Isposal of industrial explosive materials


Điều 10. Vận chuyển VLNCN bằng ô tô, xe thồ, xe súc vật kéo



tải về 1.74 Mb.
trang3/18
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích1.74 Mb.
#11389
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   18

Điều 10. Vận chuyển VLNCN bằng ô tô, xe thồ, xe súc vật kéo

1. Qui định chung

a) Chỉ được phép vận chuyển VLNCN bằng phương tiện ô tô, xe thồ, xe súc vật kéo khi có người áp tải đi theo. Người áp tải có thể là thợ mìn, thủ kho VLNCN hoặc nhân viên bảo vệ. Cấm người điều khiển phương tiện kiêm áp tải.

b) Cấm vận chuyển VLNCN bằng:

- Ô tô chạy bằng gaz;

- Ô tô buýt công cộng, xe ray điện, ôtô chạy điện;

- Ô tô tự đổ ;

- Rơ moóc do ô tô kéo khi vận chuyển kíp, thuốc đen, thuốc nổ có chứa ni tro este lỏng.

Chú thích - Trong trường hợp ở những địa hình không có đường ôtô cho phép dùng máy kéo để kéo một rơmoóc chứa VLNCN nhóm 1.5D để trong các bao bì còn nguyên vẹn, thùng rơmoóc phải còn tốt. Có thể dùng máy kéo để kéo máy nạp mìn.

c) Trên đường đi (thường đi theo đoàn), cấm dừng xe có chở VLNCN khi chưa có lệnh của người trưởng đoàn. Trường hợp xe có sự cố, người áp tải phải có mặt tại chỗ xảy ra sự cố cho tới khi giải quyết xong sự cố

d) Khi xe đi thành đoàn (2 xe trở lên) phải có ít nhất hai người áp tải. Người trưởng đoàn (thường là người áp tải thứ nhất) phải luôn ở trong cabin xe đi đầu tiên. Người áp tải thứ hai ngồi trong cabin của xe cuối cùng

đ) Trên đường vận chuyển khi cần đỗ để nghỉ ngơi, chỉ được dừng ở ngoài vùng dân cư, cách xa đường giao thông công cộng ít nhất 100 m, cách nhà, công trình ít nhất 200 m. Khi dừng phải tắt động cơ, tháo súc vật kéo ra khỏi càng xe và có biện pháp chèn chống trôi, trượt xe. Khi không có điều kiện dừng xe xa đường, cho phép dừng ở lề đường nhưng phải xa vùng dân cư ít nhất 200 m.

Cấm các phương tiện đang vận chuyển VLNCN đỗ trong ga ra, dừng trong thành phố và trong vùng dân cư.

e) Khi đi trên đường, các xe vận chuyển VLNCN đều phải có tín hiệu riêng theo qui định pháp luật về vận chuyển hàng nguy hiểm.

g) Khi đi trên đường, nếu gặp đám cháy thì phương tiện vận chuyển VLNCN không được đi qua gần hơn 200 m kể từ đám cháy và 50 m kể từ ngọn đuốc. Trong trường hợp sửa chữa đường có sử dụng lửa (đun chảy nhựa đường), trước khi qua đoạn đường này phải đỗ xe ở chỗ có khoảng cách theo qui định tại khoản này, dập tắt lửa xong mới cho xe đi qua.

h) Trên các phương tiện vận tải (ô tô, xe súc vật kéo) cấm chuyên chở các hàng hoá khác cùng với VLNCN, chỉ được chở cùng với VLNCN các máy nổ mìn, dụng cụ phục vụ nổ mìn, nhưng chúng phải để trong hòm và buộc chắc để tránh va đập vào hòm chứa VLNCN.

i) Khi vận chuyển thuốc nổ nhóm 1.1D, 1.5D, dây cháy chậm, cho phép ô tô chạy với tốc độ theo qui định của luật giao thông đường bộ, xe súc vật kéo được cho con vật kéo chạy nước kiệu. Khi chở các loại VLNCN còn lại, nếu tầm nhìn tốt, tốc độ xe ô tô chở VLNCN không quá 40 km/h. Khi trời mưa hoặc có sương mù tốc độ của xe giảm đi một nửa; nếu vận chuyển VLNCN bằng xe súc vật kéo chỉ được cho con vật đi bước một.

k) Nếu đi thành đoàn xe, khoảng cách các xe chở VLNCN khi chạy trên đường được qui định như sau :

Khi đi trên đường bằng và lúc dừng:

- 10 m đối với xe súc vật kéo;

- 20 m đối với xe thồ;

- 50m đối với xe ô tô;

khi xuống hoặc lên dốc:

- 50 m đối với xe súc vật kéo;

- 100 m đối với xe thồ;

- 300 m đối với xe ô tô;

Cấm ô tô, xe thồ, xe súc vật kéo vận chuyển VLNCN dừng, đỗ trên đường dốc. Trường hợp sự cố ở trên các đoạn đường dốc phải chèn và tìm cách khắc phục ngay.

2. Vận chuyển VLNCN bằng ôtô

a) Chỉ được phép dùng ô tô chuyên dùng cho mục đích chở VLNCN, ô tô chở VLNCN phải thỏa mãn các yêu cầu sau:

- Thùng là bệ gỗ, nếu không là bệ gỗ phải lót gỗ dày ít nhất 13 mm hoặc lót tấm mềm toàn bộ sàn xe và thành trong của thùng xe;

- Tình trạng kỹ thuật của xe ôtô phải tốt, phải có khung mui và có cửa khoá chắc chắn;

- Không lắp dây dẫn điện và đèn chiếu sáng trong khoang chứa VLNCN;

- Có bình dập lửa, phương tiện chống lầy, chống trượt cho xe;

- Trước khi xếp VLNCN lên ô tô phải dọn sạch thùng và các hoá chất khác.

b) Cho phép chất đủ tải trọng ô tô đối với VLNCN nhóm D, S. Trường hợp vận chuyển kíp, thuốc nổ có nitrô este lỏng và thuốc đen thì chỉ được xếp không quá 2/3 tải trọng và không được xếp cao quá hai lớp hòm VLNCN. Các hòm, bao phải đặt nằm sát và chồng khít lên nhau nhưng không được cao vượt quá chiều cao của thành xe ô tô.

c) Trước khi xe tô chở VLNCN xuất hành, người phụ trách đoàn xe phải ghi vào lệnh đi đường: "ô tô đã được kiểm tra, đảm bảo hoạt động tốt có thể dùng để chở VLNCN”, ký xác nhận.

d) Không được chở người trên thùng xe ô tô đã xếp VLNCN.

đ) Chỉ được cho từng ô tô một vào chỗ xếp dỡ. Những ô tô khác đang chờ và những ô tô đã có VLNCN phải đỗ cách xa chỗ bốc dỡ ít nhất 100 m.

e) Cho phép dùng ô tô để vận chuyển VLNCN đến nơi nổ mìn trong khu vực thành phố hoặc điểm dân cư, xe ô tô phải có thùng kín. Lái xe tô phải có Giấy phép lái xe hạng B2 trở lên.

3. Vận chuyển chung kíp và thuốc nổ trên cùng xe ô tô

Cho phép vận chuyển chung thuốc nổ và kíp nổ trên cùng một xe ô tô với các điều kiện sau:

a) Xe ôtô, có đủ điều kiện vận chuyển VLNCN quy định tại khoản 2, Điều này

b) Chỉ vận chuyển chung các loại thuốc nổ và kíp nổ theo quy định tại Phụ lục K, Quy chuẩn này.

c) Khối lượng không quá 1500 kg thuốc nổ, 6000 kíp và 6000m dây .

d) Kíp nổ phải được chứa trong thùng chứa kíp chuyên dụng hoặc được ngăn cách với thuốc nổ bằng các biện pháp theo quy định tại Phụ lục K Quy chuẩn này

4. Vận chuyển VLNCN bằng xe thồ, xe súc vật kéo

a) Khi vận chuyển VLNCN nhóm 1.1A, 1.1D, 1.4B (thuốc nổ nhậy, kíp nổ) phải dùng loại xe có giảm xóc. Hòm VLNCN phải đặt trên sàn có lót đệm mềm.

b) Khối lượng VLNCN được vận chuyển trên một phương tiện không được vượt quá:

Xe thồ:

- 60 kg đối với nhóm 1.1, 1.2, 1.4;



- 80 kg đối với nhóm 1.5 và dây cháy chậm

Xe súc vật kéo:

- Đối với nhóm 1.1, 1.2, 1.4 (trừ kíp nổ) là hai lớp hòm theo chiều cao; giữa hai lớp với nhau, giữa hòm và sàn xe phải có lớp đệm mềm;

- Đối với nhóm 1.5, dây cháy chậm là 500 kg nếu có một con vật kéo và 800 kg nếu có hai con vật kéo;

Súc vật thồ:

- 1/2 sức thồ đối với VLNCN nhóm 1.1, 1.2, 1.4;

- 2/3 sức thồ đối với VLNCN nhóm 1.5, dây cháy chậm.

Khối lượng VLNCN nói trên đây bao gồm cả khối lượng của bao bì. Khi xếp các hòm lên xe không được xếp các hòm nhô ra ngoài xe.



Điều 11. Vận chuyển VLNCN bằng máy bay

Vận chuyển VLNCN bằng máy bay phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép theo qui định pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật liên quan về vận chuyển hàng nguy hiểm.



Điều 12. Vận chuyển VLNCN trong khu vực kho

1. Cho phép dùng ô tô để vận chuyển trong khu vực kho (đảo chuyển VLNCN) đến tận cửa các kho. Ô tô phải là loại có thùng bằng gỗ, có trang bị bình dập cháy, khi dừng hoặc đỗ xe phải tắt máy.

2. Trong kho VLNCN và trong các nhà kho bảo quản VLNCN được phép dùng xe động cơ chạy điện ắc qui, có trang thiết bị điện thuộc loại phòng nổ để cơ giới hoá việc bốc xếp thuốc nổ nhóm 1.1D, 1.5D.

Điều 13. Vận chuyển nội bộ VLNCN đến nơi sử dụng trên mặt đất

1. Trong ranh giới vận chuyển nội bộ, cho phép sử dụng xe cải tiến, gánh, mang vác VLNCN từ kho tiêu thụ đến nơi sử dụng. Việc vận chuyển nội bộ VLNCN không phải có giấy phép vận chuyển của cơ quan có thẩm quyền.

2. Khi đưa VLNCN phải để trong hòm, trong các túi kín, tránh rơi vãi. Chất nổ và phụ kiện nổ phải để trong các túi hoặc bao bì riêng. Kíp nổ đốt phải để trong hộp gỗ được chèn lót chặt.

Cho phép dùng các thùng cứng để chở thuốc nổ chứa nitrat amôn dạng bột.

3. Người thợ mìn vừa là người đưa vật liệu nổ đến nơi sử dụng, vừa là người trông coi từ khi lĩnh vật liệu nổ ra khỏi kho cho tới khi nạp vào lỗ mìn.

Chỉ thợ mìn mới được xách kíp nổ và các bao mìn mồi. Khi mang mìn mồi, khối lượng tổng cộng không được quá 10 kg. Các bao mìn mồi phải đặt trong hòm có nắp đậy, tay xách. Mặt trong hòm phải có lớp lót bằng vật liệu mềm. Các bao mìn mồi phải xếp đứng thành một hàng.

4. Khi dùng xe cải tiến để đưa VLNCN đến nơi sử dụng, cho phép chở khối lượng không lớn hơn 1/2 tải trọng xe. Xe phải có ván chắc ở hai đầu và vật liệu nổ phải chằng buộc chắc chắn. Khi đưa VLNCN bằng cách gánh, cho phép gánh đến 40 kg. Nếu đường trơn, qua dốc, suối, khối lượng gánh phải giảm 1/4. Dụng cụ gánh phải chắc chắn.

5. Khi mang xách đồng thời thuốc nổ và phương tiện nổ, một thợ mìn có thể mang tổng cộng không quá 12 kg. Thuốc nổ, phương tiện nổ không được để chung trong một hòm. Nếu chỉ mang thuốc nổ, một thợ mìn mang không quá 20 kg. Nếu thuốc nổ để ở nguyên bao kiện của nhà máy sản xuất, cho phép mỗi người mang không quá 40 kg nhưng chỉ với đoạn đường dài không quá 300 m và độ dốc nhỏ hơn 300.



Điều 14. Vận chuyển nội bộ VLNCN đến nơi sử dụng trong hầm lò

1. Cho phép đưa VLNCN đến nơi sử dụng trong hầm lò bằng các phương tiện chạy trên đường ray và thủ công. Cho phép dùng goòng, thùng, thùng cũi để đưa VLNCN xuống giếng mỏ, chỉ được phép kéo goòng, thùng cũi chở VLNCN. Cấm dùng Skíp (goòng tự lật) để đưa VLNCN .

2. Cấm vận chuyển VLNCN trong giếng mỏ vào thời gian công nhân lên xuống trong giếng đó. Khi bốc dỡ xếp chuyển VLNCN trong giếng mỏ, chỉ cho phép thợ mìn, người bốc dỡ, người phát tín hiệu điều khiển thùng trục, nhân viên kiểm tra việc bảo quản và chuyển VLNCN trong hầm lò có mặt ở sân ga giếng mỏ, trong nhà trên mặt giếng. Khi đưa VLNCN trong các toa xe từ giếng mỏ đến kho ít nhất phải có hai người.

Chỉ cho phép người thợ mìn mang xách VLNCN trên các thùng, cũi toa xe có VLNCN.

3. Chỉ sau khi người trực ca chỉ huy sản xuất của mỏ báo tin cho thợ điều khiển trục tải mỏ, người phụ trách tín hiệu ở đầu giếng biết về việc đưa VLNCN ở trong giếng, việc đưa VLNCN ở trong giếng mới được thực hiện.

Các hòm, túi đựng VLNCN không được xếp cao quá 2/3 chiều cao của thùng cũi và phải thấp hơn chiều cao của cửa thùng cũi. Các hòm thuốc nổ thuộc nhóm 1.1 chỉ được xếp thành một lớp ở trong thùng cũi.

Khi dùng toa xe goòng để đưa VLNCN xuống giếng, không được xếp các hòm VLNCN cao quá thành toa xe. Các kíp nổ phải đưa xuống giếng trong một chuyến riêng (không có thuốc nổ) và chỉ được xếp một lớp hòm trong toa xe hoặc trong thùng cũi.

4. Khi thợ mìn mang VLNCN ngồi trong các toa xe chở người đi xuống đường lò nghiêng thì mỗi ghế ngồi chỉ được bố trí một thợ mìn hoặc một công nhân mang xách VLNCN, không có các loại công nhân khác.

5. Cho phép một số thợ mìn có đeo túi đựng VLNCN được lên hoặc xuống trong thùng cũi với tính toán 1m2 sàn thùng cũi cho một người. Khi đó mỗi người không được mang quá khối lượng VLNCN đã qui định tại , khoản 5, Điều 13 của Quy chuẩn này. Khi đến giếng, những thợ mìn có mang VLNCN được quyền xuống giếng trước.

6. Tốc độ của cáp trục khi vận chuyển VLNCN trong giếng đứng, giếng nghiêng, lò bằng không được vượt quá 5 m/s. Công nhân điều khiển thiết bị trục phải đảm bảo cho thiết bị không bị xóc, giật đột ngột khi khởi hành, khi dừng và trong quá trình chạy .

7. Trong lúc đưa VLNCN, thợ mìn và người khuân vác phải mang theo đèn ắc qui phòng nổ hoạt động tốt.

8. Khi dùng tàu điện để kéo các toa goòng có chứa VLNCN phải thực hiện các điều kiện sau:

a) Cho phép xếp VLNCN lên toa xe ở trong các lò nối, và trong các đường lò của kho tiêu thụ hầm lò;

b) Cho phép dùng tàu điện ắc qui, tàu điện cần vẹt để kéo đoàn goòng chở VLNCN trong các lò bằng. Khi dùng tàu điện cần vẹt phải để phương tiện nổ trong các goòng có nắp gỗ đậy kín, goòng chở VLNCN phải cách tàu điện cần vẹt một khoảng cách không nhỏ hơn chiều dài cần tiếp điện;

c) Trong một đoàn tàu nếu chở cả thuốc nổ và phương tiện nổ thì phải xếp trong các toa khác nhau và cách nhau bằng các goòng rỗng, đảm bảo khoảng cách giữa các goòng chở thuốc nổ và goòng chở phương tiện nổ và khoảng cách giữa các toa này với đầu tàu không nhỏ hơn 3 m. Đoàn tàu chở VLNCN không được chở gì khác nữa;

d) Khi đưa chuyển VLNCN nhóm 1.1 và 1.4 bằng goòng, phía trong goòng phải lát gỗ hoặc dùng các goòng có thùng bằng gỗ. Các hòm VLNCN phải đặt trên đệm mềm và chỉ được xếp một lớp. Đối với VLNCN nhóm khác cho phép dùng các goòng thông thường và được xếp chồng các hòm cao bằng thành của goòng. Khi đưa chuyển các bao túi VLNCN thì chỉ được xếp một lớp trên sàn của goòng;

đ) Ở phía trước và phía sau đoàn tàu chở VLNCN phải có đèn tín hiệu riêng. Phải phổ biến cho tất cả mọi người làm việc trong hầm lò biết tín hiệu này;

e) Khi gặp đoàn tàu đang chở VLNCN, các đoàn tàu khác, người đi ngược chiều phải dừng lại để đoàn tàu chở VLNCN đi qua;

g) Nhất thiết phải có thợ mìn hoặc người cấp phát đi hộ tống đoàn tàu chở VLNCN. Ngoài thợ lái tàu, thợ mìn, nhân viên cấp phát và những người có liên quan khác không được có bất kỳ người nào khác trên đoàn tàu này. Những người được phép đi trên đoàn tàu phải ngồi trong một goòng chở người móc ở cuối đoàn tàu;

h) Trong lò nghiêng để đưa VLNCN từ mức này sang mức khác cho phép dùng goòng như sử dụng ở lò bằng:

i) Cấm để goòng có VLNCN tự trôi theo độ dốc.

9. Khi đưa VLNCN xuống gương giếng đang đào, trong gương không được có bất cứ ai ngoài người có liên quan tới việc nạp và nổ các phát mìn. Khi đào các hào và giếng loại nhỏ có sử dụng tời quay tay, việc đưa VLNCN lên xuống phải đảm bảo các yêu cầu:

a) Phải có hai người cùng quay tời;

b) Tốc độ của cáp kéo không quá 1 m/s;

c) Thiết bị tời phải có tín hiệu và cơ cấu hãm hoạt động tốt. Móc kéo phải có bộ phận bảo hiểm để tránh tuột;

d) Không được nâng hoặc hạ chất nổ và kíp nổ trong cùng một chuyến.



MỤC 3

KIỂM TRA, THỬ, HỦY VẬT LIỆU NỔ CÔNG NGHIỆP

Điều 15. Kiểm tra và thử VLNCN

1. Khi nhập VLNCN vào kho dự trữ bảo quản, phải định kỳ tiến hành kiểm tra và thử nổ nhằm xác định chất lượng của VLNCN. Ở các kho tiêu thụ chỉ cần định kỳ xem xét bên ngoài và kiểm tra điện trở của kíp điện.

VLNCN nhập trực tiếp từ nhà máy sản xuất mà có đủ chứng chỉ chất lượng, bao bì còn nguyên và đang trong thời hạn bảo hành thì không cần phải thử.

Việc thử VLNCN phải do thợ mìn, nhân viên thí nghiệm thực hiện dưới sự chỉ huy của trưởng kho. Việc kiểm tra và thử phải theo đúng qui định ở phụ lục L của Quy chuẩn này.

2. VLNCN đã quá thời hạn bảo hành mà chưa được kiểm tra, thử nổ đánh giá lại chất lượng thì không được đưa sử dụng. VLNCN nhập về kho tiêu thụ trong tình trạng bao bì không tốt thì phải xem xét bên ngoài và thử sự truyền nổ của chất nổ.

3. Việc thử định kỳ VLNCN tiến hành theo thời hạn sau.

a) Thuốc nổ có chứa nitro este lỏng và chất nổ an toàn: vào cuối thời hạn bảo hành và 3 tháng 1 lần sau thời gian bảo hành;

b) Các loại thuốc nổ khác: vào cuối thời hạn bảo hành và 6 tháng một lần sau thời hạn bảo hành;

c) Các phương tiện nổ: vào cuối thời hạn bảo hành;

d) Tất cả các loại VLNCN không phụ thuộc vào thời hạn bảo hành, nếu khi xem xét bên ngoài thấy có nghi ngờ về chất lượng (khô cứng, chảy nước, rách bao gói) hoặc khi nổ mìn cho kết quả không đặt yêu cầu (mìn câm, nổ không hoàn toàn) thì phải thử.



Điều 16. Hủy vật liệu nổ công nghiệp

1. Qui định chung

a) VLNCN sau khi kiểm tra và thử nếu xác định đã mất phẩm chất mà không có khả năng hoặc điều kiện tái chế thì phải tiến hành hủy. Đơn vị tổ chức huỷ phải có giấy phép sản xuất, sử dụng VLNCN theo quy định

Người chỉ đạo và người tham gia trực tiếp việc hủy VLNCN phải được huấn luyện về phương pháp hủy và biện pháp an toàn, bảo vệ môi trường khi hủy. Việc huỷ VLNCN phải theo hướng dẫn của nhà sản xuất (nếu có). Trường hợp không rõ về loại VLNCN cần huỷ hoặc không nắm được phương pháp huỷ, đơn vị tổ chức huỷ VLNCN phải liên hệ với nhà cung ứng VLNCN để được hướng dẫn hoặc hỗ trợ dịch vụ huỷ VLNCN.

b) Việc hủy VLNCN phải theo lệnh viết của phó giám đốc kỹ thuật đơn vị hoặc người có thẩm quyền tương đương và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của phó giám đốc kỹ thuật đơn vị hoặc của người được uỷ nhiệm bằng lệnh viết, với sự có mặt của thủ kho, trưởng phòng bảo vệ, trưởng phòng an toàn của đơn vị. Phải lập biên bản cho mỗi lần hủy, trong biên bản ghi rõ:

- Tên và số lượng VLNCN phải hủy;

- Nguyên nhân phải hủy;

- Phương pháp hủy;

- Biện pháp an toàn;

- Địa điểm, thời gian tiến hành hủy;

- Kết quả huỷ, kiến nghị nếu có;

- Họ tên chức vụ của những người tiến hành cuộc hủy.

Biên bản được lập thành hai bản để giao cho kho VLNCN và phòng theo dõi tài sản của đơn vị lưu giữ (thường là phòng kế toán tài vụ).

c) Trường hợp địa điểm huỷ nằm trong ranh giới mỏ, công trường thuộc quyền quản lý hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân huỷ VLNCN, trước khi hủy phải thông báo cho cơ quan quản lý VLNCN, PCCC địa phương.

Nếu huỷ bằng phương pháp đốt hoặc nổ tại địa điểm khác không thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của tổ chức, cá nhân huỷ VLNCN. Tổ chức, cá nhân huỷ VLNCN phải có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền như khi tiến hành nổ mìn.

d) Nếu chỉ hủy các mẩu dây cháy chậm, mẩu dây nổ, chất nổ rơi vãi thu gom vào cuối ca làm việc, có khối lượng không lớn hơn 0,5 kg thì chỉ cần có lệnh của quản đốc với sự có mặt của cán bộ an toàn của đơn vị, không cần phải lập biên bản, nhưng phải ghi chép vào sổ theo dõi.

đ) Được phép hủy VLNCN bằng cách làm nổ, đốt cháy, hòa tan hoặc pha loãng tuỳ theo tính chất của từng loại. Việc hủy VLNCN bằng hóa chất chỉ được thực hiện tại nơi sản xuất VLNCN.

e) Địa điểm hủy VLNCN bằng cách nổ hoặc đốt có thể thực hiện ở khai thường mỏ lộ thiên hoặc bãi trống nhưng phải ở xa công trình dân cư một khoảng cách theo quy định của khoản 8, Điều 4 Quy chuẩn này, xung quanh khu vực hủy phải dọn sạch vật liệu dễ cháy. Phạm vi cần dọn sạch do người chỉ huy hủy VLNCN quyết định

g) Khi hủy VLNCN bằng cách nổ hoặc đốt thì người khởi nổ (thợ mìn) hoặc đốt và những người giám sát phải ở trong hầm trú ẩn chắc chắn, bố trí ở chỗ cách chỗ hủy một khoảng cách an toàn xác định theo giới hạn vùng nguy hiểm tại Khoản 8, Điều 4 của Quy chuẩn này.

Khi không có nơi ẩn nấp an toàn thì người khởi nổ hoặc đốt phải ra ngoài giới hạn của vùng nguy hiểm.

h) Những bao bì, thùng hộp đựng VLNCN còn dùng được phải làm sạch thuốc nổ còn dính trước khi đem dùng. Bao bì có chứa nitro este lỏng thì ngoài việc làm sạch thuốc nổ còn phải kiểm tra kỹ xem thuốc nổ có thấm vào bao bì không. Nếu có dấu hiệu thấm thì bao bì đó phải được đốt hủy. Nếu không có thì được phép sử dụng sau khi đã rửa sạch mặt trong của thùng bằng nước kiềm.

i) Trừ các trường hợp khẩn cấp, cấm huỷ VLNCN bằng cách nhận chìm trong nước ở hồ, ao, sông ngòi hoặc biển. Việc chôn lấp VLNCN trong đất phải tuân theo quy định hiện hành về chôn lấp chất thải rắn.

2. Hủy VLNCN bằng cách làm nổ

a) Cho phép hủy bằng cách làm nổ các loại kíp, dây nổ, đạn khoan và các loại thuốc nổ khi chúng vẫn còn khả năng nổ được hoàn toàn. Khi đó phải áp dụng các biện pháp an toàn như khi nổ mìn.

b) Khối lượng VLNCN được phép hủy trong mỗi loạt nổ hủy và chỗ hủy được qui định trong từng trường hợp tuỳ theo điều kiện cụ thể và phải tuân theo qui định về khoảng cách an toàn tại Khoản 8, Điều 4 của Quy chuẩn này.

c) Khi hủy VLNCN bằng cách nổ thành nhiều lần thì VLNCN chờ hủy lần sau phải được để ở chỗ cách chổ hủy và cách nơi trú ẩn của người một khoảng cách an toàn theo Khoản 8, Điều 4 của Quy chuẩn này.

d) Việc khởi nổ để hủy VLNCN phải tiến hành bằng điện, chỉ trong trường hợp đặc biệt mới dùng dây cháy chậm. Chất nổ ở dạng bao thỏi được phép hủy nguyên bao gói. Khi nổ kíp, các kíp để nguyên trong hộp và được đặt ở đáy hố đào trong đất.

đ) Các bao mìn mồi (thuốc nổ và kíp điện) dùng để khởi nổ phải là loại có chất lượng tốt.

e) Khi khả năng truyền nổ của thuốc nổ cần hủy đã giảm, phải đặt thuốc nổ được hủy trong hố rồi lấp đất kín. Các bao mìn mồi phải đặt trực tiếp lên phía trên của thuốc nổ cần hủy.

3. Hủy VLNCN bằng cách đốt cháy

a) Chỉ được phép hủy VLNCN bằng cách đốt cháy khi chúng không còn khả năng chuyển từ phản ứng cháy sang nổ. Hủy kíp bằng phương pháp đốt chỉ được thực hiện trong các thiết bị chuyên dùng cho việc đốt hủy kíp. Cấm đốt VLNCN khi để nguyên hòm. Trước mỗi lần đốt hủy thuốc nổ phải xem xét cẩn thận để đảm bảo không có kíp ở trong các thỏi thuốc nổ đem đốt. Cấm đốt hủy cùng lúc các nhóm VLNCN không tương thích.

b) Khi hủy, thuốc nổ, dây cháy chậm hoặc dây nổ được đặt trực tiếp lên trên nguồn cháy (đống củi). Mỗi đống lửa không được đốt quá 10 kg VLNCN. Các thỏi chất nổ được xếp thành một lớp trên nguồn cháy sao cho thỏi nọ không tiếp xúc với thỏi kia.

c) Hủy thuốc nổ đen bằng cách đốt như sau: thuốc nổ được rải thành các dải rộng không quá 30 cm, chiều dày không quá 10 cm và khoảng cách giữa các dải không nhỏ hơn 5 m. Cho phép đốt đồng thời không nhiều hơn 3 dải. Các hòm, hộp, giấy không sử dụng lại được phải đem đốt hủy riêng.

d) Khối lượng VLNCN được phép đốt hủy đồng thời; nơi đốt và khoảng cách từ nơi đốt đến chỗ để VLNCN chờ đốt hủy và đến nơi trú ẩn phải theo qui định của Khoản 8, Điều 4 của Quy chuẩn này.

đ) Khối lượng chất làm nguồn cháy của mỗi đống phải đủ để trong thời gian đốt VLNCN không phải bổ sung thêm. Được phép dùng dây cháy chậm hoặc những vật liệu dễ cháy (phôi bào, giấy, củi khô chẻ nhỏ, ..) xếp rải thành đường dẫn lửa có chiều dài không nhỏ hơn 5 m đặt ở cuối chiều gió.

e) Chỉ được châm lửa đốt sau khi kết thúc toàn bộ công việc chuẩn bị và mọi người đã rút ra địa điểm an toàn. Sau khi dây cháy chậm hoặc đường dẫn lửa cháy thì thợ mìn phải lập tức dời đến nơi trú ẩn.

g) Sau khi đốt hủy phải đợi tắt hết lửa, khói, thợ mìn mới được trở lại chỗ đốt.

h) Sau mỗi lần đốt phải kiểm tra bằng cách dùng xẻng gỗ bới lớp tro tàn, để tìm và thu gom, không để sót VLNCN chưa cháy hết.

i) Chỉ được hủy bằng cách đốt VLNCN vào lúc thời tiết khô ráo.

4. Hủy VLNCN bằng cách hoà tan trong nước

Chỉ được phép hủy VLNCN bằng cách hoà tan trong nước đối với các loại chất nổ chứa nitrat amôn không chịu nước và thuốc nổ đen. Cho phép hoà tan thuốc nổ trong thùng hoặc bể nước. Những chất không hoà tan đọng lại, phải được thu gom và hủy bằng cách đốt. Trường hợp muốn sử dụng lại dung dịch hoà tan hoặc chất không hoà tan phải được phép của cơ quan quản lý trực tiếp và phải tuân theo các qui định hiện hành có liên quan.

MỤC 4

SỬ DỤNG VẬT LIỆU NỔ CÔNG NGHIỆP

Điều 17. Những qui định chung khi tiến hành công tác nổ mìn

1. Việc nổ mìn trong phạm vi ảnh hưởng đến khu vực dân cư, khu vực có các di tích lịch sử văn hóa, công trình an ninh quốc phòng, công trình quan trọng quốc gia chỉ được tiến hành theo thiết kế được lập cho từng đợt nổ.

Các bản thiết kế phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định pháp luật về quản lý VLNCN.

2. Việc nổ mìn các lỗ khoan lớn, nhỏ, nổ mìn ốp phải tiến hành theo hộ chiếu nổ mìn. Hộ chiếu phải được phó giám đốc kỹ thuật hoặc cấp tương đương của đơn vị duyệt.

3. Hộ chiếu khoan nổ mìn trong hầm lò được lập cho mỗi đường lò dựa trên cơ sở các số liệu thí nghiệm được coi là hộ chiếu mẫu và nổ chung cho các đợt nổ thường xuyên.

Khi có những thay đổi về điều kiện mỏ địa chất và các điều kiện khác trong gương nổ thì quản đốc (hoặc phó quản đốc trực ca - được quản đốc uỷ nhiệm) của công trường (phân xưởng) được phép và có trách nhiệm điều chỉnh lại hộ chiếu khoan nổ mìn đã được duyệt. Việc điều chỉnh phải thể hiện trong báo cáo đánh giá kết quả nổ mìn của hộ chiếu.

4. Cho phép sử dụng Hộ chiếu khoan nổ mìn mẫu của một đường lò cho các đường lò khác có kích thước, điều kiện mỏ địa chất tương tự như nhau. Tất cả cán bộ quản lý kỹ thuật của đơn vị cũng như công nhân làm công tác khoan nổ mìn đều phải nghiên cứu bản hộ chiếu này và ký nhận khi thực hiện.

5. Hộ chiếu khoan nổ mìn ngoài các thông số, chỉ tiêu về công nghệ còn phải bao gồm các nội dung sau:

a) Sơ đồ bố trí lỗ khoan, số lượng và chiều sâu lỗ khoan, lượng chất nổ nạp vào mỗi lỗ khoan, tên thuốc nổ và phương tiện nổ, số lượng các đợt nổ và trình tự khởi nổ, vật liệu nút bua lỗ mìn, chiều dài nút bua.

b) Bán kính vùng nguy hiểm của đợt nổ tính theo tầm văng xa của các mảnh vỡ nguy hiểm đối với người theo quy định tại khoản 8, Điều 4 Quy chuẩn này;

c) Vị trí ẩn nấp của người chỉ huy, người khởi nổ và thợ mìn trong thời gian nổ. Vị trí đảm bảo an toàn cho các thiết bị;

d) Thời gian cần thiết để thông gió gương lò (đối với hầm lò) ;

đ) Địa điểm đặt các trạm gác bảo vệ.

6. Cho phép nổ mìn không có hộ chiếu trong các trường hợp sau:

a) Nổ các phát mìn để hiệu chỉnh chu vi gương lò theo hộ chiếu đào chống lò. Nổ để hạ nền lò mở rộng tiết diện lò khi chống xén;

b) Nổ để giải quyết các tảng đá treo trên gương tầng;

c) Nổ để giải quyết sự cố trong quá trình khoan (nổ làm khô lỗ khoan, nổ chống trượt, cứu giắt ty choòng);

d) Nổ để thủ tiêu các phát mìn câm.

Trong các trường hợp trên phải có lệnh chi tiết bằng văn bản của quản đốc công trường (hay phó giám đốc trực ca), kèm theo các biện pháp an toàn phù hợp với các yêu cầu của Quy chuẩn này.

Cấm giao nhiệm vụ cho thợ mìn nổ ở những chỗ đang có những vi phạm tiêu chuẩn an toàn.

7. Trước khi bắt đầu công tác nổ mìn, phải qui định ngay giới hạn của vùng nguy hiểm. Ở trên mặt đất phải cắm cờ đỏ để phân định giới hạn này.

8. Phải đặt các trạm gác hoặc biển báo nguy hiểm “Đang nổ mìn - Cấm vào" ở giới hạn vùng nguy hiểm sao cho các ngả đường đi đến bãi mìn (bao gồm đường ô tô, đường mòn, đường lò) đều phải được quan sát thường xuyên của người gác mìn.

a) Ở trên lộ thiên thì phải đảm bảo trạm gác này có thể nhìn thấy hoặc liên lạc thông suốt được với trạm gác kề bên. Những người gác mìn được lựa chọn trong số nhân viên bảo vệ chuyên nghiệp, thợ mìn hoặc công nhân đã được huấn luyện những nội dung về công việc này. Người gác mìn phải ký nhận sau khi được giao nhiệm vụ.

b) Ở trong hầm lò, trước khi bắt đầu nạp mìn chỉ cần đặt biển báo đề phòng tại các trạm gác dự kiến, trước khi khởi nổ phải có người gác mìn tại trạm gác đỏ.

Các vị trí gác mìn, nằm trên các đường lò có khí sinh ra do nổ mìn thì có thể thay người gác bằng một biển báo có ghi dòng chữ: “Đang nổ mìn - Cấm vào". Sau khi kết thúc nổ mìn đường lò đã được thông gió , kiểm tra đảm bảo an toàn mới được cất biển báo đi.

9. Khi tiến hành nổ mìn, phải dùng tín hiệu để báo lệnh nổ mìn, dùng tín hiệu âm thanh, nếu nổ mìn vào ban ngày ở trên mặt đất, trong hầm lò. Nếu nổ mìn lúc tối trời ở trên mặt đất phải dùng các tín hiệu âm thanh và ánh sáng. Tín hiệu phải đủ lớn để đảm bảo tất cả các vị trí gác đều nghe, nhìn thấy rõ ràng. Cấm dùng các tín hiệu bằng mồm (gọi, hú).

a) Đối với hầm lò và công trình ngầm: Tín hiệu âm thanh do thợ mìn hoặc nhóm trưởng thợ mìn phát theo trình tự sau đây:

- Tín hiệu thứ nhất: Tín hiệu đề phòng, bằng một hồi còi dài. Theo tín hiệu này, tất cả mọi người không liên quan đến việc nạp, nổ mìn phải rút ra khỏi giới hạn vùng nguy hiểm hoặc đến chỗ an toàn dưới sự chỉ dẫn, giám sát của người chỉ huy đợt nổ.

Trong thời gian nạp mìn, chỉ cho phép những người có trách nhiệm kiểm tra mới được vào chỗ nạp mìn.

Sau khi nạp xong, đã đưa tất cả những người nạp mìn ra ngoài vùng nguy hiểm, người chỉ huy nổ mìn phải đo khí CH4, nếu nồng độ < 1% mới được lắp ráp mạng lưới nổ mìn và sau đó từ vị trí an toàn kiểm tra mạng nổ;

- Tín hiệu thứ hai: Tín hiệu khởi nổ, bằng hai hồi còi dài. Theo tín hiệu này, thợ mìn bắt đầu đốt dây cháy chậm của ngòi mìn rồi rút ra hầm trú ẩn hoặc ra nơi an toàn, còn khi nổ mìn bằng điện hoặc phương pháp khác thì đóng mạch điện hoặc phát hiệu để khởi nổ;

- Tín hiệu thứ ba: Tín hiệu báo yên, bằng ba hồi còi ngắn. Tín hiệu này được phát ra khi đã kiểm tra bãi nổ, báo công việc nổ đã kết thúc và đảm bảo an toàn.

Nếu kết quả nổ trong lò không đạt kết quả theo yêu cầu mà phải nổ lại ngay, cho phép hợp nhất tín hiệu thứ nhất và thứ hai bằng cách liên tục thổi còi. Sau khi nổ xong phải phát tín hiệu báo yên.

b) Đối với lộ thiên: Tín hiệu âm thanh do thợ mìn hoặc nhóm trưởng thợ mìn phát theo trình tự sau đây:

- Tín hiệu thứ nhất: Tín hiệu nạp mìn, bằng một hồi còi dài hoặc bằng một phát mìn tín hiệu, súng tín hiệu. Theo tín hiệu này, tất cả mọi người không liên quan đến việc nạp, nổ mìn phải rút ra khỏi giới hạn vùng nguy hiểm hoặc đến chỗ an toàn dưới sự chỉ dẫn, giám sát của người chỉ huy đợt nổ.

Trong thời gian nạp mìn, chỉ cho phép những người có trách nhiệm kiểm tra mới được vào chỗ nạp mìn.

Khi nổ mìn buồng, nổ mìn lỗ khoan lớn mà việc nạp phải thực hiện trong một thời gian dài thì cho phép chưa phải đưa tất cả mọi người không có liên quan với công tác nổ mìn ra khỏi giới hạn vùng nguy hiểm trước lúc bắt đầu lắp ráp mạng nổ với điều kiện là khoảng cách giữa người, thiết bị và phát mìn gần nhất không nhỏ hơn 50 m.

Sau khi nạp xong, đã đưa tất cả những người nạp mìn và thiết bị ra ngoài vùng nguy hiểm, thợ mìn mới được lắp ráp mạng lưới nổ mìn, sau đó từ vị trí an toàn kiểm tra mạng nổ và chỉ khi nhận được thông báo an toàn từ tất cả các vị trí cảnh giới (trạm gác) thì mới được đấu nối tín hiệu khởi nổ vào mạng nổ;

- Tín hiệu thứ hai: Tín hiệu khởi nổ, bằng hai tín hiệu âm thanh liên tiếp. Theo tín hiệu này, thợ mìn bắt đầu đốt dây cháy chậm của ngòi mìn rồi rút ra hầm trú ẩn hoặc ra nơi an toàn, còn khi nổ mìn bằng điện hoặc phương pháp khác thì đóng mạch điện hoặc phát hiệu để khởi nổ;

- Tín hiệu thứ ba: Tín hiệu báo yên, bằng ba tín hiệu âm thanh liên tiếp. Tín hiệu này được phát ra khi đã kiểm tra bãi nổ, báo công việc nổ đã kết thúc và đảm bảo an toàn.

Trường hợp bãi mìn có địa hình rộng, địa hình phức tạp, người chỉ huy nổ mìn có thể quy định bổ sung các tín hiệu phù hợp nhưng tối đa không vượt quá 5 loại tín hiệu.

Trường hợp nhiều đơn vị nổ mìn ở gần nhau thì phải thông báo cho nhau qui định và thời gian và hiệu lệnh nổ mìn.

Phương pháp và thời gian phát tín hiệu, ý nghĩa của các tín hiệu nổ mìn phải được thông báo cho chính quyền địa phương, mọi người của đơn vị và nhân dân ở trong vùng lân cận biết trước.

10. Chỉ sau khi được phép của người chỉ huy đợt nổ, mọi người mới được trở lại vị trí bãi nổ. Sau khi nổ mìn nếu phát hiện còn sót VLNCN không nổ thì phải thu nhặt lại và đem tiêu hủy theo quy định tại Điều 16 của Quy chuẩn này.

11. Số lượng phát mìn giao cho một thợ mìn phải thực hiện trong một ca làm việc, phải đảm bảo vừa đủ để thợ mìn đó có điều kiện thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn an toàn.

Số lượng phát mìn định mức này được xác định thông qua việc theo dõi bấm giờ và phải được phó giám đốc kỹ thuật của đơn vị hoặc cấp tương đương duyệt cho những điều kiện tương tự như nhau.

12. Số lượng mìn được chuẩn bị ở những khu vực khác nhau cần phải thực hiện sao cho có thể khởi nổ được trong một đợt nổ. Việc khởi nổ các phát mìn phải được tiến hành ngay sau khi đã chuẩn bị xong hoặc phải phù hợp với biểu đồ tổ chức công tác nổ mìn.

13. Trước khi nạp mìn vào các lỗ khoan phải lấy hết phôi khoan ra khỏi các lỗ khoan. Trong thời gian nạp thuốc nổ vào lỗ khoan, cho phép máy khoan làm nhiệm vụ thông lỗ trước khi đưa mìn mồi vào bãi mìn với điều kiện máy khoan và các lỗ khoan đang nạp phải cách xa nhau một khoảng lớn hơn hoặc bằng chiều dài cần khoan, nhưng trong mọi trường hợp không được nhỏ hơn 15 m.

Xe ô tô và các phương tiện vận chuyển, trộn thuốc nổ sử dụng loại động cơ đốt trong được phép vào bãi khoan để bốc, dỡ thuốc nổ trước lúc rải dây, lắp ráp mạng nổ với điều kiện ống xả của xe có bộ phận thu, dập tàn lửa.

14. Khi nạp mìn, cho phép dùng các gậy nạp bằng gỗ hoặc bằng các vật liệu khác không phát ra tia lửa khi có va chạm. Cấm đưa thêm các kíp nổ ở dạng rời từng chiếc hoặc nguyên cả hộp vào trong phát mìn.

15. Khi đưa thỏi mìn mồi vào phát mìn phải hướng đáy lõm của kíp về phần chiều dài cột thuốc.

Cho phép bố trí thỏi thuốc mồi có kíp ở đáy lỗ khoan (nạp đầu tiên) nhưng phải đảm bảo cho đáy lõm của kíp hướng về phía miệng lỗ khoan. .

16. Cấm dùng dây cháy chậm ngòi mìn, dây dẫn của kíp điện hoặc dùng sợi dây nổ của bao mìn mồi để thả mìn mồi xuống lỗ khoan (trừ trường hợp khi nạp các lỗ mìn con có độ sâu đến 2 m).

Cấm dùng dây cháy chậm của ngòi mìn để buộc vào mìn mồi hoặc để cho dây cháy chậm bị thắt nút hoặc gập lại trong khi nạp mìn.

17. Khi nổ mìn để phá than có sử dụng các phát mìn liên tục hoặc phát mìn phân đoạn nạp trong lỗ khoan có chiều dài trên 5 m và có dùng bua nước thì cho phép dùng một đoạn dây nổ làm phương tiện kích nổ bổ sung. khi đó đoạn dây nổ được đặt dọc theo phát mìn và có chiều dài đảm bảo để không lộ ra khỏi miệng lỗ khoan.

18. Khi nạp phân đoạn thì mỗi đoạn của phát mìn ít nhất phải có một tâm khởi nổ (một kíp, dây nổ hoặc một bao thuốc mồi). Khi đưa thuốc mồi vào phát mìn phải thận trọng tránh gây va chạm chèn ép

19. Cấm kéo hay làm căng dây cháy chậm, dây nổ hoặc dây dẫn của kíp điện, phi điện khi chúng đã được đưa vào lỗ khoan.

Không được cuộn thành vòng các đầu dây cháy chậm hoặc dây nổ từ lỗ mìn đi ra.

20. Việc nạp bua phải hết sức thận trọng, không được chọc nén ép, ném quăng vật nút bua lên bao thuốc mồi. Cấm dùng vật liệu ở dạng cục hoặc vật liệu dễ cháy để nút bua các lỗ mìn.

21. Nếu do yêu cầu kỹ thuật cần nổ mìn không nút bua thì chỉ được áp dụng ở lộ thiên và các hầm lò không nguy hiểm về khí hoặc bụi nổ, nhưng phải được phó giám đốc kỹ thuật của mỏ xét duyệt, bán kính vùng nguy hiểm tính theo Khoản 8, Điều 4 của Quy chuẩn này.

22. Khi có bão, sấm chớp, phải dừng hoàn toàn công tác nạp, nổ mìn ở trên mặt đất, nổ mìn đào các lò giếng từ mặt đất. Trong trường hợp nổ mìn điện mà mạng điện nổ mìn đã được lắp ráp xong trước lúc có sấm chóp thì phải cho khởi nổ ngay với điềư kiện là đã thực hiện đầy đủ các qui định an toàn cho việc khởi nổ, hoặc phải tháo các dây dẫn khu vực ra khỏi mạng dây chính, đấu chập mạch mạng nổ mìn điện và quấn cách điện các đầu dây, mọi người phải rút ra ngoài giới hạn vùng nguy hiểm.

23. Cấm tiến hành công tác nổ mìn ở nơi không đủ ánh sáng, trường hợp nổ mìn ban đêm thì nơi làm việc và vùng nguy hiểm phải được chiếu sáng.

Ở lộ thiên, khi trời có sương mù dày đặc, phải áp dụng các biện pháp bổ sung để đảm bảo an toàn (tăng cường thêm trạm gác bảo vệ, tăng cường thông tin liên lạc, thông báo trên loa truyền thanh).

24. Nổ mìn ở độ cao trên 2 m khi thi công bãi mìn phải sử dụng thang có tay vịn chắc chắn hoặc dùng dây an toàn. Khi nổ các phát mìn lỗ nhỏ và mìn ốp để phá đá quá cỡ trên mặt đống đá nổ mìn, việc nạp mìn, lắp ráp mạng lưới nổ mìn, đốt mìn (nếu nổ bằng dây cháy chậm) chỉ được phép tiến hành theo thứ tự từ trên xuống dưới theo bề mặt của đống đá nổ mìn.

25. Sau khi nổ mìn nếu có những tảng đá treo, hàm ếch nguy hiểm cho người và thiết bị thì phải tìm cách loại trừ ngay những nguy hiểm đó dưới sự chỉ đạo của cán bộ phụ trách sản xuất ở khu vực đó.

Nếu không có khả năng giải quyết nhanh thì phải đặt biển báo hiệu báo cho mọi người không vào phạm vi nguy hiểm.

26. Khi phát hiện (hoặc nghi ngờ) có mìn câm, nếu ở lộ thiên thì thợ mìn phải lập tức cắm biển báo có mìn câm ở bên cạnh phát mìn bị câm. Nếu ở trong hầm lò thì ngừng ngay công việc ở gương. Trong cả hai trường hợp trên phải báo cho người chỉ huy nổ mìn hoặc cán bộ phụ trách sản xuất trực ca biết.

Các công việc liên quan trực tiếp với việc thủ tiêu mìn câm phải tiến hành theo sự hướng dẫn của người chỉ huy nổ mìn, quản đốc hoặc phó quản đốc trục ca của công ty nơi có mìn câm, cấm làm bất cứ việc gì khác không có liên quan với việc thủ tiêu mìn câm. Khi việc thủ tiêu mìn câm không kết thúc trong ca, phải bàn giao cho ca sau tiếp tục xử lý theo đúng thủ tục giao nhận đã quy định. ghi từng phát mìn câm vào "Sổ đăng ký các phát mìn câm và thời gian xử lý theo phụ lục N.

27. Khi nổ mìn điện mà bị câm, nếu tìm được hai đầu dây điện trong phát mìn lộ ra ngoài thì phải lập tức đầu chập mạch hai đầu dây đó lại.

28. Trong mọi trường hợp, cấm khoan tiếp vào đáy các lỗ mìn của loạt nổ trước dù ở trong đó có hoặc không có thuốc nổ còn sót lại.

29. Để thủ tiêu các phát mìn ốp bị câm, cho phép dùng tay thận trọng bóc lớp đất phủ trên mỏ phát mìn, đặt vào phát mìn bị câm một ngòi hoặc một thòi thuốc mồi mới, làm lại đất phủ mặt rồi khởi nổ lại theo trình tự thông thường.

30. Cho phép thủ tiêu các phát mìn lỗ nhỏ bị câm bằng cách cho nổ các phát mìn trong lỗ khoan phụ được khoan song song và cách lỗ mìn bị câm nhỏ hơn 30 cm. Khi nổ mìn tạo túi các lỗ khoan nhỏ khoảng cách này không nhỏ hơn 50 cm.

Số lượng và vị trí các lỗ khoan phụ do cán bộ trực ca sản xuất hoặc người chỉ huy công tác nổ mìn xác định. Để xác định hướng của lỗ khoan phụ, cho phép moi lấy vật liệu nút lỗ mìn câm một đoạn dài không quá 20 cm kể từ miệng lỗ.

Trong các mỏ hầm lò nguy hiểm về khí hoặc bụi nổ, nếu thấy dây dẫn kíp điện của phát mìn câm lộ ra ngoài, mà phát mìn câm đó vẫn nằm trong lỗ khoan, đường cản nhỏ nhất của phát mìn không bị giảm thì cho phép thợ mìn đứng ở nơi an toàn dùng dụng cụ chuyên dùng để kiểm tra sự kín mạch của kíp điện trong phát mìn câm đó. Nếu thấy kín mạch thì được khởi nổ lại theo trình tự thông thường.

Ở các mỏ quặng không nguy hiểm về khí hoặc bụi nổ và ở mỏ lộ thiên có áp dụng nổ mìn không nút bua thì cho phép nổ các phát mìn bị câm bằng cách đưa vào lỗ khoan một bao mìn mồi bổ sung.

31. Khi sử dụng súng bắn nước để khai thác than, quặng, cho phép thủ tiêu phát mìn trong lỗ khoan nhỏ bị câm bằng luồng nước của súng bắn nước dưới sự giám sát của cán bộ an toàn và thợ mìn. Trong lúc thủ tiêu mìn câm không được có người ở trong gương, người điều khiển súng bắn nước phải ở vị trí an toàn. Trong quá trình phun nước phải theo dõi phát hiện và thu hồi kíp điện trong phát mìn câm trôi ra.

32. Sau khi nổ phát mìn để thủ tiêu mìn câm, thợ mìn phải kiểm tra kỹ đống đá nổ để thu gom tất cả vật liệu nổ của phát mìn câm bị tung ra. Chỉ sau đó mới cho phép công nhân trở lại làm việc nhưng vẫn phải thận trọng theo dõi phát hiện vật liệu nổ còn sót lại.


Каталог: file-remote-v2 -> DownloadServlet?filePath=vbpq -> 2009
2009 -> Mẫu số: 01 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 31 /2009/ttlt-btc –BLĐtbxh ngày 09 tháng 09 năm 2009) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Ủy ban nhân dân thành phố HỒ chí minh
2009 -> Phụ lục 2A: Chương trình khung trình độ Trung cấp nghề Tên nghề: Quản trị lữ hành
2009 -> Căn cứ Nghị định số 118/2008/NĐ-cp ngày 27/11/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính
2009 -> VĂn phòng chính phủ Số: 02
2009 -> 1871/vpcp-qhqt ngày ban hành: 25/03/2009 Trích yếu: Báo cáo vấn đề kinh doanh Công ty Metro Cash & Carry (Đức)
2009 -> Tiếp tục rà soát, kiến nghị với Trung ương sửa đổi, bổ sung, ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp và các luật có liên quan
2009 -> THỦ TƯỚng chính phủ Số: 2078
2009 -> QuyếT ĐỊnh phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020

tải về 1.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương