Ðại Thừa Xuất bản 1998 thiềN, Ánh bình minh phưƠng tây nguyên Tác: Roshi Philip Kapleau Việt dịch : Huỳnh Công Hoàng


NGÀY THỨ NĂM - BÀI THUYẾT KHÍCH LỆ



tải về 1.46 Mb.
trang21/30
Chuyển đổi dữ liệu07.06.2018
Kích1.46 Mb.
#39516
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   30

2. NGÀY THỨ NĂM - BÀI THUYẾT KHÍCH LỆ


Hãy lắng nghe những lời khuyên sau đây của một thiền sư thủa xưa:" Công việc thiền không chỉ bao gồm thuộc lòng một công án. Ðiều chính yếu là biết khởi nghi tình.' Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Quí vị phải xuyên thẳng qua nó. Nếu cảm thấy dường như không thể làm được, hãy vận toàn lực, căng tất cả dây thần kinh và tiếp tục thử."

Cảm giác nghi ngờ này là gì? Nó là sự bối rối bừng cháy, một khối nghi ngờ, một câu hỏi cơ bản dai dẳng bám theo quí vị không cho quí vị một giây phút nghĩ ngơi. Chẳng hạn: Nếu mọi người vốn không tì vết, nhân chi sơ tánh bổn thiện, được phú cho đạo đức, từ bi, thì tại sao lại có qúa nhiều thù hận, ích kỹ, bạo tàn và đau khổ khắp mọi nơi? Có thể suy nghĩ về câu hỏi này bất cứ lúc nào khi bạn rãnh--lúc ở nhà, tại nơi làm việc. Nhưng tham công án thì lại khác. Ðó là lúc bạn ngồi trong tư thế kiết gìa, dùng thân-tâm một cách tập trung hơn để tham cứu một công án như "tánh KHÔNG là gì?" hay "Tôi là ai? Cùng là mối nghi ngờ nhưng theo cách này sự tập trung mãnh liệt hơn, sắc bén hơn.

Công án được phân cho qúi vị không thay thế cảm giác hoài nghi căn bản; nó chỉ mài bén nghi ngờ bằng cách nâng cao nhận thức. Cảm giác nghi ngờ căn bản như mũi khoan xuyên thẳng," Không là gì?"

Thoạt đầu KHÔNG có vẻ nhân tạo và là một cái gì ở bên ngoài, nhưng khi qúi vị dấn sâu hơn vào nó, KHÔNG trở nên một cái gì đó bức thiết trong chính cuộc sống của quí vị, vì KHÔNG chỉ là cái tên khác của Tâm--cái tâmthanh tịnh bao trùm cả thảy- quá quen thuộc với mọi người. Qúi vị có thể tự hỏi," Nếu tôi có sẵn tâm này, sao tôi không hề hay biết?" Xin trả lời," Là vì sự bất tịnh của qúi vị, những vọng tưởng về bản ngã và các tương duyên với thế giới bên ngoài che khuất ánh sáng của tâm này." Hãy khởi nghi tình, nghiền nát những ô nhiễm này. Qúi vị phải liên tục truy tìm cho đến khi nào tìm ra giải pháp. Chỉ có lúc đó, qúi vị mới có thể nhìn thấy chân tánh, thấy chính mình trong tâm này và được tái sinh vào một cuộc đời đích thực là đang sống.

Hãy tự nhắc nhở mình: KHÔNG là gối của tôi, KHÔNG chiếu của tôi, KHÔNG là thân của tôi. Và KHÔNG cũng là những gì không phải của tôi. KHÔNG dường như vừa là vật chất vừa là một phi vật chất. Về mặt lý luận, nó có vẻ mâu thuẫn, vì thế ở đây nghi tình lại phát sinh. Hay nếu thích, quí vị có thể trở lại công án trọn vẹn hơn và tự vấn," Tại sao Triệu Châu đáp ' VÔ!' ( KHÔNG) khi được hỏi,' Con chó có Phật tánh không?'" Vì kinh Phật dạy rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, lời đáp của Triệu châu thật là mâu thuẫn, và nghi tình phát khởi. Làm cách nào qúi vị đẩy lui nghi tình này? Chừng nào mà qúi vị đi đến một điểm mà nơi đó không có sự phân cách, một khe hở dù bằng sợi tóc, giữa qúi vị và KHÔNG, "câu trả lời" có sẵn nơi đấy, vì câu hỏi và câu trả lời không phải là hai; chúng chỉ là như vậy đối với tâm nhị nguyên của qúi vị, nó phân biệt tôi với người khác, cái này với cái kia.

Thoạt đầu khi thực hành với công án KHÔNG, bạn giống như một người đang ăn một quả táo đang đung đưa. Quí vị cố cắn một miếng, nó lại trợt đi một phía. Quí vị thử lại một lần nữa và mọi việc y như cũ. Chúng ta thể ăn và nhai táo đến chừng nào cắn được nó. Cũng giống như vậy, trước khi hỏi,"KHÔNG là gì?" qúi vị cần có KHÔNG vững chắc trong tâm. Sau khi đã đi sâu hơn vào câu hỏi, ta không cần phải hỏi nguyên câu, chỉ cần tập trung đầy đủ vào từ " KHÔNG " hay từ "Ai" nếu qúi vị đang tham công án "Tôi là ai?" tiếng vang trong tiềm thức sẽ là "KHÔNG là gì?" hay " Tôi là ai?" bởi vì câu hỏi đã được trồng sẵn ở đó. Nên nhớ rằng, KHÔNG không phải là thần chú, nó là sự thâm nhập, xuyên suốt, một tra vấn mãnh liệt. Nhưng ngay cả ở điểm này, câu hỏi chỉ là một vết xước nhẹ trên bề mặt, nếu KHÔNG và AI chỉ lập đi lập lại một cách máy móc. Chỉ một câu hỏi "KHÔNG" cũng đủ làm cho bạn muốn biết KHÔNG là gì. Ðiều này giữ cho nghi tình sống động bởi nó được tiếp sức bởi những chuổi nghi ngờ và sức thuyết phục bạn có khả năng tìm ra câu giải đáp, tạo sức mạnh cho KHÔNG.

Một người đàn ông ngồi trong phòng làm việc, chợt ông ta nhận ra cái đồng hồ của mình đâu mất. Ông nhìn quanh và mong tìm thấy nó ở đâu đó bên mình nhưng không thấy. Ông phân vân không biết là ông có mang đồng hồ đến văn phòng hay không hoặc bỏ quên nó ở một nơi khác? Ông sẽ tìm kiếm qua loa hay nãn chí thôi không tìm nữa hay không suy đoán đồng hồ nằm ở một nơi nào khác. Nhưng nếu ông ta không đi đâu và không ai vào đó, và hơn nữa ông ta biết chắc mình có mang đồng hồ đến văn phòng, ông càng trở nên bối rối hơn và bắt đầu tìm kiếm khắp văn phòng. Biết chắc đồng hồ phải ở đấy, quyết tâm tìm ra và năng lượng đổ dồn vào cuộc truy tìm sẽ nhiều hơn và mạnh hơn mọi khi cho đến lúc ông ta quên đi mọi thứ khác. Nó đang khởi lên một nghi tình. Ðây là cách qúi vị hỏi về KHÔNG.

Nhưng để làm được điều này cần phải có niềm tin sâu rằng bạn có thể thông suốt công án này. Và xác tín rằng bằng cách giải quyết công án này bạn sẽ thấy chân tâm của mình. Như một thiền sư đã nói," Nghi lớn ngộ lớn; nghi nhỏ ngộ nhỏ; không nghi không ngộ."

Người ta thường tự hỏi " căng mọi dây thần kinh" phải chăng là nạt nộ, nghiến răng và la hét" KHÔNG, KHÔNG?" Có lẽ có nhiều người đã thử làm như vậy ngay sau đó họ tự nhận thấy điều này không mang lại kết quả. Căng mọi dây thần kinh có nghĩa là toàn dụng thân tâm vào tu tập, chứ không có nghĩa ngồi ngây ra đó để ngủ. Cứ nhìn vào dáng ngồi bất động của một con mèo đang rình mồi. Khi nó quan sát một con chuột xuất hiện từ ổ, toàn thân nó như đông cứng nhưng thật ra gần như đang run lên với sự tập trung cao độ. Ở đây không có sự tập trung điên cuồng hay hoang dại--chỉ là sự tập trung căng thẳng vào nhất điểm. Qúi vị cũng nhìn thấy điều đó nơi hình ảnh một con chó đói giữ cái xương trước mặt nó. Lúc đó toàn thế giới của con chó là màu sắc và kích thước của cái xương đó. Và cũng có những người trong khi ngồi bất động hoàn toàn trong yên lặng đã đổ mồ hôi trong thời điểm lạnh nhất của mùa Ðông, vì sự tập trung của họ quá quyết liệt. Trạng thái như-định này quí vị có thể tự cảm nghiệm qua sự nhất tâm tham công án.

Cuối cùng: Hãy nhớ rằng những lời ẩn dụ này chỉ có tính cách giúp đở cho qúi vị--lão sư và trưởng lớp bằng mọi cách cố gắng tấn, khuyến khích, và thúc đẩy những điều được coi là thích hợp với người này lại bất hợp lý với người khác. Do đó, qúi vị tuỳ nghi lựa chọn và áp dụng những gì được trình bày ở đây; nếu cảm thấy được, bằng không thì hãy bỏ đi. Không có cách phải làm, không có cách duy nhất, không có cách nên làm. Ðừng luôn dựa vào kỹ thuật vì chúng đến từ bên ngoài. Chúng thuộc về thế giới khoa học kỹ thuật không thuộc về thế giới tâm linh. Ðể áp dụng đầy đủ thân tâm, một số qúi vị cần phải quát tháo nếu cảm thấy tốt cho qúi vị, vì không làm theo cách này khó có thể huy động năng lượng cần thiết để bứt phá một mức nào đó. Ðiểm quan trọng là qúi vị phải tìm một lối đi cho riêng mình.

---o0o---

LỜI BÌNH VỀ " 'TÔI KHÔNG BIẾT' CỦA BỒ ÐỀ ÐẠT MA"-- CÔNG ÁN 1 CỦA BÍCH NHAM LỤC

CÔNG ÁN: Chú ý ! Vua Lương Võ Ðế hỏi Bồ Ðề Ðạt Ma," Chân lý cùng tột của đạo thánh là gì?" Ngài đáp," Trống rỗng hồn nhiên không gì là thánh." Vua lại hỏi," Trước mặt trẩm là ta?" Sư đáp," Tôi không biết."

Lời đáp rõ ràng dễ hiểu nhưng nhà vua không hiểu. Thấy không thể độ gì cho nhà vua, Ðạt ma bỏ đi vào đất Ngụy, ẩn ở chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi xoay mặt vào vách. Sau này vua đem vấn đề này ra hỏi với Thái tử Chính. Vị thân vương hỏi," Hoàng thượng có biết vị ấy là ai không?" vua đáp," Trẫm không biết." Thái tử nói," Vị ấy là Từ bi Bồ tát mang đến nước ta dấu ấn của Phật-tâm." Lương Võ Ðế lấy làm hối tiếc muốn sai người đi tìm sư. Nhưng Chính bảo:" Thưa hoàng thượng, thật là vô ích, cho dù tất cả thần dân đổ xô đi tìm, đại sư sẽ không bao giờ trở lại."

Ðến đây công án kết thúc.

Bồ Ðề Ðạt Ma là vị tổ thứ 28 của Phật giáo. Ngài đến miền Nam Trung hoa vào năm 520. Lúc đó ngài đã 109 tuổi. Sau khi thất bại trong việc thiết lập giáo lý của mình ở miền Nam, sư đi về hướng Bắc. ( chủ đề của công án này)

Là một vị vua mộ đạo, Lương Võ Ðế đã xây dựng rất nhiều chùa chiền, ấn tống nhiều kinh sách đã được dịch từ Phạn ngữ sang tiếng Trung hoa, khuyến khích dân chúng tu tập, cúng dường vật thực cho tăng chúng. Dưới ánh sáng của Phật giáo truyền thống thời ấy, ông tin một cách tự nhiên rằng những công đức như vậy có thể đưq ông tới sự giác ngộ.

Khi hay tin có một lão tăng từ đất Phật đến, vua lập tức cho người mời sư đến hoàng cung. Ðối với Lương Võ Ðế, công đức hữu vi là tối thượng, vì vậy khi đối mặt với Bồ Ðề Ðạt Ma, ông đề cập đến những công đức mà ông đã tạo dựng từ khi mới lên ngôi.

Lương Võ Ðế hỏi: "Từ khi tức vị đến nay trẩm cất chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể, có công đức gì không?"

Sư đáp " Ðều không có công đức."

Ðế nói:" Sao không có công đức?"

Sư nói:" Ðó chỉ là nhâh hữu lậu chỉ đem đến quả nhỏ của cõi người, cõi trời như bóng với hình, tuy có nhưng không có thực."

Ðế hỏi," Vậy công đức chân thực là gì?"

Sư nói:" Trí phải thanh tịnh, thể phải lắng không, đó là chân công đức, công đức ấy không thể lấy việc thế gian mà cầu được."

Lương Võ Ðế lại hỏi:" Chân lý cùng tột của của đạo thánh là gì?"

Sư đáp:" Trống rỗng hồn nhiên không gì là thánh."

Nhà vua chắc đã choáng váng biết bao với lời đáp đó. Vì Võ Ðế tin rằng ông ta có một lối đi riêng có thể sang đến" bến bờ kia", nên không còn cách nào khác hơn là đứ ra một câu hỏi mỉa mai," Chân lý cùng tột của đạo thánh là gì?"

Hãy nghiệm lại lời đáp dứt khoát của sư: " Trống rỗng hồn nhiên không gì là thánh."Thật từ bi biết bao. Lẽ ra Võ Ðế phải đập đầu tạ ơn mới phải. Nhưng ông ta bị kẹt cứng trong vỏ giáo điều chính thống khô khan của thời ấy, nên không kịp nắm bắt được ý thiền của Ðạt Ma sư tổ.

Tổ nói gì về cái không này? Nó không phải là lổ hổng lớn trong vũ trụ với� dấu hiệu của Phật ghi:" Trống rỗng. Không thiêng. Cho phép băng qua." Cũng không là một cái trống không trừu tượng đối nghịch với cái đầy đủ cụ thể. Cái không này là gì nếu không phải là nền tảng mà từ đó tất cả hiện tượng trồi lên và là nơi chúng chắc chắn sẽ quay trở lại? Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc.

Khi tôi còn ở một thiền viện tại Nhật, có một giáo viên người Mỹ làm quen với Thiền qua sách vở, đến ở đây một thời gian ngắn. Ông được phân một gian phòng nhỏ hơi xa nhà vệ sinh chung. Mỗi khi mắc tiểu vào lúc nữa đêm, ông đi vào vườn thay vì phải đi bộ một đoạn khá xa đến nhà vệ sinh. Sau khi ông ta làm như vậy nhiều đêm, một hôm khi cả ba chúng tôi đang đứng trong vườn, vị lão sư nói với ông ta:

"Người ta nói anh đi tiểu trong vườn này, phải không?"

"Ðúng."

" Vườn là nơi thiêng liêng. Hãy dùng nhà vệ sinh."

" Tại sao vườn thiêng liêng? Không phải Bồ đề đạt ma đã nói' Hư không bao la không có gì thiêng liêng?'"

Nghe đến đó, lão sư đập ông ta," Không được tiểu trong vườn--vào nhà vệ sinh!"

Tại sao lão sư đánh ông ta? Không phải cái vườn này cũng trống không và không có gì thiêng liêng sao? Từ cái nhìn phối cảnh của tâm tuyệt đối, không có cái gì là thiêng liêng, cũng không có gì gọi là trần tục ca. Ðiều đó hoàn toàn đúng. Nhưng ở mức độ tương đối của xã hội về mặt đạo đức, quí vị không được vi phạm những thuần phong mỹ tục, tiêu chuẩn lịch sự bằng việc tiểu trong vườn của thiền viện, chỉ vì qúi vị qúa lười không chịu đi đến nhà vệ sinh. Cùng với sự tuyệt đối hay bình đẳng, khiá cạnh sống của chúng ta phải được sự nhìn nhận về mặt tương đối. Và ngược lại, sự nhận thức về những khác biệt tương đối đồng thời được cân bằng bởi sự bình đẳng.

Ở mộ�t xã hội dân chủ như của chúng ta sự bình đẳng được nhấn mạnh và người ta có khuynh hướng cho rằng," Tôi cũng tốt như mọi người khác". Ðiều này dẫn đến hệ qủa là người ta ít tôn trọng những gì khác biệt với mình. Quan điểm như vậy là một chiều. Dĩ nhiên, người ta có thể có cùng một mối quan tâm hay cơ hội như nhau, nhưng như vậy không có nghĩa là mọi người sinh ra trên cỏi đời này đều phải thông minh, tài năng và ý chí như nhau hoặc tất cả đều vô minh như nhau. Công bằng một chiều là sự phân biệt giai cấp được tạo ra trong các xã hội có phân chia giai cấp. Phật giáo dạy chúng ta đều có Phật tánh như nhau, chỉ khác nhau ở biệt nghiệp. Sự giống nhau và khác nhau-- là hai mặt của một vấn đề. Tôi đã nói "một" phải không? Bỏ nó đi--và bỏ luôn "Phật tánh." Thế ta còn lại cái gì? [đột nhiên giơ nắm tay đưa thẳng lên trời.]

Qúi vị nghĩ gì về câu hỏi," Ai đang ở trước mặt trẫm?" của Lương Võ Ðế. Có phải nhà vua quá bối rối hay cố cứu vãn lòng tự cao bị tổn thương của mình? Dù sao câu hỏi vẫn bao hàm một ý nghĩa rõ ràng," Làm sao ngươi có thể nói không có gì thiêng liêng khi ngươi là một thánh nhân? Và rồi lời đáp khó hiểu của Tổ sư, một trong những câu nói nổi tiếng nhất trong thiền:"Tôi không biết." Cho tôi hỏi quí vị: có phải Bồ đề đạt ma thật sự trả lời câu hỏi của nhà vua hay đang tìm cách né tránh nó? Nếu đó là câu trả lời, ý của Tổ là gì?

Hiểu biết thông thường phát sinh từ mối quan hệ chủ thể-đối tượng. Khi qúi vị suy nghĩ về một đối tượng như công việc làm chẳng hạn, qúi vị xem xét, phân tích, suy luận rồi đi đến kết luận về nó. Nhưng phương pháp này thu được những thông tin rất hạn chế. Ðể thực sự hiểu một điều gì đó một cách rốt ráo, quí vị phải kinh qua một phạm trù mà trong phạm trù này trí phân biệt vẫn chưa bắt đầu hoạt động. Ai có thể nói gì về lĩnh vực này? Không có gì được dạy hay được đề cập đến, nó cần phải được cảm nghiệm. Vì bất cứ cái gì mà qúi vị hiểu bằng lý trí chỉ là một nữa của sự thật; cái mà quí vị không biết là hiểu thật sự.

"Phàm"và"Thánh "--không phải sự phân biệt độc đoán này có khuynh hướng tách rời một cái từ cái đã được đặt tên sao? Thiêng liêng thật sự-- toàn bộ--là không, hư vô, vô ngã, một điều kiện mà trong đó cái này không thể đứng tách rời mọi thứ khác. Có một lần thầy tôi nói rằng," Nếu một người có vẻ quá thánh thiện đến nổi có thể phong ông ta là thánh, thì sự tu luyện tâm linh của ông chưa viên mãn. Nếu ông ta phát triển trọn vẹn, sẽ không có gì để qúi vị có thể phát biểu về ông ta. Ông ta sẽ vượt ra ngoài sự phân loại."

Quí vị có thể hiểu sự vi diệu "Ta không biết" của Bồ đề đạt ma không? Giả sử ngài trả lời,"Ðúng, tôi là một thánh nhân." Như vậy ngài đã khẳng định một sự phân biệt vốn không tồn tại, phải không? Hơn nữa, tự cao tự đại như vậy sẽ là trái với" sự thiêng liêng" phải không? Nhưng nếu ngài trả lời," Không, tôi không là thánh" ngài đã từ chối một sự hiển nhiên. Thế ý tổ muốn nói gì trong câu đáp,"Ta không biết"? Chắc chắn ngài biết rõ khi nào ngài nóng hay lạnh, vui hay buồn, vì đâu phải ngài không có cảm giác. Nhưng trước hết, hầu như ngài biết rằng không có gì để biết, vì theo ý nghĩa sâu thẳm nhất, không có gì có thể biết được; tri kiến này là tuệ giác tối thượng. Khi tâm vượt qua khỏi ý niệm phàm thánh, rỗng hay đầy, tôi và người khác, chân lý luôn biểu lộ; đây là điều then chốt để hiểu tâm người khác. Ðây là điều kiện của tâm Bồ đề đạt ma. Nó không thật thánh thiện hay sao?

À, cái " Ta không biết" đó!--nó chống lại mọi cố gắng của lý trí tìm cách áp đặt lên nó. Thật sự để nắm bắt nó, qúi vị phải dẹp qua một bên tất cả khái niệm, lý thuyết và lao thẳng vào chiều sâu của tâm Bồ đề đạt ma, nơi mà những sóng "biết" và "không biết" không thể đến được.

Trở lại công án:" Lương Võ Ðế không hiểu. Thấy không thể độ gì cho nhà vua, Ðạt ma bỏ đi vào đất Nguỵ", ẩn ở chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi xoay mặt vào vách. Và chính nơi đây là nơi xảy ra cuộc hội ngộ đầy ấn tượng giữa Ðạt ma và Thần Quang, người sau này trở thành đại đệ tử của ngài--và là nhị tổ của Thiền tông tại Trung quốc.

Ngày nọ, có ông tăng tên là Thần Quang đến viếng sư, nhiệt thành cầu được khai ngộ pháp thiền, nhựng Ðạt ma lạnh lùng không thèm đoái hoài đến. Thần Quang không vì thế mà nãn lòng, lại cho rằng các bậc chí thánh thuở xưa đều phải trải qua đủ thứ thử thách chông gai mới thành được bổn nguyện. Một đêm kia ông đứng dầm mình trong tuyết chờ Ðạt ma lưu tâm ban pháp từ cho đến khi tuyết rơi đầm đià chôn vùi ông đến thắt lưng.

Bấy giờ, sư mới quay đầu lại hỏi"Ông muốn cầu gì?"

Quang đáp, giọng nghẹn ngào trong nước mắt: Ngưỡng mong Hoà thượng từ bi mở cam lồ, rộng độ chúng sanh.

Sư nói: Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm, làm được, khó nhịn, nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, lòng đầy khinh mạn, há có thể chịu nổi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa hay sao?

Quang nghe quở, bèn rút dao bén chặt lìa cánh tay trái và đưa lên trước mặt sư. Sư biết gặp được pháp khí, bèn nói: Chư Phật lúc phát tâm cầu đạo vì pháp bỏ thân, nay ông chặt tay trước mặt tôi, vậy muốn cầu gì?

Nói xong, sư bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả.

Khả bạch: Pháp ấn của chư Phật, có thể nghe chăng?

Sư nói: Pháp ấn của chư Phật không thể nhờ vào người khác.

Khả bạch: Nhưng tâm con không an, thỉnh sư làm cho tâm con an.

Sư nói: Ðưa tâm ngươi đây ta an cho.

Khả bạch: Con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm đâu cả.

Sư nói: Thế là ta đã an cái tâm ngươi rồi đó."

Quí vị nhận thấy khó tin phải không? Qúi vị có cho nó là huyền thoại không? Ðược, cứ cho rằng nó là huyền thoại đi. Nhưng đừng quên huyền thoại không là một câu chuyện không thực, chỉ vì nó qúa sâu sắc, qúa tuyệt vời, không bao gồm những sự kiện đơn thuần. Không hi sinh, không đoạn lià những tư niệm cao ngạo, những đam mê bất tịnh, quí vị có thể đạt được mục đích tối hậu --NGỘ --hay không?

---o0o---


3. NGÀY THỨ SÁU - BÀI THUYẾT KHÍCH LỆ


Vào giai đoạn này của khóa nhiếp tâm, thường nghe những người trong buổi độc tham nói," Dù tôi có làm gì đi nữa, tôi cũng không thể vượt qua một điểm nào đó. Sự tập trung của tôi rất mạnh nhưng tôi cảm thấy như đang húc đầu vào tường. Tôi cố gắng hết sức để vượt qua chướng ngại nhưng không có dấu hiệu nào tỏ ra thành công. Sau cùng, tôi kết thúc bằng căng thẳng và kiệt sức. Tôi có thể làm gì hơn nữa? Những người này có lẽ làm việc chăm chỉ, nhưng không bao giờ có thể đi hết con đường. Hành động của họ giống hệt một kiểu như trong những khoá nhiếp tâm trước mà họ từng tham dự-" luôn luôn chạy đua nhưng không bao giờ tới đích."

Làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Giống như họ đào một giao thông hào nhưng không dẫn đến đâu cả, không thể di chuyển ra khỏi đó, sang phải hay sang trái. Nếu qúi vị là người gặp chổ bế tắc này hết khoá này đến khóa khác, quí vị phải biết cần phá vỡ lối mòn quen thuộc này và tìm một lối đi mới. Cụ thể mà nói, nếu qúi vị quen với việc nghĩ ngơi buổi sáng trong giờ giải lao sau thời gian làm việc, hãy cương quyết với chính mình thay vì nghĩ nơi là ngồi thiền. Hay nếu qúi vị thường xuyên ăn ăn một ngày ba bửa trong khóa nhiếp tâm, thỉnh thoảng thử bỏ đi một bửa ăn và dùng thời gian đó để toạ thiền. Nếu quí vị chưa bao giờ thức khuya trể hơn một hay hai giờ sau buổi toạ thiền chính thức về đêm, quyết tâm ngồi đến ít nhất là nữa đêm và không từ bỏ vì buồn ngủ. Nếu trong lúc đó, qúi vị thường ngồi ở thiền đường, thay vì vậy, hãy lấy gối ra ngồi bên ngoài hay ngược lại.

Ở khoá nhiếp tâm cách đây không lâu, có một người đã kiến tánh sau nhiều khoá nhiếp tâm thức khuya và dậy lúc chuông đánh thức gõ, cuối cùng anh ta thử đi ngủ sớm và thức dậy lúc nữa đêm để thiền. Dù qúi vị trù tính phá vỡ cách thức trước đây, một khi qúi vị làm như vậy, năng lượng bắt đầu trôi và qúi vị tự nhận ra mình đang làm điều mà quí vị không thể làm ở những khóa nhiếp tâm khác. Nhưng đằng sau quyết tâm phải là nổ lực phấn khởi và tận tuỵ. Tôi đã từng nói: Ðối với một người yếu đuối, bức tường là một vách núi không thể vượt qua. Hãy tự vấn: Liệu một người yếu ớt trong tình trạng buồn ngủ có thể nào đồng hành với quí vị không?

Một cách âm thầm phải được đặc biệt kể tới cái có thể được gọi là ý chủ bại. Quí vị nào là con mồi của cách này thì phải hiểu là đây là thời điểm quyết định của khóa nhiếp tâm, khi tâm quí vị đột nhiên tràn đầy cảm giác bấc lực, quí vị tự nhủ thầm," Ta thất bại quá nhiều, không có cơ hội kiến tánh thì có khác gì đâu. Kiến tánh có lợi gì?" Một lần nữa, hoạt động tinh vi của bản ngã thiết lập mọi loại chướng ngại để tự bảo vệ nó. Sự hợp thức hoá thái độ chiến bại này nại ra nhiều lý do. " Nó thật sự không đáng--Ðiều gì sẽ xãy ra nếu tôi kiến tánh? Tại sao phải tiếp tục?" Hay nếu quí vị đau chân quá, quí vị tự nhủ ," Nếu ta tiếp tục cố gắng, ta có thể làm cho chính mình có tật vĩnh viễn. Vậy tốt nhất nên rút lui ngay bây giờ." Và trong cuộc sống của những người như vậy, nơi mức khởi hành họ tỏ ra mạnh bạo đi về một hướng nào đó, nhưng khi ý chủ bại xen vào, sự giải thích bắt đầu hoạt động, họ sẽ tìm cách thoái thác và kết thúc công việc trong cái mà chúng ta gọi là thất bại. Ðây đúng là một bản sao. Một sự không bằng lòng chấp nhận trách nhiệm mà quí vị mơ ước thành công sẽ mang đến. Quí vị tự dán cho mình cái nhãn hiệu " Tôi là người không thích hợp", quí vị có thể từ bỏ công việc đánh thức chân tâm của mình và né tránh những thách thức khác.

Quí vị, người bị truyền nhiễm cách sống này, có cơ hội tối thượng để nhổ nó ra lập tức và trên hết, ở khóa nhiếp tâm này, nơi mà quí vị có thể rút nguồn năng lượng tinh thần tích tụ của 54 con người khác làm việc cực nhọc suốt ngày đêm. Không có thời gian nào tốt hơn bây giờ, khi sức mạnh định lực của tập thể đã kiến lập trong suốt năm ngày rưỡi qua. Ðây chính là thời gian thử cái để tạo ra một cái gì mới mẽ, một sự bùng nổ năng lượng mới phá đi chổ dựa của lề thói cũ. Thiền sư Bạt tuỵ nói," Nếu quí vị đẩy về phiá trước sức lực cuối cùng ở chính điểm nơi con đường tư duy của quí vị bị cản trở ,và rồi, cái chướng ngại hoàn toàn bật ra từ tay quí vị bắn lên trên không và rơi vào vực thẳm khổng lồ của lửa phiá trước mặt quí vị, ngọn lửa bất tận của bản tính nguyên thủy của chính quí vị, rồi tất cả ý thức-ngã, tất cả cảm giác và tư niệm mê hoặc sẽ chết theo với cái gốc bản ngã của quí vị, nguồn gốc thật sự của chân tánh sẽ xuất hiện." Ðiều này có nghĩa là quí vị phải trở nên trần trụi, quí vị phải hàng phục mọi thứ . Hãy làm điều này và tất cả sẽ là của quí vị--quí vị sẽ là tất cả!

---o0o---



LỜI BÌNH VỀ " MỘT NGƯỜI Ở TRÊN CÂY"
CÔNG ÁN 5 TRONG MÔN QUAN 
CỦA VÔ MÔN

CÔNG ÁN: Thiền sư Hương Nghiêm nói:" Thiền ví như một người lơ lững trên miệng một vực sâu muôn trượng, răng cắn vào cành cây, chân thõng giữa hư không hai tay không thể níu vào đâu được. Lúc ấy có người đi qua hỏi vọng lên:" Tổ Ðạt ma qua Tàu có ý nghĩa gì?" Nếu người trên cây mở miệng trả lời thì rơi mất mạng trong vực sâu.nếu không trả lời thì phụ lòng người hỏi. Trong phút giây nguy kịch khó xử ấy, người ấy phải làm sao?
 
LỜI BÌNH CỦA VÔ MÔN: Cho dù sự hùng biện của quí vị trôi chảy như dòng sông cũng vô ích. Cho dù quí vị có thể giảng giải tất cả kinh Phật, điều đó cũng trở thành vô dụng. Nếu quí vị có thể trả lời vấn đề đúng lúc, quí vị có thể giết người đang sống, hay làm người chết sống lại. Nhưng nếu quí vị không thể trả lời, qúi vị phải hỏi khi gặp Ðức di lặc.

KỆ CỦA VÔ MÔN:

Hương Nghiêm đã nói sàm,

Chất độc tuôn trào,

Dừng ở miệng tăng.

Nhìn họ lăn lộn,

Mắt đen trừng trừng như là của quỷ.

Quí vị đừng tưởng câu hỏi này là bởn cợt không liên quan gì đến hiện thực trong đời sống của quí vị. Ngược lại, nó có ý nghĩa chứng minh rằng tâm kỳ diệu của quí vị bình đẳng tương ứng trong mọi tình huống khi mà quí vị không cầm giữ trong đó những khái niệm trưù tượng.

Hương Nghiêm sống vào cuối thời đại nhà Ðường. Ngoài việc làu thông kinh kệ, ông rất nhanh trí và có khả năng phân tích cao.Một hôm, thầy ông là Qui Sơn hỏi," Ông là người có trí thông minh sắc bén và học rộng. Bây giờ vấn đề sinh tử là căn bản nhất trong mọi thứ. Ðừng nói với ta những gì ông đã biết từ kinh kệ mà hãy nói cho ta một từ thiết yếu về cái tôi của ông trước khi ông rời bụng mẹ, trước khi ông có thể phân biệt được hướng Ðông, hướng Tây." Ngạc nhiên, Hương Nghiêm không thể thốt lên một lời nào. Trở về phòng mình mà vẫn còn dằn vặt về câu hỏi, ông điên cuồng lục tung tất cả sách vở, những lời trình bày của ông bị Qui Sơn thẳng tay gạt bỏ. Cuối cùng nguồn tri thức của ông cạn kiệt, ông van nài sư cho ông một dấu vết. Mặc cho Hương Nghiêm van nài, Qui Sơn vẫn khăng khăng," Cho dù ta tiết lộ nó rỏ ràng cho ông, nó vẫn là cái chứng nghiệm của ta chứ không phải của ông."

Trong tuyệt vọng Hương Nghiêm đốt tất cả sách và những thứ ông đã ghi chép lại để nghiên cứu, ông nói" Một bánh vẽ không làm no bụng người đói." Thề từ bỏ việc nghiên cứu Phật học, ông rời Qui Sơn mà nước mắt tuông trào, cuối cùng ông đến một ngôi chùa đổ nát của một thiền tăng nổi tiếng đã viên tịch từ lâu, và định cư ở đây tự nguyện giữ mồ cho thiền sư đã quá cố. Rỏ ràng điều giữ ông ở đây là bầu không khí và những rung động của ngôi chùa, nuôi dưỡng trong ông sự khao khát giải quyết câu hỏi của Qui Sơn.

Một hôm khi ông đang quét sân, Hương Nghiêm ném một viên ngói bể sang một bên, ngẫu nhiên đụng vào cây tre tạo ra tiếng rắc lớn. Giật mình vì âm thanh bất ngờ. Ông hốt ngộ và bật cười làm một bài kệ:

Âm thanh cái bị gõ,

Ta quên hết mọi điều.

Quay trở lại lều, ông tắm gội, thắp hương và vái theo hướng chùa của Qui Sơn nói," Ôi Hoà thượng thật đại từ, ơn ngài còn hơn cha mẹ, nếu lúc trước vì ta mà nói ra thì ta đâu có được như hôm nay."

Người thầy đầu tiên của tôi vốn là một giáo sư đại học lâu năm, thường nói các học giả trí thức luôn trao đổi những ý nghĩ nên họ khó đạt ngộ hơn những người bình thường không mang gánh nặng như vậy. Ông cũng cho rằng phụ nữ thường ngộ nhanh hơn đàn ông, chủ yếu vì tâm họ thường không che chở và chơi đùa với những khái niệm nhiều như cánh đàn ông. Ông cho biết thêm ," nhưng một khi người tri thức cao bứt phá thì thường đó là sự đột phá rất hoàn toàn." Vấn đề là vì tâm giác ngộ đã sẵn có nơi mọi người, và ai cũng có tiềm năng đánh thức nó dậy.

Dù cho tuệ-tâm ngay trước mắt, người ta không thể mang nó vào ý thức mà không phải trải qua tìm kiếm và đấu tranh. Khi miếng ngói va vào thân tre, lúc đó tâm của Hương Nghiêm đã chín muồi do nổ lực tìm kiếm đầy gian truân của ông; âm thanh này chỉ đẩy cái ngộ của ông. Nó giống như một cây diêm đang cháy ném vào cái mồi lửa, đốt cháy khái niệm và ý niệm, huỷ diệt tất cả chúng trong ngọn lửa Tự-siêu việt của ông.

Trở lại với công án:" Tổ đạt ma qua Tàu có ý nghĩa gì?'"--Ðó là, từ Ấn độ đến Trung hoa. Theo sự nhất trí chung của các thiềnsư, thì câu này có ý là ," chân lý tối thượng của thiền là gì?"

Chân lý tối thượng không là một lý tưởng cao cả hay một hệ thống đạo lý. Cũng không phải theo kiểu " chân lý là vẻ đẹp và vẻ đẹp là chân lý " của các nhà thơ. Khi thiền sư Ðạo nguyên được hỏi," Chân lý gì ngài tìm thấy ở Trung hoa sau ba năm tu luyện ở đó?" Hương Nguyên đáp" Ðó là mũi tôi đứng, mắt tôi nằm ngang." Một thiền sư khác khi được hỏi về chân lý thiền, lại đáp," Xin lỗi, tôi phải đi tiểu. Thử nghĩ mà xem--ngay cả những điều vặt vãnh như thế này, tôi vẫn phải tự làm." Hoặc có khi trả lời," Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ."

Nhưng nếu qúi vị thân lơ lửng trên cây, bên dưới là vực sâu, răng cắn vào một cành cây, hai tay không có chổ níu, và ai đó bên dưới thành thật hỏi về chân lý. Làm cách nào quí vị trả lời? Thật nan giải! Bằng cách nào đó người trên cây có thể trả lời câu hỏi trọng yếu đó không? Nếu được, thì bằng cách nào? Ðưa công án này ra là để kiểm tra cái thiền của quí vị: làm cách nào để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu cấp bách của cuộc sống ở mọi thời điểm, trong mọi hoàn cảnh.

Chưa ngộ, mọi người hầu như ở trên cây, bám lấy chỉ trong gang tấc. Họ không sống--họ chỉ tồn tại. Họ không lớn lên--họ chỉ đung đưa. Họ không ngừng mở miệng giải thích hay phàn nàn và rơi vào thế giới đau khổ của sợ hãi và nghi ngờ, của cô đơn và tuyệt vọng.

Trong cuộc sống đời thường vẫn có những " người ở dưới gốc cây" đưa ra những câu hỏi gây bối rối cho quí vị: Bạn có thật sự là một người chồng hay người vợ người cha hay con đáng yêu hay không? Bạn có hành động như một thành viên có trách nhiệm với nhân loại không?

Liệu chúng ta có thể giữ mãi im lặng đối với những câu hỏi này không? Không phải phát biểu hay im lặng mà chính độ sâu hiểu biết và sự vô ngã đằng sau chúng mới thật là quan trọng. Khi bị mắng, quí vị cải lại hay tìm cách trả thù, thách thức sự giận dữ trong chính mình và người khác, hay đứng lặng thinh xấu hổ? Khi thấy điều xấu hay bạo lực xảy ra, quí vị giữ yên lặng hay lên tiếng phản đối hay ra tay hành động ngăn cản chúng? Im lặng có lẽ là bằng vàng(gold) nhưng một số người lại cho rằng, nó chỉ là màu vàng(yellow).

Khi Hương Nguyên trao công án này cho tăng chúng, một đại đệ tử đứng dậy nói," Ðừng quên nói về người đang ở trên cây. Làm cách nào anh ta đáp câu hỏi đó sau khi anh ta rớt xuống?" lúc này Hương Nguyên cười hả hê. Quí vị có hiểu tại sao không? Phật tánh của quí vị là gì trước khi qúi vị được sinh ra và nó sẽ như thế nào khi quí vị chết đi? Có sự khác biệt nào giữa cái trước và cái sau không?

Quí vị sẽ nói gì nếu ai đó thúc ép qúi vị về sự thật sâu kín nhất của trong đời của quí vị ? Câu trả lời của quí vị có tính triết lý hay không? Với thơ ca? Hay im lặng? Hay quí vị đập mạnh tay xuống? Nếu quí vị không biết quí vị đang làm gì, đó chỉ là sự đóng kịch. Ðừng làm kẻ giả mạo thiền! Ðể có câu trả lời thiền thật sự, tâm quí vị phải trống rỗng mọi khái niệm--liên quan đến cái tôi, ý nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi và những thứ tương tự.

Có vẻ nhạt nhẻo phải không? Tại sao vô niệm? Không phải ý niệm là huyết mạch của một con người có hiểu biết hay sao? Ðúng, và nó cũng là cái ách người đó tự gắn vào mình. Quí vị có muốn tự do thực hiện tất cả các kiểu khám phá kỳ diệu hay không? Thế thì tránh ý niệm. Ðối với những lý tưởng, hãy là con người đích thực, đừng là con người lý tưởng. Và hãy sống một cuộc sống không phán xét hay giải thích nó. Ðừng suy nghĩ và trò chuyện, hãy bắt đầu cảm nhận và hành động.

Một số quí vị trước đây có lẽ đã xem phim hoạt hình với cảnh đôi vợ chồng già đang trải qua một buổi tối yên tỉnh ở nhà. Bà thì ngồi ở một góc phòng đan áo, ông ngồi đọc báo ở một góc khác. Không nhìn lên bà hỏi," Ông có yêu tôi không , mình ơi." Không rời mắt khỏi tờ báo, ông thủ thỉ " Dỉ nhiên là tôi yêu." Ở góc thấp hơn là một con chó nhỏ đang nhìn chăm chăm người chồng như muốn nói, " Lạy Chúa, đừng nói với vợ ông như thế. Hãy thể hiện đi!"

Con người luôn luôn là kẻ tìm kiếm vĩ đại, kẻ chất vấn không mệt mỏi. Họ hỏi mãi, " Ý nghĩa cuộc sống là gì? Chân lý là gì? Nhưng hãy nói với tôi nhanh lên, ý nghĩa của ánh nắng mặt trời là gì? Ý nghĩa của mưa và sấm là gì? Ý nghĩa của con sóc có đuôi rậm và con chuột thì thẳng là gì?Ý nghĩa của Bồ đề đạt ma đến từ Tây phương là gì?

Người ta kể về một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng, một lần ông chơi một tbản nhạc đương thời không có phần hòa âm tại một cuộc họp mặt riêng. Sau khi chơi xong bản nhạc, một người lớn tuổi bước đến nói," Tôi không hiểu bản nhạc này, nó có ý nghĩa gì vậy?" Không nói một lời, người nghệ sĩ chơi lại bản nhạc một lần nữa, rồi quay sang nói" Ðó là ý nghĩa của nó!"

Trong hai câu đầu lời bình Vô môn nói,"Cho dù sự hùng biện của quí vị trôi chảy như dòng sông cũng vô ích; cho dù quí vị có thể giải thích tất cả kinh Phật, điều đó cũng trở thành vô dụng."

Trong "Tín tâm minh," tam tổ Tăng Xán ca rằng:

Tín tâm bất nhị Tín tâm chẳng phải hai

Bất nhị tín tâm Chẳng phải hai tín tâm

Ngôn ngữ đoạn đạo Lời nói là đạo đức

Phi cổ lai câm Chẳng kim cổ vị lai

Kinh là nơi cất giữ những lời dạy của Ðức Phật. Chúng dung chứa chân lý nhưng dể bị hiểu lầm. Thiền không phỉ báng kinh; chỉ nhắc nhở rằng kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, bản thân nó không phải là mặt trăng (tâm). Ðó là lý do tại sao thiền một tông phái duy nhất trong hệ thống Phật giáo không đặt cơ sở của mình trên bất cứ kinh nào. Tâm là bản thể của thiền, và kinh là tâm Phật. Nếu còn sống đến ngày hôm nay, liệu Ngài có nói những lời giống như đã được ghi lại trong kinh không?

Chân lý thì vô cùng, làm thế nào cái hữu hạn vươn tới cái vô hạn.Những ngôn từ dùng để giải thích là ngôn ngữ chết khô , không có quyền lực phấn khích. Giải thích và mô tả chỉ là những ô cửa nhỏ nhìn ra bên ngoài vũ trụ vô biên, vì thế thiền sư Bạt tuỵ tuyên bố:

Phạm vi của ngôn từ

Như núi và sông

Không gì ngoài một dòng mê hoặc.

Vô môn nói: Nếu quí vị có thể trả lời đúng lúc, quí vị có thể giết người đang sống, làm người chết sống lại." Ai là người sống cần bị giết? Ðó là cái ngã tích cực điên loạn của những người có cuộc sống chộn rộn, phân tán, đi vòng vòng như quay chỉ, không ngừng cải vả và phân biệt. Bên ngoài họ dường như đầy năng lượng và mục đích nhưng bên trong là sự bối rối, bị thúc đẩy bởi những sợ hãi và bó buộc xói mòn. Một khi đã giết được bản ngã- cái tôi ung nhọt--một sản phẩm của vô minh và sợ hãi--và mang vào ý thức cái tâm không vết nhơ, họ sẽ cảm nhận được một thế giới hoàn toàn mới mẽ và kỳ diệu. Do đó người sống bị giết và làm người chết sống lại. Ðó là phép mầu của ngộ. Ðó là giải thoát.

Trở lại lời bình:" Nhưng nếu quí vị không thể trả lời, qúi vị phải hỏi khi gặp Ðức Di Lặc." Di Lặc là vị Bồ tát Bổ Xứ, một vị Phật tương lai sẽ hạ sanh, sẽ xuất hiện trong chu kỳ trần thế kế tiếp, như là Thích ca mâu ni là Phật của chu kỳ hiện tại. Kinh nói ngài sẽ xuất hiện 5.670.000.000 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Câu nói của Vô môn không phải để mỉa mai. Nó chính là sự nhắc nhở không thể bắt chước được, nếu quí vị không thể nổ lực tuyệt đối để tỉnh giác, quí vị còn phải đương đầu nhiều nổi khổ đau trong một thời gian dài (5.670.000.000 năm).

Và bây giờ là bài kệ của Vô môn

Hương Nghiêm nói sàm,

Chất độc tuông trào,

Dừng ở miệng tăng.

Nhìn họ lăn lộn,

Mắt đen trừng trừng

Như là của quỷ.

" Nói sàm" chỉ vấn đề nan giải sư đưa ra. "Chất độc" ở đây là thuốc giải chữa bệnh nghiện dùng lời và khái niệm của các tăng. Ca ngợi-bằng-vu khống của Vô môn là đặc điểm của thiền. Các thiền sư không dùng từ ngữ "thân thương", những gì mà thầy tôi gọi là "tô son, trét phấn", vì có thể dẫn đến chấp ngã mê lầm. Nếu chúng ta có thói quen nói về chân tâm như" như ý châu," hay ca tụng Ðức Phật là" Ðấng cứu tinh trần thế," hay biểu dương Bồ đề đạt ma là "Khai tổ vinh quang." Chúng ta đã làm một việc thừa--làm ô uế tâm mình. Ở một nơi khác Vô môn nói về Bồ đề đạt ma: "Lão ngoại quốc già răng rụng đó vênh váo vượt hàng trăm dặm đường biển…lão ta chỉ có một đồ đệ mà ngay cả hắn cũng què quặt nốt. Tốt! Tốt!" Trong Thiền quí vị tìm thấy ở nơi nào " Sự bất kính kính phục" như " Sự kính phục bất kính phục " như vậy? Vô môn thật sự đang ca tụng Hương Nghiêm vì lòng từ bi và trí tuệ của ngài, vì lòng can đảm gây ấn tượng chặt đứt cái ngã, chống việc phát biểu bằng lời và phân biệt từ bên trong hàng ngũ đệ tử của mình.

Hương Nghiêm làm điều đó một cách tận tâm, ngài chủ ý nhìn xem họ với đôi" mắt đen trừng trừng như là của quỷ," để tìm dấu hiệu lộ ra của thức ngộ.
 
 

---o0o---


4. NGÀY THỨ BẢY - BÀI THUYẾT KÍCH LỆ


Khóa nhiếp tâm này còn lại khoảng sáu giờ nữa. Chắc chắn một số quí vị sẽ cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe điều này. Quí vị có lẽ tự nhủ, sau khi tham gia quá nhiều công việc cực nhọc ở khoá nhiếp tâm này, bây giờ không còn gì để làm ngoài việc thoải mái đi đến đích. Có lẽ quí vị cũng nhận ra mình đang theo đuổi những ý nghĩ về điều quí vị sẽ làm sau khóa nhiếp tâm.

Theo cách này, khoá nhiếp tâm xem như thất bại --gần như một bi kịch--bi kịch mỉa mai thì đúng hơn. Vì cơ hội lớn nhất của khóa nhiếp tâm ở trong tầm tay vào những giờ phút cuối này, tại sao như vậy? Vì nữa ngày cuối cùng này trở nên thật sự cô đọng của sáu ngày rưỡi nổ lực liên tục. Cho đến bây giờ tất cả nổ lực đang dần dần mài nhọn tâm sắc như dao cạo. Bây giờ cho dù quí vị để ý nhìn thấy những vọng niệm, chúng chỉ là những gợn sóng trên mặt đại dương. Không có ai ở đây mà tâm không chuyển sau thời gian nổ lực trong mồ hôi và nước mắt. Tâm bây giờ thanh tịnh hơn nhiều so với cách đây một tuần lễ. Và một lần nữa tạo ra định lực bao trùm thiền đường này. Muốn có được trạng thái trong sáng này sẽ phải mất sáu ngày rưỡi của khóa nhiếp tâm khác, nghĩa là phải đi lại từ đầu.

Qúi vị nào đêm qua đã thức khuya không ngủ, có lẽ vào lúc này không cảm thấy năng lượng đó và sự trong sáng này. Tuy nhiên nó có ở đó, và nếu quí vị không làm yếu nó đi, nó sẽ bất thần sẵn sàng trở lại với quí vị. Nên nhớ rằng khi quí vị mệt bản ngã cũng mệt theo. Ðiều này có nghĩa là có thể làm giảm cái mệt, nếu quí vị không nhường bước cho nó. Nếu qúi vị cảm thấy mệt mỏi qúa mức, ngủ một giấc ngắn vào thời gian nghỉ giải lao kế tiếp. Nếu quí vị toạ thiền suốt đêm, chỉ mười lăm phút nữa là đến giờ nghỉ ngơi và với nữa giờ nghỉ ngơi đủ để quí vị phục hồi sức khỏe. Lúc đó quí vị có thể vào định, bằng sự tập trung vô niệm của mình vào công án, giải đáp sẽ đột nhiên lộ ra cho qúi vị.

Hơn bao giờ hết, hãy nhớ rằng vào thời điểm này của khóa nhiếp tâm, ngộ có thể đến bất cứ lúc nào. Ðừng nghĩ rằng sáu ngày rưỡi đã rời xa quí vị; chúng không như thế. Tất cả chúng đang hiện hữu nơi này, nén lại vào những giờ phút cuối cùng. Cho dù bây giờ trong tâm quí vị cảm thấy điều gì chăng nữa, trong phút chốc nó có thể thay đổi hoàn toàn. Nhờ định lực được vun đắp dần trong thiền đường, bất cứ quí vị nào cũng có thể, với một cái nâng mạnh, bỗng nhận ra tâm mình trống như một tờ giấy trắng. Và trong trạng thái này, chỉ cần một âm thanh, một lời nói, hay một cái va chạm đúng lúc là ngộ ngay. Một số người phá được công án của họ trong mười phút cuối cùng của khóa nhiếp tâm và một số thì ngay sau khi khóa học kết thúc. Một người cùng dự khóa nhiếp tâm với tôi ở Nhật, đang lái xe về nhà sau đợt nhiếp tâm, khi ông ta băng qua đường rầy xe lửa mà phía trước là một đoàn tàu đang tiến tới. Khi người thợ mày kéo còi thì ông ngộ. Nhưng không ai có thể tiên đoán kiến tánh xảy ra khi nào; tuy nhiên nếu quí vị mong đợi một điều gì giống như thế, có thể chắc chắn là không có gì xãy ra.

Không chỉ vì cho chính mình mà quí vị cần tránh suy nghĩ về việc kết thúc khoá nhiếp tâm. Theo nghĩa chân xác thì ai giảm đi sự cố gắng vào thời điểm này là đang hạ thấp những nổ lực của những người khác. Hơn bao giờ hết, bây giờ khi khóa nhiếp tâm nhập lại thành một toàn thể thống nhất và nhạy cảm, những tư niệm không kềm chế được hay sự tiêu cực của riêng một người cũng được cảm nhận bởi những người khác. Ngược lại cũng như vậy--tiếp tục tự nổ lực và những người khác cũng sẽ làm thế. Nó đặt trách nhiệm của toàn khoá nhiếp tâm lên đôi vai của từng vị.

Có ít nhất năm, bảy người ở đây có thể thật sự nói," Chỉ một bước nữa!"và một số quí vị đến đích này trước. Sau khóa nhiếp tâm, nhiều vị tỏ ra luyến tiếc vì không làm thêm chỉ một chút cố gắng nữa. Dostoevsky viết cho em mình rằng:" Biết rằng một cố gắng đơn độc của ý chí sẽ đủ gỡ bỏ lớp che thô thiển đó để trở nên một người đầy sức sống--biết tất cả điều này, mà vẫn sống như những sinh vật nhỏ bé cuối cùng--thật kinh khủng!"

Biết là sau khi khoá nhiếp tâm chấm dứt, một bước nhảy cuối cùng là đủ đưa quí vị vượt qua công án của mình--ai ở đây muốn bước ra khỏi khoá nhiếp tâm với điều này trong tâm?

---o0o---



LỜI BÌNH VỀ" ÐỪNG NGHĨ LÀNH CŨNG ÐỪNG NGHĨ DỮ"--CÔNG ÁN 23 TRONG VÔ MÔN QUAN CỦA VÔ MÔN

CÔNG ÁN: Ba ngày sau khi Huệ Năng đi khỏi Hoàng Mai Sơn thì tin mật truyền ý bát loan truyền khắp chốn già lam, một số tăng phẩn uất do Huệ Minh cầm đầu đuổi theo Huệ Năng. Qua một hẻm núi cách chuà khá xa, thấy nhiều người đuổi theo kịp, Huệ Năng ném cái áo pháp trên tảng đá gần đó, và nói với Huệ Minh " Áo này là vật làm tín của chư Tổ, há dùng sức mạnh mà tranh được sao? Muốn lấy thì cứ lấy đi!" Huệ Minh nắm áo cố dở lên, nhưng áo nặng như núi. Ông ngừng tay bối rối, rồi run sợ.

Tổ hỏi: Ông đến đây cầu gì? Cầu áo hay cầu pháp?

Huệ Minh thưa: Tôi cầu pháp không cầu áo.

Tổ nói: Vậy nên tạm dứt niệm tưởng, lành dữ thảy đừng nghĩ tới.

Huệ Minh vâng lời.

Giây lâu, tổ nói: Ðừng nghĩ lành, đừng nghĩ dữ, ngay trong lúc ấy đưa tôi xem cái bổn lai diện mục của ông trước khi cha mẹ chưa sanh ông.

Thoạt nghe, Huệ Minh bổng sáng tỏ ngay cáio chân lý căn bản mà bấy lâu ông đã tìm ở bên ngoài. Cái hiểu của ông bây giờ là cái hiểu của người uống nước nóng lạnh tự biết. Ông cảm động đến nổi toát mồ hôi, trào nước mắt, rồi cung kính đến gần tổ chắp tay làm lễ bạch:

Ngoài lời mật, ý mật như trên còn có ý mật nào nữa không?

Huệ Năng nói: Ðiều tôi nói với ông tức chẳng phải là mật. Nếu ông tự soi trở lại sẽ thấy cái mật ở nơi ông.

Huệ Minh thưa: Tôi bây giờ như người uống nước tự biết nóng lạnh. Thầy là thầy của tôi.

Tổ nói: Hai ta cùng chung một thầy, hãy nắm chắc những gì ngươi học được từ ngươi.

LỜI BÌNH CỦA VÔ MÔN: Về Lục tổ, phải nói rằng trong hoàn cảnh khẩn trương như vậy, ngài đã làm việc phi thường. Như một bà ngoại nhân từ; ngài lột vỏ trái vãi, lấy hột đi và đặt vào miệng, quí vị chỉ còn nuốt nó thôi.  


 

---o0o---



BÀI KỆ CỦA VÔ MÔN

Mô tả nó là vô ích,

Vẽ vời vô dụng thêm

Dừng tất cả kiếm tìm thủ đoạn

Chẳng nơi nào che dấu được chân ngã

Khi vũ trụ tận diệt, "nó" vẫn vẹn toàn.

Lục tổ Huệ Năng là một trong những ngôi sao rực rỡ trong bầu trời lịch sử Thiền. Hình như chỉ có một mình ngài có cái đởm lược dám vứt bỏ lớp áo khoát tâm linh của người Ấn độ và đặt lại vấn đề ngộ do đọc tụng và nghiên cứu kinh điển, vốn là truyền thống của Phật giáo Trung hoa. Ngài đã đặt lại nền móng cái được tìm thấy trong Pháp Bửu Ðàn Kinh, trong đó ghi lại cuộc đời, giáo lý của Ngài. Ðó là một trong hai bộ kinh duy nhất không liên quan đến tiểu sử và lời dạy của Ðức Phật.( chú thích: chữ kinh thường dùng để chỉ những bút liệu được coi là của Phật dạy, ở đây một bộ sách tập hợp những bài pháp của Lục tổ lại được tôn xưng là kinh, điều đó chứng tỏ sự ưu việt của nó trong lịch sữ Phật giáo Trung quốc. -Nguyên Thạnh)

lục tổ Huệ Năng (638-713) quê ở Tân Châu, xứ Lãnh Nam, sống vào thời nhà Ðường thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Trung Hoa. Mồ côi cha từ nhỏ, ngài phải bán củi để nuôi mẹ. Trong hoàn cảnh nghèo túng, ngài không được học hành nên không biết đọc, biết viết. Nhiều người cho rằng chính sự nghèo túng và bi kịch đấu tranh để vươn lên trong thời niên thiếu là những nhân tố hàm dưỡng sự phản tỉnh và tự lực, thúc đẩy sự giác ngộ của ngài trong bối cảnh độc đáo của lịch sử thiền.

Một ngày kia, sau khi gánh củi bán tại một tiệm khách, ngài định ra về thì nghe có người đang tụng kinh Phật. Lời kinh làm chấn động tinh thần Huệ Năng, Ông bèn hỏi khách tụng kinh gì và thỉnh ở đâu và tỏ lòng khao khát muốn học kinh với vị thầy ấy. Ðược cho biết là kinh Kim cang và vị thầy ấy là Hoàng Nhẫn ở núi Hoàng Mai.

Chỉ nghe lời kinh mà Năng đã tỏ ngộ mặc dù chưa biết toạ thiền là gì. Có lẽ lúc này một số quí vị tự hỏi," Nếu không cần phải nổ lực kịch liệt để ngộ, tại sao tôi phải chịu đựng khổ sở trong khóa nhiếp tâm? " Nếu đó là điều quí vị đang suy nghĩ , tôi hoàn toàn thông cảm với quí vị. Nhiều năm về trước khi tôi đang cảm thấy sức ép của những người bạn Nhật ở Kyoto, định rời bỏ sự gò bó khắc nghiệt của thiền viện, tôi đã đặt một câu hỏi giống như thế với thầy tôi. Ông nói:" Qủa thật hiếm có ai có tâm qúa thanh tịnh đến nổi có thể đắc ngộ mà không trải qua tu tập thiền định. Chỉ có Lục Tổ là một biệt lệ. Nhưng chắc chắn trong đời qúa khứ, ngài đã tinh tấn tu tập tự khép mình nên trong kiếp này, tâm của ngài thanh tịnh lạ thường. Trong hoàn cảnh mồ côi cha rất sớm, phải làm việc cực khổ để nuôi mẹ, chắc rằng điều này dẫn ngài mối nghi sinh tử và đắc ngộ theo cách như vậy. Còn lại với mọi người, dù tâm không thiếu sự thanh tịnh và những tự vấn kịch liệt, vẫn phải toạ thiền một cách không mệt mõi để mở rộng tâm nhãn của mình."

Trở lại câu truyện về cuộc đời của Lục Tổ, sau khi biết được vị thầy dạy kinh ấy là Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn ở núi Hoàng Mai. Huệ Năng bèn lo liệu tiền bạc để lại cho mẹ già, và lên đường cầu pháp. Mãi đến hàng tháng trời, Huệ Năng mới đến được Hoàng Mai sơn, xen lẫn với đám đồ chúng, đãnh lễ Ngũ Tổ

Ngũ Tổ hỏi: Ông từ đâu đến?

Huệ Năng đáp: Lãnh Nam.

Tổ hỏi: Ông mou61n cầu gì?

Năng đáp : Chỉ cầu thành Phật.

Tổ nói: Người Lãnh Nam không có tánh Phật, sao làm Phật được!

Huệ Năng bèn đáp: Người có Nam có Bắc, tánh Phật há như vậy sao?

Nói cách khác, Phật tánh là quyền thừa kế chung của tất cả chúng ta. Ðiều này chính Ðức phật khẳng định. Ngay khi chứng ngộ vô thượng bồ đề, Ngài đã tuyên bố," Kỳ diệu thay! Tất cả chúng sinh đều là Phật, được phú cho trí tuệ và đạo đức."

Cho tôi hỏi từng vị: Quí vị có thật tin rằng Phật đã không lầm lẫn khi nói điều này hay không? Quí vị có niềm tin vững vàng rằng bất chấp thể chất mạnh hay yếu, tinh thần bén nhạy hay u tối, thông thái hay thất học, rằng qui� vị có Phật tánh vẹn toàn, không thiếu sót. Và có thể, với tâm nguyện trong sạch và quyết tâm cao, đánh thức nó ngay chính trong khóa nhiếp tâm này không? Quí vị có đấu tranh để giải quyết " cảm giác hoài nghi"--sự mâu thuẩn giữa lời Phật dạy mọi người bẩm sinh không tì vết và bằng chứng của giác quan của quí vị cho rằng chỉ sự không hoàn hảo, trong chính bản thân mình và người khác không?

Trừ phi lời đáp của quí vị đối với những câu hỏi này là ở thể xác định. Nếu không, quí vị không thể nào mở được tâm nhãn của mình, cho dù có thường xuyên tọa thiền hay dự bao nhiêu khóa nhiếp tâm đi nữa. Qúi vị sẽ có được sự yên tỉnh của thân, sự trong sáng của tâm, tất nhiên những phẩm chất này không phải là không quan trọng, nhưng chúng không phải là ngộ. Mục đích tối hậu của tu tập thiền định là rốt ráo giác ngộ, không phải trạng thái bình yên hay năng lượng cao, bởi thứ ấy chỉ là phó phẩm của thiền. Ðể thức tỉnh, điều quan trọng là cái tâm chất vấn phát triển từ sự bối rối cơ bản, hay một khối nghi ngờ." Các Thiền sư nói," Nghi lớn, ngộ lớn; nghi nhỏ ngộ nhỏ; không nghi, không ngộ."

Trở lại câu chuyện, lời đáp của Huệ Năng làm đẹp lòng Ngũ Tổ, sư nói:" Này gã nhà quê rất giỏi miệng lưỡi, bây giờ hãy đi làm việc cùng tăng chúng. Người mới tu phải vào kho thóc giã gạo trong tám tháng."

Có bao nhiêu người trong số quí vị đến thiền viện tu tập, bị làm mất mặt trong lần đầu gặp gỡ, rồi bị làm ngơ, thậm chí không được phép vào thiề�n đường trong vòng tám tháng? Nếu Ngũ Tổ không đánh giá cao Huệ Năng, chắc chắn Tổ đã không đối xử như thế. Về phiá Huệ Năng, Ngài vẫn biểu lộ lòng tin mạnh mẽ vào Tổ và Phật tánh của chính mình.

Ngày kia, Tổ báo cáo vị nào có thể tỏ ra đạt lý đạo, Tổ sẽ truyền áo pháp để làm tổ thứ sáu. Thần Tú là người học cao nhất trong nhóm tăng chúng ở Hoàng Mai sơn, và nhuần nhã nhất về việc đạo, cố nhiên được đồ chúng coi như là người xứng đáng được hưởng vinh dự ấy, bèn làm một bài kệ trình chổ hiểu biết và viết lên vách bên chái nhà chùa. Kệ rằng:

Thân là bồ đề cội,

Tâm như gương sáng dài.

Giờ giờ siêng phủi quét,

Chớ để nhuốm trần ai.

Khi Huệ Năng nghe một ông tăng khác ngâm nga bài kệ này, Ngài biết người làm bài kệ này chưa ngộ được chân tánh. Sau đó Huệ Năng làm một bài kệ nhờ ông tăng kia chép lại bên cạnh.

Bồ đề vốn không cội,

Gương sáng cũng không dài

Nguyên chẳng có một vật

Sao gọi phủi trần ai.

Ðọc bài kệ này, Ngũ tổ biết ngay ai sáng tác nó. Ðêm đó, Tổ truyền y và bát và dặn rằng,"Kể từ nay ngươi là Tổ thứ sáu." Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn biết chư tăng sẽ không chấp nhận kẻ mới xuất gia này là người kế tục tổ, vì vậy ngài khuyên Lục Tổ Huệ Năng bí mật trở lại quê nhà, thay tên đổi họ đến khi ngộ chín muồi mới đảm đương công việc hoằng pháp. Ngài cũng nói rằng vì sự truyền y có thể trở thành nguồn gốc của sự tranh giành trong tương lai, nên kể từ đó trở đi chỉ lấy tâm truyền tâm.

Công án xoay quanh sự kiện Lục Tổ rời thiền viện mang theo y và bát. Bây giờ dù pháp truyền trong bí mật, nhưng chẳng bao lâu mọi người đều biết. Những diễn biến kế tiếp được kể tiếp trong công án:

" Một ông tăng đuổi theo Lục tổ vào hẻm núi." Ông tăng này, xưa kia từng là một viên tướng nên tánh khí thô lỗ. Nhưng đừng cho rằng ông là người xấu. Nên nhìn ông ta như một người bảo vệ pháp nhiệt tình. Ðối với ông cũng như nhiều người khác, thật không thể nào hình dung rằng pháp bảo lại được trao cho một cư sĩ không tu luyện chính thức. Sự quan tâm như vậy, dù lầm lạc, cho thấy vị tăng này đi theo Phật đạo một cách thành tín và nhiệt tâm.

" Tổ ném áo pháp trên một tảng đá gần đó và nói với ông tăng (Huệ Minh):" Áo này là vật làm tín của chư tổ, há dùng sức mà tranh được sao? Muốn lấy thì cứ lấy đi". Ðể giải quyết công án này, trước hết qúi vị phải biết tại sao Lục Tổ làm vậy, không chỉ là một cố gắng tránh bạo lực mà còn là một thách thức. Tại sao thách thức? Ðó là chướng ngại đầu tiên của công án.

"Huệ Minh nắm áo cố dở lên nhưng áo nặng như núi." Nếu quí vị cho là vị tăng này bất lực không thể di chuyển được áo, vì đột nhiên hiểu ra rằng hành động đó là một tội lỗi, ông bị tê liệt bởi cảm giác ăn năn, như thế là quí vị đang đánh giá thấp sức mạnh của pháp và của Lục Tổ ,người là hiện thân của nó! Nếu đức tin có thể dời núi thì tại sao nó không thể làm cho y và bát trở nên bất động?

" Ông ngừng tay bối rối và run sợ, 'Tôi cầu pháp, không cầu áo. Xin thầy từ bi chỉ giáo!'" Trừ phi quí vị cảm thấy được trạng thái tuyệt vọng của ông tăng này sau những lời cầu xin. Nếu không, dường như đối với quí vị, công án này không khác gì một câu chuyện ngụ ngôn về việc ăn cắp các vật dụng bình thường của chùa, và bối cảnh giác ngộ của vị tăng này có vẻ là một bí mật lớn. Chìa khóa để mở cánh cửa tâm của ông ta, nhìn thấy trạng thái hoàn toàn thất vọng, chính là sự van xin," Xin thầy từ bi chỉ giáo!" Nó biểu lộ sự thay đổi hoàn toàn của tâm. Không có sự vô ngã được diễn đạt bởi lời cầu xin này, cái ngộ của vị tăng có thể không xãy ra." William James nói," Mọi tôn giáo bắt đầu bằng tiếng kêu cứu 'Giúp tôi với!' Một trong những mô tả về ngộ trong Ba trụ thiền có đề cập chuyện này:" 'Tôi đang hấp hối,'tôi khóc sụt sùi.' Tôi đã giết tất cả vị thánh của tôi.Tôi không có bí quyết hồi sinh. Tôi hoàn toàn đơn độc.' Nổi sợ vu vơ và tuyệt vọng hoàn toàn xâm chiếm tôi và tôi nằm trên sàn nhà vì không biết bao lâu tiếng thét phát ra từ hố bụng tôi,' nếu có ai trên mặt đất này quan tâm đến là tôi đang sống hay chết, hãy giúp tôi, ồ hãy giúp tôi!'" Tâm trạng này là tiên đề cho ngộ.

Trở lại công án :" Tổ thứ sáu nói,' Khi ngươi đuổi theo ta, thì ngươi không nghĩ đến điều thiện hay ác, mà chỉ cầu đoạt báu, lúc đó chân ngã của ngươi nằm ở đâu? '"Ở đây chúng ta đến điểm trung tâm của công án. Nếu quí vị buộc phải chứng minh sự hiểu biết của mình về đoạn này trong buổi độc tham và không chỉ dùng lời để diễn tả, quí vị còn phải đặt mình vào tâm, mà phải là tâm của vị tăng đau khổ.

" Ðừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác " có nghĩ là không theo kiểu đánh và giá phán đoán vu vơ, dựng lên một bức tường chắn giữa anh và người khác, phân thế giới thành "đây với tôi" thân quen và "đó với anh" xa la.� Thiền dạy rằng mọi sự không thiện không ác, mà cả thiện cả ác, hoặc hơn nữa, bên ngoài thiện lẫn ác. "Chân ngã" là cái bản lai diện mục trước khi ta được sinh ra. Theo cách nói của một thiền sư xưa,"Ðó là chân tánh của mọi sinh vật có tri giác, đã hiện hữu trước sự khai sinh ra ta, và đang hiện hữu, không thay đổi và vĩnh viễn …Khi ta được sinh ra, chân tánh không vì thế mà được tạo và khi ta chết, nó cũng không mất đi. Chân tánh không phân biệt giống đực hay giống cái, cũng không nhuốm màu sắc nào của thiện hay ác…"

Dầu khi ấy còn trẻ, Lục Tổ hẳn nhận ra rằng đuổi theo mình là một con người tuyệt vọng, bị xô đẩy bởi thất vọng và lo âu, cũng như bởi khát khao sâu sắc tự ngộ. Nếu không thì tại sao vị tăng-cựu tướng quân này bền gan đuổi theo, theo một số tài liệu, cả trăm dặm? Hãy hình dung ông ta trong cuộc rượt đuổi. Tay chân vung vẫy mãnh liệt, mắt trợn trừng, thở hổn hển và đẩm đầy mồ hôi khi rượt đuổi vị Tổ. Khởi đầu một cách phấn khích, rồi kiên trì, và cuối cùng, một cách vô niệm cho đến khi bắt kịp ngài. Trừ phi quí vị cũng đã kinh nghiệm qua cái " đêm đen của tâm hồn", khi phải đấu tranh sôi nổi với một công án hay vấn đề tinh thần khác, với mồ hôi và nước mắt tuông trào, bạn chẳng thể nào cảm thông sâu sắc với vị tăng đau khổ. Cái tâm đang bị thúc dục bởi tham và sự kiếm-tìm-ngã đã trở nên không bị một tí ràng buộc. Không do dự, người thầy giáng ngay câu quyết định bằng lời nói hợp lúc, hẳn phải có hiệu quả như tia chớp.

Bây giờ, nói cho tôi hay: Ðâu là chân ngã của vị tăng ấy?

"Nghe được điều này, vị tăng tức thời ngộ. Toàn thân ông vả mồ hôi. Nước mắt tuông trào, ông đãnh lễ và hỏi,' Ngoài lời mật, ý mật, còn có ý mật nào nữa không?'" Có thể hiểu được câu hỏi này. Có một sự thật là người ta không nắm giữ bất kỳ cái gì mà người ta vốn không có. Ngộ thật đơn giản và rỏ ràng đến nổi thật tự nhiên để cảm nhận thấy phải có cái gì siêu hơn nữa." Lời mật, ý mật," ở đây bao hàm một sự hiểu biết chân tình. Ngộ tạo nên những cảm xúc mật thiết thân mạnh mẽ nhất. Nếu bạn đã từng bị xa rời người bạn đời hay con cái, thành viên trong gia đình, bạn cũ, bạn mới hiểu niềm vui khi gặp lại. Thực tại của Phật tánh là thực tại của quan hệ ruột thịt của mọi hình thái đời sống. Những cảm giác này quá phạm vi ngôn ngữ. Nếu có bí mật nào ở đây thì là một bí mật công khai ai cũng biết, nhưng bị lãng quên hay không được trông thấy trong cái ồn ào huyên náo của cảm xúc và ý tưởng bị cái ngã thống trị.

" Cám ơn lời chỉ giáo của thầy…tôi giống như một người đã uống nước và thật sự cảm nhận nó nóng hay lạnh." Thiền nhấn mạnh đến kinh nghiệm, nếm trải. Nếu một hình ảnh có gí trị một ngàn từ (words), người ta thích thưởng thức hình ảnh hơn. Ðể biết vị của mật ong thế nào, ta phải nếm; để biết ngộ là gì, người ta phải ngộ.

Hãy xem lòng trung thành của Tổ dành cho Tổ thứ năm:" Chúng ta cả hai có chung một thầy; hãy nắm chắc những gì ngươi học được từ người." Ngài thật sự đang nói " Hãy biết ơn vì điều thầy đã dạy ông là không có gì để học--trí tuệ vốn gắn liền với ông --và do vậy không có gì để cố gắng đạt được."

Bây giờ là lời bình của Vô môn:" Về Lục Tổ, phải nói rằng trong hoàn cảnh khẩn trương như vậy, ngài đã làm được một việc phi thường." Lời bình này dường như ngụ ý là, bị chạm trán bất ngờ sự hiện diện đầy đe doạ của người rượt đuổi và rồi với sự chuyển tâm nhanh chóng, Tổ bối rối và chợt nghĩ ra câu nói," Khi ngươi đuổi theo ta thì không nghĩ đến cái thiện hay ác…chân ngã lúc ấy của ngươi đâu?" Vô môn bề ngoài phê phán Tổ, nhưng thật ra đang ca ngợi ngài, mặc dầu ông diễn tả theo cung cách nhạo báng vốn có.

Trong Pháp Bửu Ðàn Kinh (Platform), đã được trích dẫn, có chi tiết hơi khác với công án này:" Tổ thứ sáu nói với người đuổi mình,' Vậy tạm nên dứt niệm tưởng, lành dữ thảy đừng nghĩ tới, rồi ta sẽ chỉ cho ông!' Vị tăng toạ thiền hồi lâu. Sau đó Tổ nói,' Ðừng nghĩ lành, đừng nghĩ dữ" … Lưu ý câu,"sau khi vị tăng toạ thiền hồi lâu …" Có hay không trạng thái tâm chuyển diễn ta từ toạ thiền, như trong dị bản thứ hai, hay có được từ trạng thái thiền khi chạy, như đã hàm ý trong chính công án, điều kiện tiên khởi của ngộ, tâm không bị tí gì ràng buộc, hiện diện.

Ðể tiếp tục:" Ông nhân từ như bà ngoại, ngài lột vỏ trái vãi, lấy hột đi và đặt vào miệng, qúi vị chỉ còn nuốt nó thôi." " Nhân từ như bà ngoại" là sự nhân từ quá đáng hay không cần thiết. Vô môn rõ ràng đang chê trách Lục Tổ vì cung cách nhẹ nhàng, vì đã làm nhiều hơn điều cần phải làm. Thật sự ông đang tán dương bằng cách dè bỉu. Xét cho cùng, vị tăng đến với ngộ qua ngôn từ và hành vi của Tổ có hiệu quả trong tình huống này, thực vậy,nhưng đừng cho là toàn ngộ đạt được một cách dễ dàng. Toàn ngộ đòi hỏi năm tháng toạ thiền khó khăn, nổ lực và bền bỉ." Ngộ của chính Vô môn với công án Không chỉ đạt được sau sáu năm toạ thiền kiên trì.

Cuối cùng là bài kệ của Vô môn:" Mô tả nó là vô ích, vẽ vời vô dụng thêm." Kỳ thực, khi lời nói ra đến trực tiếp từ tâm có năng lực lay chuyển chúng ta theo cách mà lời dạy, bị mất sinh khí đi do viết chẳng thể làm được, ấy thế mà mọi lời, khái niệm và hình tượng, trong điều kiện tốt nhất, của nó " có thể mở rộng vô cùng tận". Ma cảnh-- là các ảo giác và ảo ảnh--cũng chỉ là hình ảnh. Vậy chớ bám vào nó, ngay khi chúng giúp quí vị giải toả cái sự tẻ nhạt của tọa thiền vô cảm, chú tâm. Và không gắn quí vị vào danh-sắc." Chân ngã" ,"Phật tánh","tâm" --chúng thuần là sự đặt tên gợi ý cho cái không thể đặt tên hay đánh giá , cho cái vô hình tướng, dầu có mọi hình tướng.

Không thể nào ca ngợi đầy đủ:" Dừng tất cả kiếm tìm thủ đoạn." Vô môn đang nói rằng không gì sánh bằng ngã-vô-sắc-tướng này, tại sao lại tìm cái gì khác? Hãy ngừng theo đuổi các thú vui hão huyền khác. Mò mẫm và tìm kiếm này chẳng bao giờ đem quí vị đến sự ngộ chân ngã của mình.

" Không nơi nào che dấu được chân ngã." Chân ngã hiển biểu lộ ở mọi nơi, ngay dưới mũi quí vị--không, nó là mũi của qúi vị. Ðể che dấu, chân ngã của qúi vị phải đứng ngoài vũ trụ niệm( every conceivable universe) phải không?"Khi vũ trụ tận diệt, 'nó' vẫn vẹn toàn." Chân ngã của quí vị chẳng thể bị hũy hoại, bởi chính lý do nó là sự hũy hoại. Chân ngã không được sinh ra, nó chẳng thể bị diệt. Dầu rằng nó là sức sáng tạo phía sau mỗi sự vật đơn giản.

---o0o---




tải về 1.46 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương