Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ hai chịu nhiều áp lực lớn từ phía quân Nguyên. Đỗ Khắc Chung sang trại giặc Nguyên bàn việc nghị hòa vào đầu năm 1285 khi quân Trần rơi vào tình cảnh vô cùng khó khăn. Từ cuối năm 1284, quân Nguyên đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng khiến quân Trần bị thua và lui về đóng ở bến Vạn Kiếp. Vua Trần Nhân Tông phải ngự thuyền nhẹ rời kinh đô sang lộ Hải Đông. Dù đã tăng cường lực lượng quân đội, bố trí phòng thủ ở những nơi hiểm yếu nhưng trước thế giặc quá mạnh, quân Trần liên tiếp bị đẩy lui. Quân Nguyên đã khẳng định thế lấn át trong những cuộc giao tranh đầu tiên với quân Trần. Khi quân Nguyên dựng trại tại bến sông Hồng, Đỗ Khắc Chung đã chủ động xin vua Trần Nhân Tông sang trại giặc bàn nghị. Đối diện với tướng giặc Ô Mã Nhi, bản lĩnh và tài năng ứng đối của Đỗ Khắc Chung lại càng được thể hiện rõ. Đỗ Khắc Chung mang thư xin giảng hòa của vua Trần Nhân Tông nhưng không hề quỵ lụy hay nhún nhường trước quân Nguyên. Ngược lại, trước những uy hiếp của Ô Mã Nhi, Đỗ Khắc Chung vẫn cứng cỏi biện luận. Với tư cách là sứ thần của một nước nhỏ mang thư xin giảng hòa trong tình thế nguy cấp, Đỗ Khắc Chung đã hoàn thành nhiệm vụ quan trọng nhất của một sứ thần đó là không làm nhục mệnh vua. Sự trở về an toàn của Đỗ Khắc Chung đã có giá trị tinh thần rất lớn cổ vũ niềm tin của quân dân Đại Việt trước sức tấn công mạnh mẽ của quân Nguyên. Vậy nên sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên năm 1285, Đỗ Khắc Chung đã được ban quốc tính và gia thêm chức tước. Từ đây càng khẳng định vị trí của Đỗ Khắc Chung trong hàng ngũ quan đại thần dưới triều Trần.