Jacques Philippe Tìm Kiếm & Giữ Lấy Bình An


Thiện tâm, điều kiện không thể thiếu để có bình an



tải về 466.89 Kb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích466.89 Kb.
#38208
1   2   3   4   5   6

6. Thiện tâm, điều kiện không thể thiếu để có bình an

Bình an nội tâm chúng ta đang xét đến, dĩ nhiên, không phải ai ai cũng có được mà không xét đến thái độ của họ đối với Thiên Chúa.

Những ai chống lại Thiên Chúa, những người ít nhiều có ý rời xa Người hoặc trốn tránh lời mời gọi và đòi hỏi của Người, họ không thể sống trong bình an. Đối với những người đến gần Thiên Chúa, yêu mến và ước ao phụng sự Người thì chiến lược thông thường của ma quỷ là làm cho họ mất đi bình an nội tâm; đang khi ngược lại, chính Thiên Chúa lại đến trợ giúp họ, ban cho họ bình an. Nhưng nguyên tắc này thường lại đảo ngược với những ai mà tâm hồn họ xa rời Thiên Chúa, sống trong vô cảm và sự dữ. Ma quỷ tìm cách xoa dịu những con người đó để giữ lấy họ trong một cảm giác bình yên giả tạo, đang khi Thiên Chúa, Đấng khao khát cho họ được cứu độ và hoán cải lại khiến cho lương tâm họ ray rứt và bất an nhằm kêu gọi họ thống hối ăn năn.

Con người không thể nếm hưởng bình an sâu sắc và bền vững nếu sống xa Thiên Chúa, nếu tận lòng dạ sâu thẳm của họ không hoàn toàn qui hướng về Người. Thánh Augustinô đã thốt lên, “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. 

Như vậy, điều kiện cần để sở hữu bình an nội tâm là cái mà chúng ta có thể gọi là thiện tâm, cũng có thể gọi là sự thanh khiết của tâm hồn. Đó là thiên hướng bền bỉ kiên định của một người quyết tâm yêu mến Thiên Chúa hơn bất cứ điều gì, người chân thành khao khát yêu thích thánh ý Thiên Chúa hơn ý riêng mình trong mọi hoàn cảnh, người không muốn cố tình từ chối Người bất cứ điều chi. Dù rất có thể (thậm chí chắc chắn) trong cuộc sống hàng ngày, hành vi cư xử của họ không hoàn toàn phù hợp với ước ao và quyết tâm này; và sẽ không nghi ngờ, ở đó còn lắm bất toàn khi họ vẫn nỗ lực hoàn thiện những khao khát này. Rồi, họ sẽ đau khổ, nhưng họ sẽ cầu xin sự khoan hồng của Thiên Chúa về điều này và tìm cách điều chỉnh chính mình. Sau những kết cục thảm hại, họ sẽ cố sức quay lại với thiên hướng thường xuyên của mình là chỉ muốn nói “vâng” với Thiên Chúa trong tất cả mọi sự mà không trường hợp nào được gọi là ngoại lệ.

Như thế, đây là tất cả những gì chúng ta muốn nói đến cái được gọi là thiện tâm. Thiện tâm không phải là trọn lành, cũng không phải là nên thánh… bởi thiện tâm vẫn nhởn nhơ chung sống với do dự, bất toàn và thậm chí cả những tội lỗi. Nhưng thiện tâm là một hướng đi, vì đó chính là thiên hướng thường xuyên của tâm hồn (mà nền tảng của nó được tìm thấy trong ba nhân đức đối thần: tin, cậy, mến) vốn cho phép ân sủng của Thiên Chúa cõng lấy chúng ta, dần dần, tiến về sự trọn lành.

Thiện tâm này, quyết tâm thường xuyên này, để có thể luôn luôn nói được tiếng “vâng” với Thiên Chúa trong việc lớn cũng như việc nhỏ, là sine qua non (không thể không có) cho việc sở hữu bình an nội tâm. Bao lâu chúng ta không nung nấu quyết tâm này, bấy lâu một trạng thái bất an và u buồn nào đó sẽ không ngừng cư ngụ trong chúng ta - bất an vì không yêu mến Thiên Chúa nhiều như Người mời gọi chúng ta yêu Người, u buồn bởi vẫn không trao hết mọi sự cho Người. Ai trao gửi ý định lòng mình cho Chúa, thì cách nào đó, đã gửi trao hết mọi sự cho Người. Không thể thực sự sống trong bình an chừng nào tâm hồn chúng ta chưa tìm được sự thống nhất; và tâm hồn cũng không thể thống nhất cho đến khi mọi khát khao của chúng ta phụ thuộc vào khát khao yêu mến Thiên Chúa, làm vui lòng Người và thi hành ý muốn của Người. Điều này, dĩ nhiên, cũng bao hàm một quyết tâm thường xuyên dứt bỏ chính mình khỏi tất cả những gì nghịch lại Thiên Chúa. Vậy, thiện tâm cốt ở điều này, điều kiện cần của bình an nội tâm.

7. Thiện tâm: Điều kiện đủ để có bình an nội tâm

Nhưng ngược lại, chúng ta vẫn có thể khẳng định, một người dù vẫn còn nhiều lầm lỗi và sa ngã thì thiện tâm đó vẫn đủ để họ có thể giữ lấy bình an nội tâm. Bản dịch Thánh Kinh Latin Vulgata viết, “Pax hominibus bonae voluntatis”, bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Thật vậy, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta điều gì nếu không phải chính sự thiện tâm này? Là Cha nhân từ và xót thương, Thiên Chúa đòi hỏi con cái Người điều gì hơn là nhìn xem chúng khao khát yêu mến Người trên hết mọi sự, khổ đau khi không thể yêu mến Người đủ và sẵn sàng dứt bỏ chính mình khỏi những gì trái ý Người ngay cả khi biết mình bất lực. Không phải đây chính là lúc Thiên Chúa có nhiệm vụ can thiệp và hoàn thành những ước muốn mà con người bằng sức riêng của mình hoàn toàn không có khả năng để hoàn tất sao?

Để minh hoạ điều chúng ta vừa nói, tức là thiện tâm đủ để Thiên Chúa vui lòng, nhờ đó, con người có thể sống trong bình an; chúng ta hãy đọc lại một tình tiết trong cuộc đời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu qua lời tường thuật của Sr. Céline, chị ruột ngài.

“Một ngày kia, khi chị Têrêxa cho tôi thấy hết tất cả những sai sót của tôi, tôi cảm thấy buồn và hơi thất vọng. Là một người ước ao nên đạo đức, tôi nghĩ rằng, mình còn ở xa các nhân đức biết bao. Tôi muốn trở nên hiền lành, nhẫn nại, khiêm nhường và yêu mến. Nhưng than ôi! Tôi sẽ không bao giờ thành công! Tuy nhiên, tối hôm đó, trong khi cầu nguyện, tôi đọc gương thánh nữ Gertrude, khi biểu hiện cùng một khao khát như tôi, ngài được Thiên Chúa trả lời rằng, ‘Trong tất cả mọi sự và trên hết mọi điều, con phải có ý ngay lành, đó là thiện tâm; chỉ có ý hướng tốt lành này mới đem lại cho linh hồn con ánh sáng và phúc thưởng đặc biệt cho tất cả mọi nhân đức. Bất cứ người nào có thiện tâm và chân thành ước ao tìm kiếm vinh quang của Ta, biết ơn Ta, chia sẻ đau khổ cùng Ta, yêu mến và phụng sự Ta cũng như mọi tạo vật, người ấy chắc chắn sẽ nhận được sự đền bù xứng với lòng quảng đại của Ta; lòng ao ước của người ấy lúc này lúc khác, sẽ sinh ích cho họ nhiều hơn là những việc lành của những người khác’.

Chị Céline kể tiếp, “Tôi rất sung sướng khi đọc những lời tốt lành này, tất cả đều có lợi cho tôi. Tôi đã chia sẻ những lời này với cô em nhỏ dấu yêu Têrêxa của tôi, người thực hành các nhân đức tốt hơn tôi”, và Têrêxa đã nói thêm rằng:

“Chị đã bao giờ đọc những gì thuật lại đời sống của Cha Surin chưa? Đang khi ngài trừ tà thì đám quỷ nói với ngài rằng, “Bọn tao có thể vượt qua mọi khó khăn ngoại trừ cái “thiện tâm chết tiệt” này, cái mà bọn tao không bao giờ có thể đối phó được!”. Thế đấy, dù chị chưa nhơn đức đủ, nhưng “cái thiện tâm chết tiệt” chị có đó sẽ cứu chị khỏi mọi nguy biến, sẽ an ủi chị và dẫn chị tới thiên đàng! Chao ôi! Linh hồn nào mà chẳng muốn nhơn đức! Đó là điều mà hết thảy mọi người đều khao khát; thế nhưng, nào mấy ai chấp nhận mình sa ngã, yếu đuối? Nào mấy ai bằng lòng khi thấy mình quỵ gục, bị loại ra và chẳng ai muốn người khác thấy họ trong tình trạng tồi tệ đó! (A memoir of My Sister, St. Thérèse của chị Genevière of the Holy Face [New York: P.J. Kenedy, 1959]).

Như chúng ta thấy trong bản văn này, ý niệm trọn lành của Têrêxa [vị thánh lớn nhất của thời hiện đại, theo lời Giáo Hoàng Piô XI]: trọn lành không phải là một cái gì chúng ta tự ý mà có. Nhưng chúng ta sẽ quay lại điểm này sau, hãy tạm bằng lòng với chính mình lúc này để ghi nhớ những gì liên quan tới thiện tâm. Nào, hãy tiếp tục điều đã lưu ý trước đây, ấy là học biết cách để xem xét những lý do khác nhau thường khiến chúng ta đánh mất bình an nội tâm.



Phần II

PHẢN ỨNG THẾ NÀO

TRƯỚC NHỮNG GÌ

KHIẾN CHÚNG TA

ĐÁNH MẤT BÌNH AN

1. Những khó khăn trong cuộc sống và nỗi sợ phải hụt hẫng

Lý do thông thường nhất mà vì đó, chúng ta có thể đánh mất cảm giác bình an là một nỗi sợ hãi gây nên bởi những hoàn cảnh nào đó, những hoàn cảnh đụng đến chính bản thân chúng ta rồi từ đó, chúng ta cảm thấy bị de doạ, cảm thấy sợ đối diện với những khó khăn hiện tại hoặc tương lai, sợ thiếu một điều gì đó quan trọng, sợ không thành công dự án này dự án kia .v.v.. Những nỗi sợ này thì vô ngần và đụng chạm đến tất cả mọi khía cạnh trong đời sống thường ngày như sức khoẻ, gia đình, nghề nghiệp, đạo đức… cũng như trong đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Thực tế, ở mỗi trường hợp, nỗi sợ này liên quan đến một thiện ích của một tính chất vô cùng biến thái. Những thiện ích vật chất (tiền bạc, sức khoẻ, quyền lực); những thiện ích luân lý (những khả năng con người, niềm kính trọng, lòng yêu thương của một số người nào đó); hoặc những thiện ích mang tính thiêng liêng. Những thiện ích mà chúng ta ao ước hoặc coi như cần thiết, chúng ta sợ mất đi, sợ không đạt được hoặc thực tế, đang phải thiếu. Và rồi, trạng thái bồn chồn do thiếu thốn hoặc chính nỗi sợ thiếu thốn này lại trở nên nguyên nhân khiến chúng ta đánh mất bình an.

Vậy, khi phải đối mặt với một hoàn cảnh như thế, điều gì cho phép chúng ta luôn giữ mãi bình an? Sự khôn ngoan và các phương thế nhân loại, với sự thận trọng, những dự tính, những trù liệu và bảo hiểm đủ loại chắc chắn vẫn sẽ không đủ. Ai có thể bảo đảm mình sở hữu được một thiện ích nào đó, bất kể tính chất của nó là gì? Không phải bởi những tính toán hay ưu tư nào đó mà người ta sẽ tìm được cho mình một giải pháp. “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6, 27). Không bao giờ con người có thể bảo đảm có được bất cứ điều gì và mọi thứ đang nắm trong tay cũng có thể dễ dàng vuột mất một ngày nào đó; không một bảo đảm nào mà chúng ta có thể tin tưởng tuyệt đối. Và đây chắc chắn không phải là cách thức Đức Giêsu chỉ dạy chúng ta. Ngược lại, Ngài nói, “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mt 16, 25).

Người ta, thậm chí có thể nói cách chắc chắn nhất rằng, để đánh mất bình an, hãy tìm bảo đảm mạng sống riêng của mình chỉ với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật, những dự án và những quyết định cá nhân hoặc bằng cách cậy dựa vào một ai đó. Con người tự đặt mình vào một trạng thái lắng lo, dằn vặt và vì thế, họ tìm cách tự cứu lấy bản thân, mặc cho sự bất lực, sự giới hạn của mình; bên cạnh đó, họ không thể thấy trước biết bao điều cũng như những dối trá đến từ những gì mà họ dựa dẫm.

Giữa bao hiểm hoạ trong cuộc sống, để duy trì bình an, chúng ta chỉ có một giải pháp: Cậy trông vào chỉ một mình Thiên Chúa và tín thác hoàn toàn vào Người, vì “Cha Trên Trời biết anh em cần gì” (Mt 6, 32).

Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6, 25-32).

Rõ ràng, Đức Giêsu không muốn cấm cản chúng ta làm bất cứ điều gì cần thiết để kiếm cho mình cái ăn cái mặc, cũng như đáp ứng những nhu cầu khác, nhưng Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi những lắng lo vốn huỷ hoại chúng ta và khiến chúng ta đánh mất bình an.

Vậy mà không ít người vẫn sững sờ khi nghe những lời này và họ không thành tâm đón nhận chúng; thậm chí họ cảm thấy chướng tai gai mắt bởi cách thức nhìn nhận sự vật như thế. Thế nhưng, họ sẽ không phải đau khổ và giày vò vô ích nếu họ coi trọng những lời ấy, vốn là Lời của Thiên Chúa, Lời yêu thương, Lời ủi an và vỗ về phi thường.

Bi kịch lớn lao của chúng ta là ở chỗ này: Con người không có niềm tin vào Thiên Chúa. Từ chỗ đó, con người tìm mọi ngóc ngách khả dĩ hầu giải thoát chính mình bằng những năng lực riêng; và rồi, thấy mình bất hạnh quá đỗi từ ngày này sang ngày khác thay vì phó thác toàn thân trong vòng tay trìu mến và cứu độ của Cha trên trời. Việc thiếu lòng tin này thật phi lý biết bao! Không phi lý sao được khi đứa con lại ngờ vực Cha mình, một người Cha tuyệt vời và quyền năng nhất, Đấng hằng hữu, là Cha trên trời? Bất chấp chân lý này, chúng ta vẫn rất thường xuyên sống trong chính sự điên rồ đó. Hãy nghe lời khiển trách nhẹ nhàng của Chúa nói với chúng ta qua miệng thánh nữ Catarina Siêna:

“Tại sao con không tin vào Ta, Đấng tạo thành con, mà lại cậy dựa vào bản thân mình? Ta không trung thành và chung thuỷ với con sao? Được cứu chuộc và được hoàn lại ân sủng nhờ máu Con Một của Ta, con người có thể nói rằng, nó đã nghiệm biết lòng trung thành của Ta. Và dẫu thế, xem ra nó vẫn hoài nghi không biết Ta có đủ quyền uy để giúp nó, đủ mạnh mẽ để trợ lực và bảo vệ nó chống lại kẻ thù, đủ khôn ngoan để soi sáng đôi mắt trí năng của nó hoặc đủ bao dung để thương ban những gì cần thiết cho ơn cứu độ của nó hay không? Xem chừng như nó nghĩ, Ta không đủ giàu có để làm cho nó thịnh vượng, không đủ xinh đẹp để làm cho nó mỹ miều; hay là nó sợ không kiếm đủ bánh ăn trong nhà để nuôi dưỡng nó, hay không có đủ vải vóc cho nó che thân?” (The Dialogue of St. Catherine of Siena, Algar Thorold, tr., TAN Books & Publisher, 1991, Chương 140).

Chẳng hạn, biết bao người trẻ ngần ngại phó mình hoàn toàn cho Thiên Chúa chỉ vì họ không tin Người có khả năng ban cho họ hạnh phúc viên mãn. Rồi họ tự đi tìm hạnh phúc cho riêng mình và trong chặng đường đó, chỉ chuốc lấy muộn phiền và bất hạnh.

Đây đúng là đại thắng của Satan, Cha Sự Dối Trá và là Tên Cáo Tội: thành công trong việc gieo vào lòng con cái Thiên Chúa sự bất tín đối với Cha mình.

Tuy nhiên, chúng ta đi vào trần gian với dấu vết bất tín này. Đó là tội nguyên tổ. Để rồi toàn bộ đời sống thiêng liêng của chúng ta cốt tại quá trình tái giáo dục trường kỳ, nhằm lấy lại niềm tin đã mất nhờ ân huệ của Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta có khả năng thưa lên một lần nữa với Thiên Chúa, Abba, Cha ơi!

Nhưng quả thật, đối với chúng ta, cuộc “trở về với niềm tin” này sẽ rất khó khăn, phải trường kỳ và gây đau đớn. Ở đó, có hai trở ngại chính.

2. Khó khăn trong việc tin vào sự quan phòng

Trở ngại đầu tiên là bao lâu chưa cảm nghiệm được cách cụ thể lòng trung thành của Chúa Quan Phòng, Đấng ban cho chúng ta những gì thiết yếu, chúng ta vẫn gặp khó khăn trong việc tin vào lòng trung thành đó và quay lưng lại với nó. Chúng ta cứng đầu cứng cổ, chỉ Lời của Đức Giêsu thôi, không đủ, chúng ta còn muốn thấy ít nữa một điều gì đó dù nhỏ bé… mới tin! Kìa, không thấy sự quan phòng đang hoạt động chung quanh mình cách hiển nhiên, thử hỏi làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm được nó nơi chính mình?

Điều quan trọng là biết được điều này: chúng ta không thể cảm nghiệm được sự trợ giúp quan phòng từ Thiên Chúa nếu chẳng để cho Người một khoảng không cần thiết, trong đó, Người có thể biểu lộ chính mình. Ở đây, chúng ta thử làm một so sánh: bao lâu người nhảy dù không chịu nhảy ra khoảng không, người ấy không thể cảm nhận những sợi dây đang nhấc bổng mình lên… bởi cánh dù chưa có cơ hội bung ra. Người đó phải nhảy trước đã, rồi chỉ sau đó mới cảm nghiệm mình được nâng lên; cũng thế, trong đời sống thiêng liêng. Theo thánh Gioan Thánh Giá, “Thiên Chúa trao ban theo mức chúng ta trông chờ” và thánh Phanxicô Salêsiô, “Mức độ quan phòng của Thiên Chúa hoạt động nơi chúng ta cũng là mức độ niềm tin chúng ta đặt vào đó”. Vấn đề ở đây là nhiều người không tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa bởi họ chưa bao giờ cảm nghiệm được quan phòng là gì, và chưa bao giờ cảm nghiệm được quan phòng là gì vì họ không chịu nhảy vào khoảng không để thực hiện bước nhảy của niềm tin. Họ không bao giờ để sự quan phòng có được khả năng can thiệp. Họ cân nhắc mọi chuyện, tiên liệu mọi điều và cậy vào sức mình để tìm giải quyết mọi việc thay vì cậy trông vào Chúa. Ngày xưa, các đấng lập dòng đã hành động như thế với sự táo bạo trong niềm tin. Họ mua nhà cửa khi chưa có một đồng, họ đón lấy kẻ nghèo dẫu không chút bánh nuôi ăn. Để rồi Thiên Chúa làm phép lạ cho họ, các tấm ngân phiếu lần lượt gửi về và kho lẫm ứ đầy. Thế nhưng, một điều quá thông thường, vào các thế hệ sau họ, mọi chuyện được lên chương trình, hạch toán. Người ta sẽ không chi ra một đồng cho bất cứ một khoản nào mà không biết chắc mình sẽ có đủ để trang trải tất cả. Vậy thì làm sao việc quan phòng của Chúa có thể thể hiện? Cũng đúng như vậy trong đời sống thiêng liêng. Nếu một linh mục soạn thảo tất cả bài giảng và bài nói chuyện của mình tỉ mỉ đến từng chấm từng phẩy hầu chắc chắn không gì sai sót trước những người nghe, và lại không bao giờ cả gan bắt đầu bài giảng bằng những giờ cầu nguyện và tín thác vào Thiên Chúa như là việc chuẩn bị duy nhất, thử hỏi, làm sao linh mục đó có thể có được cảm nghiệm tuyệt vời về Chúa Thánh Thần là Đấng phán dạy qua môi miệng mình? Tin Mừng đã chẳng nói thế này sao? anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy không phải anh em nói mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10, 19).

Phải thật sáng suốt, rõ ràng ở đây, chúng ta không nói, tiên liệu trước mọi chuyện, hạch toán ngân sách hay chuẩn bị các bài giảng... là điều không tốt. Đừng quên, các khả năng tự nhiên của chúng ta cũng là những công cụ trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa! Tuy nhiên, mọi thứ còn phải tuỳ thuộc vào cái tinh thần, trong đó, chúng ta thực hiện. Cần hiểu rõ sự khác biệt lớn lao giữa hai thái độ tâm hồn. Một là thái độ của người sợ mình sai sót vì không tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa như những ai cậy dựa vào Người hằng tín thác, họ lập trình trước mọi sự đến từng chi tiết nhỏ nhất và không chịu đảm trách bất cứ việc gì nếu không lường trước cách chính xác rằng mình có thể thực hiện được; hai là thái độ của người nhất định đảm đương những việc chính đáng, nhưng họ lại từ bỏ chính mình với niềm tin tưởng Thiên Chúa sẽ ban cho họ tất cả những gì họ kêu xin; và thế là họ làm được cả những gì vượt trên khả năng của mình. Và như thế, những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi chúng ta lại luôn luôn vượt quá khả năng tự nhiên của con người!



3. Sợ đau khổ

Một trở ngại lớn lao khác trong việc phó mình cho sự Quan Phòng của Thiên Chúa là sự có mặt của đau khổ trong cuộc đời cũng như trong thế giới chung quanh chúng ta. Ngay cả đối với những ai phó thác cho Người, Thiên Chúa vẫn cho phép đau khổ xảy đến. Người để cho họ thiếu thốn một số điều kiện, ở một mức độ nào đó, đôi khi gây đau đớn. Hãy nghĩ đến cảnh nghèo khó mà gia đình thánh nữ Bernadette ở Lộ Đức đã lâm vào. Đây không phải là điều mâu thuẫn với những lời trong Tin Mừng sao? Không đâu, bởi chưng, Thiên Chúa có thể để chúng ta thiếu thốn một đôi điều (mà nhiều lúc, không thể thiếu, xét theo con mắt người đời) nhưng không bao giờ Người lấy khỏi chúng ta những gì thiết yếu nhất: sự hiện diện của Người, bình an của Người và tất cả những gì cần thiết cho việc hoàn tất trọn vẹn cuộc đời mỗi người theo kế hoạch Người dành cho chúng ta. Nếu Người cho phép đau khổ xảy ra là để chúng ta mạnh mẽ tin rằng, “Thiên Chúa không cho phép những đau khổ không cần thiết” như lời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói.

Trong phạm vi cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như trong lịch sử nhân loại, nếu muốn tiến tới những lằn mức cuối cùng của niềm tin vào Chúa Kitô, chúng ta phải xác tín rằng, Thiên Chúa đủ tốt lành và quyền uy để sử dụng bất cứ sự dữ cũng như đau khổ nào hầu ban ơn cho chúng ta, dẫu chúng có vẻ vô lý và không cần thiết. Điều này không thể chứng minh bằng toán học hay triết học, nhưng chỉ có thể là một hành vi đức tin. Việc công bố sự phục sinh của Đức Giêsu được hiểu và đón nhận như chiến thắng dứt khoát của Thiên Chúa trên sự dữ mời gọi chúng ta thực hiện chính hành vi đức tin này.

Sự dữ là một mầu nhiệm, một điều xấu xa và sẽ mãi mãi như vậy. Thật là cần thiết để mỗi người làm những gì có thể hầu loại trừ sự dữ cũng như xoa dịu khổ đau; tuy nhiên, sự dữ vẫn luôn có mặt trong cuộc sống mỗi người cũng như trong nhân loại. Vị trí của sự dữ trong nhiệm cục cứu độ cho thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vốn không phải là khôn ngoan của loài người, luôn chứa đựng một điều gì đó không thể hiểu được… vì “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 8-9).

Đến một lúc nào đó trong cuộc sống, người Kitô hữu nhất thiết được mời gọi tin vào cái nghịch thường của những cái bên ngoài để rồi vẫn “cậy trông mặc dầu không còn gì để trông cậy” (Rm 4, 18). Sẽ có những hoàn cảnh không thể tránh khỏi, ở đó, chúng ta không hiểu “tại sao” Thiên Chúa lại hành động như thế vì đó không còn là sự khôn ngoan loài người, một sự khôn ngoan gói gọn trong khả năng hiểu biết được lý giải bởi trí năng con người. Đúng hơn, đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, nhiệm mầu và khó hiểu, đang can thiệp vậy.

phúc thay, không phải bao giờ chúng ta cũng hiểu hết! Nếu không như thế thì làm sao sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa có thể tự do hoạt động theo những hoạch định của Người? Đâu là chỗ giành cho lòng tin? Quả vậy, biết bao điều chúng ta không hành động như Thiên Chúa hành động! Hẳn chúng ta đã không chọn lấy cái điên rồ của thập giá như một phương thế cứu rỗi! May thay, chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa đang điều khiển mọi sự chứ không phải khôn ngoan của chúng ta, vì sự khôn ngoan đó mạnh mẽ hơn, yêu mến hơn và nhất là giàu lòng thương xót hơn sự khôn ngoan của chúng ta vô cùng.

Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa không chỉ hoạt động trong chúng ta cách lạ lùng và khó hiểu, nhưng ngay cả trong những gì Người chuẩn bị cho những ai trông cậy vào Người cũng lạ lùng và khó hiểu như thế. Vì rằng, vinh quang và vẻ đẹp của những gì được Khôn Ngoan Thiên Chúa chuẩn bị thì trỗi vượt vô ngần những gì chúng ta có thể tưởng tượng hay nhận thức, “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí” (1 Cr 2, 9).

Khôn ngoan của con người chỉ có thể sản sinh những tác phẩm dưới thế. Duy chỉ Khôn Ngoan của Thiên Chúa mới có thể thực hiện những công trình thần linh, với tới những tầm cao thần linh vốn đang giành cho những ai yêu mến Người.

Bởi thế, mỗi khi đối mặt với vấn nạn sự dữ, đây là những gì phải trở nên sức mạnh của chúng ta: không là một câu trả lời mang tính triết học nhưng là niềm tin của một người con vào Thiên Chúa, vào Tình Yêu và vào sự Khôn Ngoan của Người. Chúng ta cần xác tín, “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8, 28) “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8, 18).

4. Để lớn lên trong niềm tin: Lời cầu nguyện của một em bé

Bằng cách nào để có thể lớn lên trong niềm tin hoàn toàn vào Thiên Chúa; bằng cách nào chúng ta có thể giữ lấy và nuôi dưỡng niềm tin đó trong chính mình? Chắc chắn không chỉ bằng những suy đoán thuần lý hay những suy tư thần học, chúng sẽ không bao giờ đứng vững trước những thử thách, nhưng chỉ bằng cách chiêm ngắm Đức Giêsu.

Để chiêm ngắm Đức Giêsu, Đấng trao ban mạng sống cho chúng ta, nuôi sống chúng ta với một “tình yêu tuyệt đỉnh cao cả” mà Ngài phải tỏ bày trên thập giá; đó chính là những gì thực sự khơi dậy niềm tin. Chẳng lẽ chứng từ chóp đỉnh yêu thương của người “đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13) mà chúng ta chiêm ngắm không mệt mỏi và bị cuốn hút trong cái nhìn ngây ngất về tình yêu và niềm tín thác đó, lại không củng cố ngày này qua ngày khác nơi tâm hồn chúng ta một niềm tin không hề chuyển lay sao? Điều gì khiến con người còn phải sợ hãi từ một Thiên Chúa, Đấng thể hiện tình yêu của Người cách hiển nhiên như thế? Lẽ nào Người lại không trọn vẹn, hiện hữu hoàn toàn và tuyệt đối cho chúng ta hầu thi ân cho chúng ta? Lẽ nào, vị Thiên Chúa, Đấng muốn làm bạn với con người lại không làm tất cả mọi sự cho chúng ta, vì “đến như Con Một, Người cũng chẳng tiếc” dẫu chúng ta là những tội nhân? Và “nếu Thiên chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8, 31). Nếu Thiên Chúa có mặt vì chúng ta, sự dữ nào còn có thể hãm hại chúng ta?

Như vậy, chúng ta thấy, chiêm ngắm là một cái gì tuyệt đối cần thiết cho việc lớn lên trong niềm tin. Và rõ ràng, rất nhiều người thất vọng chỉ vì họ không biết chiêm ngắm, họ không giành thời giờ để nuôi sống tâm hồn và đem tâm hồn về lại bình an bằng việc chiêm ngắm Đức Giêsu với lòng yêu mến. Để chống lại sợ hãi và nản lòng, phải nại đến việc cầu nguyện - đó là một kinh nghiệm cá nhân về việc gặp lại, nhận biết và yêu mến Thiên Chúa - nào, “hãy nếm thử và hãy nhìn xem, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao” (Tv 34). Những xác tín mà thói quen cầu nguyện khắc sâu vào tâm hồn chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn nhiều so với những xác tín bắt nguồn từ lý luận, ngay cả những suy tư thần học ở trình độ cao nhất.

Vì sự công kích của ma quỷ - những ý tưởng làm nản lòng, bất tín - thì không bao giờ ngưng nghỉ; cho nên, tương tự như thế, để chống lại chúng, chúng ta cũng phải cầu nguyện liên lỉ và không mệt mỏi. Biết bao lần tôi tôn thờ Thánh Thể trong tâm trạng lắng lo hoặc ngã lòng và không có bất cứ điều gì đặc biệt xảy ra; không nói một lời, không trào dâng một cảm xúc đặc biệt nào cả… nhưng tôi ra về với tâm hồn bình an. Hoàn cảnh bên ngoài vẫn mãi như thế, luôn luôn có những vấn đề phải giải quyết, nhưng một khi tâm hồn đã được đổi mới, cũng từ đó, tôi có thể đương đầu với mọi hoàn cảnh cách thanh thản. Chúa Thánh Thần đã thực thi công việc kín đáo của Ngài.

Không bao giờ con người coi trọng đủ sự cần thiết của việc cầu nguyện lặng lẽ, trầm tư - nguồn mạch đích thực của bình an nội tâm. Làm sao một người có thể phó mình cho Thiên Chúa, đặt hết niềm tin vào Người nếu người ấy chỉ biết Thiên Chúa xa xa hoặc nghe người khác nói? Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến” (G 42, 5). Tâm hồn không nhận ra niềm tin mãi cho đến khi nó nhận ra tình yêu; phải cảm nhận cho được sự trìu mến và dịu hiền của Trái Tim Đức Giêsu. Điều này không thể có được trừ khi chúng ta có thói quen cầu nguyện suy niệm và lặng yên dịu dàng trong Chúa, tức là chiêm ngắm.

Thế nên, mỗi người hãy học phó thác toàn thân cho Chúa, đặt hết niềm tin vào Người trong việc lớn cũng như việc nhỏ với tâm tình đơn sơ của trẻ thơ; và rồi, Thiên Chúa sẽ thể hiện sự trìu mến, sự quan phòng và lòng trung thành của Người theo một cách thức… đôi khi ngập tràn. Có những lúc nào đó, xem ra Thiên Chúa đối xử với chúng ta quá khắt khe thì Người cũng biết nâng niu chiều chuộng đến quá bất ngờ. Chỉ với một tình yêu dịu hiền và thuần khiết như tình yêu của Người mới có được khả năng đó. Vào cuối đời, thánh Gioan Thánh Giá trên đường về tu viện, nơi ngài sẽ trút hơi thở - bệnh tật, kiệt sức, không thể tiếp tục - những mong có lấy vài cọng măng tây như những cọng măng đã ăn hồi còn bé… thì cạnh một tảng đá, nơi ngài ngồi lấy sức, kỳ diệu thay, một bụi măng tây được gửi đến.

Giữa những thử thách, chúng ta vẫn có thể cảm nghiệm sự dịu dàng đầy yêu thương này. Chúng không dành riêng cho các thánh, nhưng cho tất cả những ai nghèo khó, những người tin rằng Thiên Chúa là Cha của họ. Chúng có thể trở nên một khích lệ mạnh mẽ, hiệu quả hơn bất cứ lý luận nào; nhờ đó, chúng ta có thể phó mình cho sự chăm sóc của Người.

Và tôi tin rằng, đây là câu trả lời đúng đắn cho mầu nhiệm sự dữ và khổ đau. Đó không phải là câu trả lời mang tính triết học, nhưng mang tính hiện sinh. Phó mình cho Thiên Chúa, tôi cảm nghiệm cách cụ thể rằng, “mọi sự đang vận hành thực sự” và Thiên Chúa đang đan kết chúng với nhau để sinh ích cho tôi, cả những sự dữ, cả những đau khổ và thậm chí cả những tội lỗi của tôi. Bao nhiêu lần tôi khiếp đảm khi chúng ập xuống; nhưng phân tích kỹ, cuối cùng, tôi cũng chịu đựng được và rốt cuộc chúng lại sinh ích sau những đớn đau ban đầu. Vậy là những gì tôi tưởng như rủi ro cho mình, hoá ra lại sinh ích cho tôi. Vì thế, tôi tự nhủ, những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi theo Lòng Thương Xót vô biên của Người, Người cũng làm cho những người khác như vậy; và theo một cách thức nhiệm mầu, kín đáo, Người cũng làm như thế cho toàn cõi nhân sinh.



tải về 466.89 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương