77
Thông báo khoa học 2017**
được ghi trên bia thời Lê sơ đều là dân làng và chức sắc địa phương. Văn bia chùa Hạ xã
Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Hà Nội khắc năm Hồng Thuận thứ 2 (1510) ghi rằng: “Chùa
Hạ được xây dựng từ triều trước, là đất tư phúc, đã bị đổ nát, tượng Phật hư hại. Các sãi vãi
cùng nhau khởi công quyên góp ngói gạch, tu sửa lại, lập bia đá. Cổng cửa thật sáng rộng,
đẹp đẽ. Đến năm Canh Ngọ, các sãi, vãi lại quyên tiền của gia tư, tu sửa dựng lại tăng phòng,
hành lang thật hoàn hảo. Lại dựng khánh tán đạo tràng để làm lễ lạc thành” - 夏 寺 自 前
朝 建 立 以 為 資 福 之 地 毀 于 頹 弊 佛 相 [] 容 同 列 社 士 娓 [][]心
乃 拾 瓦 竹 鳩 材 召 工 乃 廢 興 修 建 立 石 碑 山 門 壯。 至 庚 午 年 其
士 娓 等 閔 善 男 [] 慨 九 原 之 不 作 又 捐 家 貲 嗣 葺 僧 房 輪 奐 完 美
不 贊 前 功 又 崇 建 慶 讚 道 場 以 落 廠 成(
Ký hiệu số 24322).
Thời Lê sơ, triều đình tôn sùng Nho giáo, song không vì thế mà người dân và cả quan
lại, công thần của triều đình không tham gia cúng ruộng vào chùa để duy trì hoạt động Phật
giáo. Tại kinh đô Thăng Long, vợ chồng công thần nhà Lê là Á liệt hầu họ Lê đã cúng ruộng
vào chùa Đại Bi vào năm 1445.
Văn bia khắc trên bệ Phật ở chùa xã Quảng Nạp, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh
Hóa, năm 1443, cho biết: tín chủ Chu Hân Đạo cúng ruộng vào chùa làm của Tam Bảo.
Ngoài ra, còn có người trong phường lập ruộng hương hỏa cúng vào chùa.
Văn bia “Phật” khắc năm Hồng Đức thứ 18 (1487) xã Trạch Lôi, huyện Thạch Thất
ghi: Tín chủ cố Nguyễn Liêm viết Tây Phương ông và vợ Nguyễn Thị Tứ thụy viết Thiện
Tâm bà cung tiến tạc bia, cúng ruộng cho chùa làm của Tam Bảo.
Văn bia
Tam Bảo (1509) ghi chép chi tiết về cúng ruộng vào chùa Ngọc Châu khắc
trên vách đá núi Tặng Sơn, thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Tín chủ
cúng ruộng không chỉ là một người, hoặc một gia đình nào đó, mà gồm ít nhất từ 7 người
trở lên. Những tín chủ cúng đất chỉ ghi tên, không thấy có chức vị gì, có thể đây chủ yếu là
những người bình dân. Họ tập hợp thành một cộng đồng nhỏ cùng hướng tới việc thờ Phật
ở chùa này.
Những thiện tín thường có tên hiệu là Ông Ngộ đạo và Bà Ngộ thiện. Các tên hiệu này
gặp nhiều trên bia thời cuối Trần, Lê sơ và thời Mạc. Họ cúng dàng hoàn toàn vì ngộ đạo,
ngộ thiện mà làm, được dân làng nhận cúng giỗ về sau. Những vị công đức như vậy nếu ở
từ thời Mạc trở đi, thì thường được bầu làm Hậu Phật được cúng giỗ ở chùa, hoặc được gửi
giỗ ở chùa. Điều đó cũng cho thấy bia Ký kỵ (gửi giỗ) và bia Hậu Phật chưa xuất hiện từ thời
Lê sơ trở về trước. Hình thức cúng giỗ ở chùa đã có, song văn bia có tên “Ký kị bi” thường
gặp ở các giai đoạn sau thì chưa thấy ở thời Lê sơ.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: