học viên cao hơn quân hàm của Hiệu trưởng của Trường sĩ quan;

- Điểm d, khoản 1: Đề nghị nâng trần quân hàm của Tư lệnh, Chính ủy của Quân đoàn, Binh chủng, Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trung tướng vì trần quân hàm giữa Tư lệnh, Chính ủy và Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy của các đơn vị nêu trên như nhau cùng là cấp thiếu tướng là không phù hợp. Cấp trưởng phải cao hơn cấp phó một bậc;

- Đề nghị quy định trần quân hàm của cấp phó bằng hay dưới một cấp đối với cấp trưởng đối với các điểm đ, e, g, h vì hiện nay cấp trưởng và cấp phó có quân hàm bằng nhau.

+ Về Thăng quân hàm đối với sĩ quan tại ngũ (Điều 17):

- Giữa 2 Luật sĩ quan và Luật Công an hiện hành có sự vênh nhau về trần quân hàm tướng. Đề nghị nghiên cứu tạo sự công bằng;

- Đề nghị xem xét việc thăng quân hàm trong mỗi cấp tướng là 04 năm hoặc tối thiểu là 02 năm hay trước niên hạn do cấp thẩm quyền quyết định vì theo dự luật quy định “Thăng quân hàm trong mỗi cấp tướng không quy định thời hạn” là chưa phù hợp vì sĩ quan hay cán bộ, công chức, viên chức đều có thời gian tích lũy, tránh việc vận dụng không thống nhất;

- Đề nghị nghiên cứu sửa đổi Luật Sĩ quan quân đội nhân dân theo hướng hạn chế phong hàm cấp tướng vì đội ngũ cấp tướng của ngành hiện nay là quá nhiều;

- Đề nghị bỏ cụm từ “tại ngũ” tại tiêu đề của khoản 1, khoản 2 Điều 17 vì cụm từ này đã được thể hiện tiêu đề của Điều 17 “ Thăng quân hàm đối với sĩ quan tại ngũ”;

- Không thống nhất với quy định “Thăng quân hàm trong mỗi cấp tướng không quy định thời hạn” như Điều 17 của dự thảo Luật. Đề nghị nên bổ sung quy định thời gian xét thăng quân hàm cấp tướng;

- Xem xét, bổ sung tiêu chuẩn xét thăng cấp quân hàm đối với sĩ quan Quân đội và Công an nên có tiêu chí đức (đạo đức) và tài (mức độ hoàn thành nhiệm vụ) khi xét nâng quân hàm, tránh tình trạng cứ đủ thời gian công tác sẽ được được thăng hàm là không hợp lý (Huyện Tân Châu).

- Đề nghị quy định nhóm chức vụ, trần quân hàm của Bệnh xá Trưởng thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh là Đại úy thấp hơn trần quân hàm của Bệnh xá Trưởng của Chủ nhiệm Quân y Trung đoàn là chưa phù hợp tại Thông tư số 91/2013/TT-BQP ngày 16/7/2013 của Bộ Quốc phòng;

- Bổ sung quy định về thăng quân hàm cho sĩ quan là giảng viên giảng dạy tại các trường quân sự.

+ Về Thẩm quyền quyết định đối với sĩ quan (Điều 25): Đề nghị quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 11. Vì toàn bộ nội dung Điều 25 về thẩm quyền quyết định đối với sĩ quan chỉ mới quy định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, phong, thăng, giáng, tước quân hàm đối với sĩ quan từ cấp Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp Tướng, Chuẩn Đô đốc, Phó Đô đốc, Đô đốc Hải quân; Thứ trưởng; Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Chủ nhiệm Tổng cục, Tổng cục trưởng, Chính ủy Tổng cục… trở xuống.

+ Về vấn đề tiền lương:

- Cử tri đề nghị sĩ quan đã nâng lương lần 1, lần 2 nếu còn thời gian công tác, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ thì được tiếp tục nâng lương lần 3 hoặc lần 4 … cho đến khi hết tuổi phục vụ tại ngũ; hệ số lương mỗi lần nâng phải bằng hệ số lương cấp bậc quân hàm liền kề;

- Về việc trả lương cho sĩ quan, cử tri kiến nghị trả lương theo chức vụ sĩ quan rồi đến cấp bậc quân hàm của sĩ quan. Vì có trường hợp vận dụng phong, thăng quân hàm rồi để trả lương, trong đó việc vận dụng cấp bậc quân hàm dễ thực hiện so với với chức vụ sĩ quan;

- Đề nghị xem xét đối với trường hợp thiếu tướng chưa hết tuổi, chưa được bổ nhiệm có trần quân hàm cao hơn thì có được nâng lương không;

- Về chế độ nâng lương trong trường hợp sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam vượt quá khung hàm: đề nghị nên xem xét lại quy định chỉ nâng ½ lương cho sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam nếu sĩ quan đó đến hạn nâng lương nhưng vượt quá khung hàm. Trong khi Luật Công an nhân dân (sửa đổi) lại quy định cho phép sĩ quan Công an nhân dân sẽ được hưởng lương và nâng lương dù vượt quá khung hàm. Vì vậy, đề nghị nên quy định cho phép lực lượng sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được nâng lương khi vượt quá khung hàm giống như sĩ quan Công an nhân dân.

- Theo dự thảo Luật quy định lương sẽ căn cứ vào chức vụ và cấp bậc quân hàm sĩ quan. Đề nghị lộ trình xếp lương được quy định trong dự thảo Luật, tránh tình trạng như Luật sĩ quan năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2008 có quy định sĩ quan được bảo đảm nhà ở, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện…

- Xem xét, sửa đổi quy định về chế độ lương cho cán bộ, chiến sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu hiện nay thấp.

+ Về chức năng và nhiệm vụ của của lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam, cụ thể là lực lượng Bộ đội Biên phòng: đề nghị cân nhắc lại nội dung quy định tại khoản 5, Điều 15 về nhiệm vụ và quyền hạn của Công an nhân dân có nội dung Công an nhân dân thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, về bảo vệ bí mật nhà nước, về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; thực hiện kiểm soát xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Việt Nam, bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ an ninh quốc gia ở biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật. Do hiện nay việc cấp và thu hồi hộ chiếu đã giao trách nhiệm cho lực lượng công an thực hiện; còn việc kiểm soát xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Việt Nam ở biên giới, cửa khẩu của quốc gia thuộc trách nhiệm của lực lượng Bộ đội Biên phòng. Nếu quy định như khoản 5, Điều 15 của dự thảo Luật Công an nhân dân (sửa đổi) sẽ xảy ra tình trạng chồng chéo nhiệm vụ, quyền hạn trong việc kiểm soát xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Việt Nam ở biên giới, cửa khẩu của quốc gia giữa lực lượng Bộ đội Biên phòng (được quy định tại Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng và Luật xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam) với lực lượng Công an nhân dân (theo quy định của dự thảo Luật Công an nhân dân).

+ Về quy định cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan: đề nghị Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam nên sửa đổi quy định cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan tương tự như Điều 15 của Luật Công an nhân dân Việt Nam (sửa đổi), đặc biệt là quy định cấp thiếu tướng đối với sĩ quan của lực lượng quân đội tại các các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Nghệ An, Thanh Hóa, Đồng Nai và 1 số tỉnh, thành phố khác. Đồng thời quy định rõ mức quân hàm đối với các học sinh học ở các Trường thuộc Bộ Quốc phòng như Điều 21 của Luật Công an nhân dân (sửa đổi).

- Về thời hạn tại ngũ của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam: đề nghị khi sửa đổi Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam và Luật Công an nhân dân Việt Nam cần quy định tương xứng nhau về cấp bậc quân hàm và thời hạn, độ tuổi tại ngũ để tránh tình trạng thắc mắc, so sánh.

- Đề nghị nâng độ tuổi nghỉ hưu thêm 3 tuổi đối với các chức vụ trong quân đội;

- Về chính sách nhà ở cho lực lượng sĩ quan quân đội khi làm việc xa nhà: đề nghị nên bổ sung chế độ phụ cấp xa nhà và chế độ hỗ trợ tiền để giải quyết vấn đề nhà ở cho lực lượng quân đội khi làm việc xa nhà để yên tâm công tác ( thay cho chính sách hỗ trợ nhà ở vì chính sách này không khả thi khi áp dụng vào thực tiễn).

- Đề nghị cần quy hoạch và cấp đất ở, nhà ở theo Điều 31 của Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam. Vì hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu đối với cán bộ, chiến sĩ, sĩ quan để an tâm công tác, phục vụ trong quân đội.

*Đối với dự án Luật Công an nhân dân(sửa đổi)

- Về vị trí của Công an nhân dân (Điều 4)

Đề nghị cân nhắc lại nội dung quy định tại Điều 4 – Vị trí của Công an nhân dân khi cho rằng “Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Vì nếu quy định như trên thì lực lượng quân đội sẽ chiếm vai trò như thế nào trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đề nghị nêu rõ và phân định cụ thể vị trí, chức năng và nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân và lực lượng quân đội trong 2 dự án Luật để tránh tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn.

- Về quy định tiền lương, phụ cấp, nhà ở và điều kiện làm việc đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân (Điều 34)

Đề nghị cân nhắc quy định về bảo lưu chế độ tiền lương trong trường hợp “sĩ quan khi được giao chức vụ thấp hơn chức vụ đang đảm nhiệm do yêu cầu công tác hoặc thay đổi tổ chức biên chế hoặc do năng lực, sức khỏe thì được giữ nguyên quyền lợi của chức vụ cũ” được quy định tại khoản 4 Điều 34 dự thảo Luật Công an nhân dân (sửa đổi). Vì quy định này mâu thuẫn với quy định về bảo lưu chế độ tiền lương của người lao động theo Bộ Luật lao động và Luật Sĩ quan QĐNDVN.

Đề nghị Quốc hội cân nhắc về tính khả thi quy định “sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được ở nhà công vụ, doanh trại, được bảo đảm nhà ở hoặc đất ở và các chế độ, chính sách khác của Nhà nước đối với Công an nhân dân” được quy định tại khoản 7, Điều 34. Vì vấn đề hỗ trợ và bảo đảm nhà ở cho lực lượng sĩ quân đội đã được quy định trong Luật Sĩ quan QĐNDVN nhưng khó thực hiện và đảm bảo tính khả thi khi thực hiện.

- Về cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan Công an nhân dân (Điều 23)

Đề nghị cân nhắc quy định về trần cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan được quy định tại điểm c và d của khoản 1 Điều 34 dự thảo Luật Công an nhân dân (sửa đổi). Vì việc quy định trần cấp hàm Trung tướng đối với Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh và trần cấp hàm thiếu tướng đối với Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Nghệ An, Thanh Hóa, Đồng Nai vì không phù hợp và chưa tương xứng với các tỉnh thành khác. Vì nều chỉ quy định trần cấp hàm Trung tướng và Thiếu tướng cho Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố này sẽ xuất hiện tình trạng cấp hàm thấp hơn bên lực lượng quân đội sẽ chỉ huy cấp hàm cao hơn bên lực lượng Công an khi có chiến tranh (trong hoàn cảnh đất nước chuyển từ thời bình sang thời chiến)

Đề nghị cân nhắc quy định cấp phó của sĩ quan CAND cũng sẽ có cấp hàm bằng với cấp trưởng về cấp hàm Đại tá được quy định tại Điều đ, khoản 1, Điều 23 dự thảo Luật. Vì nếu cấp phó cũng có cấp hàm bằng cấp trưởng sẽ dẫn đến tình trạng khó lãnh đạo, chỉ huy tuyệt đối trong quá trình điều hành chỉ đạo. Đề nghị nên quy định trần cấp hàm của cấp phó phải thấp hơn 1 bậc so với cấp trưởng, giống như Luật Sĩ quan QĐNDVN.

- Cử tri đề nghị nghiên cứu sửa đổi Luật Công an nhân dân theo hướng hạn chế phong hàm cấp tướng vì đội ngũ cấp tướng của ngành hiện nay là quá nhiều.

- Nhiều cử tri kiến nghị Quốc hội nên có những qui định nhằm tiến tới giảm dần số lượng sĩ quan mang cấp hàm từ đại tá trở lên trong lực lượng Công an nhân dân.

Trả lời: Tại công văn số 1731/UBQPAN13 ngày 27/8/2014

Theo Nghị quyết Số 45/2013/QH13 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013 và Chương trình xây dựng pháp lệnh năm 2014 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 18/6/2013 và Nghị quyết số 695/2013/UBTVQH13 ngày 29/11/2013 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013 và năm 2014, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SQQĐNDVN và Dự án Luật CAND (sửa đổi) do UBQPAN chủ trì thẩm tra, đã được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014) và thông qua tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014). Trong quá trình nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7, Ủy ban QPAN sẽ phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tham mưu cho Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, tiếp thu tối đa ý kiến, kiến nghị xác đáng của cử tri đối với 2 dự án Luật này.



ỦY BAN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
1. Cử tri các tỉnh An Giang, Tiền Giang, Trà Vinh và TP Cần Thơ kiến nghị: Góp ý về một số nội dung sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).

Trả lời: Tại công văn số 1355/UBKHCNMT13 ngày 08/10/2014

Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy đây là những ý kiến đóng góp hữu ích và Thường trực Ủy ban đã phối hợp với Ban soạn thảo dự án luật nghiên cứu, tham khảo trong quá trình thẩm tra dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi). Dự thảo Luật này đã được Quốc hội thông qua với tỷ lệ phiếu tán thành cao (86,14%) tại Kỳ họp thứ 7 (ngày 23/6/2014). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo các cơ quan hữu quan khẩn trương xây dựng các nghị định hướng dẫn thi hành luật để sớm đưa luật vào cuộc sống.



2. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội khi sửa đổi Luật Giao thông đường thủy nội địa cần quan tâm ban hành thêm các quy định để xử lý nghiêm hành vi xây đựng các công trình, nhà ở lấn chiếm dòng chảy, hành lang an toàn giao, nhằm chấn chỉnh tình trạng vi phạm như hiện nay, cũng như đảm bảo cho hoạt động giao thông đường thủy được an toàn hơn trong thời gian tới.

Trả lời: Tại công văn số 1356/UBKHCNMT13 ngày 08/10/2014

Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy đây là ý kiến đóng góp hữu ích và Thường trực Ủy ban đã phối hợp với Ban soạn thảo dự án luật nghiên cứu, tham khảo trong quá trình thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thủy nội địa. Luật này đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7 (ngày 17/6/2014) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.



3. Cử tri tỉnh Tây Ninh và TP Hà Nội kiến nghị: Góp ý về một số nội dung trong dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi.)

Trả lời: Tại công văn số 1357/UBKHCNMT13 ngày 08/10/2014

Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy đây là những ý kiến đóng góp hữu ích và Thường trực Ủy ban đã phối hợp với Ban soạn thảo dự án luật nghiên cứu, tham khảo trong quá trình thẩm tra dự án Luật Xây dựng (sửa đổi). Dự thảo luật sau khi được hoàn thiện gồm có 10 Chương, 168 Điều và đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7 (ngày 18/6/2014).



4. Cử tri các tỉnh Long An, Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Quốc hội giám sát chặt chẽ việc triển khai các dự án thủy điện ở các địa phương, tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát về tình hình thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện.

Trả lời: Tại công văn số 1358/UBKHCNMT13 ngày 08/10/2014

Để triển khai việc giám sát tình hình thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện, Ủy ban KH,CN&MT đã yêu cầu các bộ ngành liên quan báo cáo bằng văn bản về nội dung nói trên và Ủy ban sẽ tiến hành giám sát, xây dựng báo cáo của Ủy ban trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014).



BAN CÔNG TÁC ĐẠI BIỂU
1. Cử tri các tỉnh Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Phú Yên, Tây Ninh và TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Nên xem xét tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách để nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.

Trả lời: Tại công văn số 385/BCTĐB-CTĐB ngày 19/8/2014

Kiến nghị này của cử tri là xác đáng, đây cũng là tinh thần của Kết luận số 64 – KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở, trong đó có ghi: “… Từng bước tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách trên cơ sở bảo đảm tính đại diện, tính chuyên nghiệp, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng đại biểu; tăng đại biểu chuyên trách làm việc ở Hội đồng dân tộc và các Ủy ban là các chuyên gia, am hiểu sâu các lĩnh vực chuyên môn…”.

Các nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, tỷ lệ ĐBQH chuyên trách ngày càng tăng lên: khóa XI: 25%, khóa XII: 29,41%, đầu khóa XIII: 30,08% và đến nay đã là 34%. Hiện nay, Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội cũng đang dự kiến quy định tỷ lệ ĐBQH chuyên trách không thấp hơn 35%.

2. Cử tri các tỉnh/thành phố Bến Tre, Hải Phòng, Hà Nam, Thái Nguyên, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ, Hưng Yên, Vĩnh Long, Thái Bình, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Đồng Tháp kiến nghị: Cần mở rộng thành phần lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (như đối tượng thuộc cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, các Trưởng ngành không phải là thành viên của Ủy ban nhân dân); nên quy định mức độ bỏ phiếu tín nhiệm gồm hai mức là tín nhiệm và không tín nhiệm.

Trả lời: Tại công văn số 382/BCTĐB-CTĐB ngày 19/8/2014

* Đối với đề nghị mở rộng thành phần lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm:

Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành phần như cử tri kiến nghị được thực hiện theo Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18/2/2013 của Bộ Chính trị về việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy, cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các quy định khác của pháp luật cán bộ, công chức.

 * Đối với đề nghị quy định mức độ bỏ phiếu tín nhiệm gồm hai mức là tín nhiệm và không tín nhiệm:

Đề nghị này đã được thể hiện trong Nghị quyết 35/2012/QH13, cụ thể như sau:

Tại khoản 7 Điều 12 của Nghị quyết số 35/2012/QH13 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu và phê chuẩn đã quy định: Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm bằng cách bỏ phiếu kín. Trên phiếu ghi rõ họ tên, chức vụ của người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm, các mức độ: "tín nhiệm", "không tín nhiệm”.

Tại khoản 5 Điều 13 của Nghị quyết số 35/2012/QH13 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu và phê chuẩn đã quy định: Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm bằng cách bỏ phiếu kín. Trên phiếu ghi rõ họ tên, chức vụ của người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm, các mức độ: "tín nhiệm”, "không tín nhiệm".



3. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cần nghiên cứu bổ sung thêm quy định: bắt buộc người được lấy phiếu tín nhiệm phải có bản kiểm kê tài sản tại thời điểm lấy phiếu tín nhiệm, để đối chiếu với tài sản đã kê khai trước khi được Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

Trả lời: Tại công văn số 387/BCTĐB-CTĐB ngày 19/8/2014

Vấn đề cử tri nêu lên, Ban Công tác đại biểu xin nghiêm túc tiếp thu trình xin ý kiến Ủy ban thường vụ Quốc hội, phục vụ cho các lần lấy phiếu tín nhiệm sắp tới.



4. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Xem xét, sửa đổi quy định căn cứ để tính tỷ lệ phiếu là tổng số đại biểu HĐND có mặt tại thời điểm lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm thay cho căn cứ tính tỷ lệ phiếu hiện nay là tổng số đại biểu HĐND (khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 561/2013/UBTVQH13) vì các đại biểu vắng mặt không thể hiện mức độ tín nhiệm của mình đối với người lấy phiếu tín nhiệm nhưng vẫn tính vào tỷ lệ phần trăm phiếu bầu là không hợp lý, đặc biệt ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ phần trăm số phiếu tín nhiệm thấp.

Trả lời: Tại công văn số 383/BCTĐB-CTĐB ngày 19/8/2014

Về đề nghị nêu trên, trong quá trình xây dựng Nghị quyết số 35/2012/QH13 và Nghị quyết số 561/2013/UBTVQH13, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã xem xét, thảo luận kỹ. Việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là do Hội đồng nhân dân tiến hành. Do đó, về nguyên tắc, căn cứ để tính tỷ lệ phiếu phải là tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân mà không chỉ là số đại biểu Hội đồng nhân dân có mặt.



5. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 561/2013/UBTVQH13 quy định những trường hợp phiếu tín nhiệm không hợp lệ, tuy nhiên trong thực tế lại xảy ra trường hợp phiếu thu về không thể hiện tín nhiệm (bỏ phiếu trắng) chưa được Nghị quyết số 561/2013/UBTVQH13 quy định, hướng dẫn là hợp lệ hay không hợp lệ. Vì vậy, đề nghị bổ sung quy định trường hợp nêu trên.

Trả lời: Tại công văn số 383/BCTĐB-CTĐB ngày 19/8/2014

Ban Công tác đại biểu thấy rằng ý kiến này là xác đáng, Ban Công tác đại biểu xin tiếp thu và kiến nghị bổ sung vào dự thảo Nghị quyết 35 sửa đổi trình Quốc hội xem xét, quyết định.



6. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cần có biện pháp xử lý nghiêm túc đối với những cán bộ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu khi lấy phiếu tín nhiệm thấp.

Trả lời: Tại công văn số 386/BCTĐB-CTĐB ngày 19/8/2014

Tại Điều 7 Nghị quyết số 561/2013/UBTVQH13 ngày 16 tháng 01 năm 2013 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị quyết 35/2012/QH13 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, đã có quy định hướng dẫn về hệ quả đối với người được Quốc hội, Hội đồng nhân dân đánh giá “tín nhiệm thấp”.



BAN DÂN NGUYỆN
1. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: Đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo các cơ quan có liên quan ở Trung ương rà soát, trả lời các ý kiến kiến nghị của cử tri tỉnh Đắk Nông do Đoàn ĐBQH tỉnh chuyển đến từ các kỳ tiếp xúc cử tri lần trước.

Trả lời: Tại công văn số 418/BDN ngày 26/9/2014

Theo quy định tại Điều 29 Nghị quyết số 525/2012/NQLT/UBTVQH13-ĐCTUBTWMTTQVN Về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, thì Đoàn đại biểu Quốc hội chủ trì, phối hợp với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổng hợp, phân loại các kiến nghị của cử tri, báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội những kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương; Ban Dân nguyện có trách nhiệm tiếp nhận, phân loại để chuyển đến các bộ, ngành có thẩm quyền giải quyết để yêu cầu việc giải quyết và trả lời cử tri.

Tại các kỳ họp Quốc hội, sau khi nhận được kiến nghị của cử tri do Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến, Ban Dân nguyện đều đã tiến hành phân loại và chuyển đến cơ quan, tổ chức đơn vị có thẩm quyền giải quyết, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết, trả lời cử tri và giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc giải quyết.

Tuy nhiên, trên thực tế một số Đoàn đại biểu Quốc hội khi nhận được kiến nghị của cử tri đã trực tiếp chuyển đến bộ, ngành ở trung ương để yêu cầu giải quyết, trả lời cử tri thông qua Đoàn đại biểu Quốc hội. Vì vậy, Ban Dân nguyện không theo dõi được việc trả lời của các bộ, ngành về các kiến nghị này.

Để đảm bảo cho việc theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị của cử tri của các bộ, ngành và phối hợp thực hiện nhiệm vụ này được chặt chẽ, Ban Dân nguyện trân trọng đề nghị khi nhận được kiến nghị của cử tri, Đoàn đại biểu Quốc hội tập hợp, báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội (qua Ban Dân nguyện) để chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, giúp cho Ban Dân nguyện có điều kiện theo dõi, đôn đốc việc giải quyết, phục vụ các đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tốt hơn.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc rà soát, đôn đốc cơ quan có thẩm quyền giải quyết các kiến nghị của cử tri do Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông chuyển đến từ các kỳ họp trước, nhưng chưa nhận được văn bản trả lời, trân trọng đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Nông thống kê các kiến nghị nêu trên gửi lại Ban Dân nguyện để tiến hành rà soát, đôn đốc việc giải quyết.



2. Cử tri TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri phản ánh việc giải quyết kiến nghị của cử tri của các bộ, ngành ở Trung ương thường chậm và chưa đạt hiệu quả như mong muốn, nhiều vấn đề cử tri nêu chưa được giải quyết triệt để. Đề nghị tăng cường giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri liên quan đến thẩm quyền của bộ, ngành Trung ương.

Trả lời: Tại công văn số 416/BDN ngày 26/9/2014

Từ cuối nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII đến nay, hàng năm, Ủy ban thường vụ Quốc hội đều ban hành Nghị quyết về giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri và giao Ban Dân nguyện giúp tổ chức các hoạt động giám sát, báo cáo kết quả với Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, trên cơ sở kiến nghị của cử tri do Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến, Ban Dân nguyện đã tiến hành phân loại, chuyển đến các bộ, ngành để xem xét, giải quyết, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết. Khi nhận được văn bản trả lời kiến nghị của cử tri của bộ, ngành, Ban Dân nguyện đã tổ chức đánh giá việc giải quyết, qua đó đã góp phần nâng cao chất lượng giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri của từng bộ, ngành. Tuy nhiên, đúng như ý kiến đánh giá của cử tri, chất lượng giải quyết kiến nghị của cử tri hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, có văn bản trả lời chưa đi thẳng vào vấn đề cử tri kiến nghị.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, trong phạm vi trách nhiệm của mình trong việc giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, Ban Dân nguyện sẽ tập trung nhân lực, tăng cường các hoạt động xem xét, đánh giá việc giải quyết, trả lời cử tri của các bộ, ngành, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát trong lĩnh vực này; đồng thời, mong muốn các Đoàn đại biểu Quốc hội phối hợp tích cực hơn nữa với Ban Dân nguyện để công tác này ngày càng hiệu quả, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, mong mỏi của cử tri.



3. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị Quốc hội tiếp tục đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng công tác tiếp xúc cử tri, thường xuyên tiếp xúc ở cơ sở nhằm nắm bắt tâm tư nguyện vọng và những ý kiến, kiến nghị của cử tri.

Trả lời: Tại công văn số 417/BDN ngày 26/9/2014

Thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri, ngày 27/9/2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH- ĐCTUBTƯMTTQVN Về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, trong đó đã quy định: ngoài việc tiếp xúc cử tri định kỳ trước và sau kỳ họp Quốc hội, đại biểu Quốc hội còn có trách nhiệm chủ động tiếp xúc cử tri nơi cư trú, nơi làm việc, tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng, địa bàn mà đại biểu Quốc hội quan tâm, gặp gỡ, tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri…

Nghị quyết cũng đã quy định trách nhiệm của Đoàn đại biểu Quốc hội trong việc phân công các đại biểu Quốc hội trong Đoàn tiếp xúc cử tri tại các đơn vị bầu cử ở địa phương, bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực trong việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.

Như vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả tiếp xúc cử tri, tăng cường tiếp xúc cử tri tại cơ sở, các Đoàn đại biểu Quốc hội nghiên cứu tổ chức thực hiện Nghị quyết trên đây, bảo đảm các hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội đạt được hiệu quả cao, nắm bắt tâm tư nguyện vọng và những ý kiến, kiến nghị của cử tri như Nghị quyết đã quy định và mong mỏi của cử tri.

Tiếp thu kiến nghị của cử tri, trong thời gian tới, Ban Dân nguyện giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 525/2012/NQLT/UBTVQH13-ĐCTUBTWMTTQVN, trên cơ sở đó sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đổi mới, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri nói riêng của đại biểu Quốc hội. Đồng thời, trong các hội nghị về công tác dân nguyện được tổ chức hằng năm, Ban Dân nguyện sẽ dành thời gian nhiều hơn để các vị đại biểu Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội có điều kiện trao đổi kinh nghiệp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ này.

VĂN PHÒNG QUỐC HỘI
1. Cử tri các tỉnh/thành phố An Giang, Đồng Nai, Ninh Thuận, Lào Cai, Phú Thọ, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị Quốc hội xem xét dành nhiều thời gian hơn cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp và có chương trình giám sát định kỳ việc thực hiện lời hứa của các thành viên Chính phủ sau các phiên chất vấn của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; qua đó ỉàm rõ trách nhiệm của các Bộ trưởng, Trưởng ngành trong việc thực hiện lời hứa để thông báo cử tri biết trước khi tổ chức lấy phiếu tín nhiệm hàng năm.

Trả lời: Tại công văn số 1907/VPQH-GS ngày 06/9/2014

Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến nay, Quốc hội đã có nhiều cải tiến, đối mới quan trọng để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, trong đó có hoạt động chất vấn. Việc dành thời gian cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp, phiên họp luôn được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cân nhắc cho phù hợp khi chuấn bị về nội dung, chương trình kỳ họp, phiên họp. Tại các kỳ họp, thời gian dành cho hoạt động chất vấn là 2,5 ngày; kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã tăng từ 2,5 ngày lên 03 ngày dành cho hoạt động chất vấn và tiến hành xem xét Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn. Sau phiên họp chất vấn, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc chất vấn và trả lời chất vấn. Nghị quyết này là cơ sở cho việc giám sát thực hiện những lời hứa, nội dung trả lời của Bộ trưởng, Trưởng ngành tại phiên họp chất vấn. Trong đó, Quốc hội yêu cầu Chính phủ, các thành viên Chính phủ tiếp tục có kế hoạch thực hiện các nội dung đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp tiếp theo.

Trên cở sở cân đối với các nội dung khác trong chương trình kỳ họp và kinh nghiệm thực tế tổ chức hoạt động chất vấn tại các kỳ họp, Văn phòng Quốc hội cho rằng, giai đoạn hiện nay, tại mỗi kỳ họp, Quốc hội tiến hành chất vấn 05 thành viên Chính phủ với thời gian 0,5 ngày dành cho mỗi người là phù hợp. Bên cạnh đó, việc Quốc hội định kỳ đưa nội dung xem xét Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn vào chương trình kỳ họp là nội dung rất quan trọng trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Đây là bước đổi mới cần thiết trong hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, với mục đích để các nghị quyết của Quốc hội được triển khai đồng bộ, toàn diện và có kết quả trong cuộc sống. Do đó, Văn phòng Quốc hội đã tham mưu để Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội đưa vào chương trình giám sát năm 2015 nội dung “Xem xét việc thực hiện các nghị quyết của Quc hội, y ban thường vụ Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến năm 2015đồng thời, sẽ đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét việc tăng thêm thời gian để tiến hành hoạt động chất vấn với Thủ tướng Chính phủ và nhiều thành viên Chính phủ hơn các kỳ họp trước đây.

Trên tinh thần tiếp tục cải tiến, đổi mới, Văn phòng Quốc hội sẽ nghiên cứu, tham mưu, đề xuất những giải pháp, biện pháp cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động chất vấn, đáp ứng nguyện vọng của cử tri và nhân dân cả nước.



2. Cử tri các tỉnh/thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Phú Thọ, Hà Tĩnh, Lâm Đồng, Hà Nam, Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên, TP Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Sóc Trăng kiến nghị: Cử tri bày tỏ sự tin tưởng và đánh giá cao kết quả kỳ họp thứ 6 của Quốc hội XIII, đặc biệt việc thảo luận, thông qua Hiến pháp (sửa đổi), Luật đất đai (sửa đổi) đã thể hiện được tính dân chủ, nghiêm túc và trách nhiệm cao của các vị đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, hoạt động giám sát thực thi pháp luật của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội thời gian qua còn chưa thật hiệu quả. Đề nghị tăng cường giám sát việc thực hiện pháp luật, cải tiến nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tế cuộc sống của người dân, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đề nghị Quốc hội tăng cường giám sát tối cao các vấn đề bức xúc nổi lên trong cuộc sống, nhất là các lĩnh vực dễ xảy ra vi phạm như: quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước; quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước; quản lý thuế, tín dụng, ngân hàng, tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức; hoạt động tư pháp; chất lượng khám chữa bệnh và y đức của đội ngũ y, bác sĩ ngành y tế, hoạt động cấp phép và quản lý các cơ sở kinh doanh thuốc; giám sát công tác bảo vệ môi trường và thực hiện pháp luật về môi trường; về giao thông vận tải; về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, về hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, công tác quản lý nợ công, xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng; về oan sai trong công tác xét xử; trong đó làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân người đứng đầu cơ quan, tổ chức khi để xảy ra lãng phí, sai phạm… Đề nghị Quốc hội, đại biểu Quốc hội tích cực tham gia phòng chống, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các nghị quyết sau giám sát của Quốc hội, của các cơ quan của Quốc hội, lời hứa của người bị chất vấn để đảm bảo hiệu quả, ý nghĩa của việc giám sát.

Trả lời: Tại công văn số 1917/VPQH-GS ngày 08/9/2014

Thứ nhất, đối với yêu cầu giám sát việc thực thi pháp luật, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan

Trong những năm vừa qua, công tác giám sát, khảo sát tình hình triển khai thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan nhà nước khác là hoạt động thường xuyên, liên tục của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Thông qua hoạt động này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã phát hiện những quy định còn chưa phù hợp, những nội dung trái với văn bản gốc, hoặc chưa rõ ràng, chưa thống nhất để kịp thời điều chỉnh, đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, hoặc bãi bỏ văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật.




tải về 7.28 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   101




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương