Đại sư Ngẫu Ích toát yếu kinh



tải về 1.17 Mb.
trang8/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.17 Mb.
#30362
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   14

Kế đến, so sánh phước vượt trội hơn.

Kế đến, hỏi: Bồ-tát mới phát tâm phải tư duy điều gì?

Phật dạy: Bồ-tát mới phát tâm phải luôn luôn chính tư duy nhất thiết tướng trí lấy vô tính làm tính, vô tính làm sở duyên, chính niệm làm tăng thượng duyên, tịch tĩnh làm hành tướng, vô tướng làm tướng.



Lại hỏi: Sắc… cũng lấy vô tính làm tính?

Phật ấn khả lời ấy.

Lại hỏi: Vì sao nhất thiết tướng trí lấy vô tính làm tính, sắc… cũng lấy vô tính làm tính?

Phật dạy: Vì tự tính của nhất thiết tướng trí là không. Nếu tự tính của pháp là không thì pháp lấy vô tính làm tính, sắc… cũng vậy.

Lại hỏi: Vì sao tự tính của nhất thiết tướng trí là không?

Phật dạy: Vì tự tính không có hòa hợp. Nếu tự tính của pháp không có hòa hợp thì lấy vô tự tính của pháp là tính, sắc… cũng vậy.

Lại nữa, tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện làm tự tính, đều lấy chân như, pháp giới… làm tự tính.

Thiện Hiện hỏi Phật: Nếu tất cả pháp lấy vô tính làm tự tính thì Bồ-tát mới phát tâm thành tựu những phương tiện thiện xảo nào mà có khả năng hành bô thí…, có khả năng trụ nội không… thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi nước Phật?

Phật dạy: Bồ-tát mới phát tâm tuy tu học biết tất cả pháp đều lấy vô tính làm tự tính nhưng thường siêng năng tinh tấn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi nước Phật. Tuy thường siêng năng tinh tấn thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi nước Phật mà siêng năng tu học biết các hữu tình và các cõi nước Phật đều lấy vô tính làm tự tính. Vị Bồ-tát này tuy hành bố thí…, trụ nội không…, học đạo bồ-đề mà biết đạo bồ-đề lấy vô tính làm tính. Như vậy tu hành bố thí… an trụ nội không… học đạo bồ-đề cho đến chưa đắc mười lực Như Lai đều bị gọi là học đạo bồ-đề chưa được viên mãn.

Nếu đối với đạo này đã được viên mãn thì tất cả ba-la-mật-đa cũng đã viên mãn. Do một sát-na tương ưng diệu huệ, chứng đắc Như Lai nhất thiết tướng trí, dùng Phật nhãn thanh tịnh không chướng ngại xem thấy hết các pháp trong mười phương ba cõi còn chẳng thấy là không huống là thấy có. Bồ-tát này có phương tiện thiện xảo ưu việt hơn hết, đó là hành Bát-nhã thấy tất cả pháp còn chẳng không huống là thấy có. Vị Bồ-tát này thường nghĩ: “Các pháp thường lấy vô tính làm tính”. Vô tính này xưa nay tính vốn tự như thế, chẳng phải do Phật làm ra, vì tất cả pháp đều không có người tạo tác, lìa người làm ra.

Thiện Hiện hỏi Phật: Tất cả pháp đều lấy vô tính làm tính, tại sao Bồ-tát tu hành Bát-nhã hiển bày các pháp hoặc có hoặc không?

Phật dạy: Vì thuận theo thế tục nên hiển bày chứ chẳng phải y theo thắng nghĩa.

Hỏi: Thế tục và thắng nghĩa có khác nhau chăng?

Phật đáp: Không! Thế tục và chân như tức là vọng chấp điên đảo về thắng nghĩa, không biết không thấy chân như này, vì thương xót họ nên thuận theo tướng thế tục mà hiển bày các pháp hoặc có hoặc không.

Lại nữa, hữu tình khởi ý tưởng chấp thật có các pháp năm uẩn…, vì xót thương họ, Bồ-tát phân biệt các pháp hoặc có, hoặc không để cho họ biết các pháp đều chẳng phải thật có.

PHẨM THỨ 63: HẠNH PHƯƠNG TIỆN

THIỆN XẢO
Thiện Hiện hỏi Phật: Phải thực hành hạnh Bồ-tát ở đâu?

Phật dạy: Phải hành sắc ... “không” là thực hành hạnh Bồ-tát. Như Phật-bồ-đề ở trong các pháp không thấy có hai tướng.

Kế đến đáp về nghĩa của danh từ Phật, bồ-đề.

Thiện Hiện hỏi: Lúc hành bố thí, lúc trụ nội không, ở trong pháp nào là ích, là tổn, là tăng, là giảm, là sinh, là diệt, là nhiễm, là tịnh?

Phật dạy: Bồ-tát vì bồ-đề nên lúc hành bố thí, lúc trụ nội không, đối với tất cả pháp không ích, không tổn, cho đến không nhiễm, không tịnh.

Lại hỏi: Nếu vì bồ-đề mà hành Bát-nhã thâm diệu lấy vô sở duyên đối với tất cả pháp làm phương tiện, chẳng cho là ích, chẳng cho là tổn cho đến chẳng cho là nhiễm, chẳng cho là tịnh. Hiện tại trước mắt, làm sao nhiếp thụ sáu độ, mười hai không...?

Phật dạy: Vì chẳng lấy đối đãi nhiếp thụ bố thí... cho đến chẳng lấy đối đãi chứng đắc bồ-đề.

Hỏi: Nếu chẳng lấy đối đãi nhiếp thụ bố-thí... thì làm sao từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, lúc nào pháp lành cũng lớn mạnh thêm?

Phật dạy: Nếu vì đối đãi mà tu hành thì các pháp lành chẳng được lớn mạnh thêm. Vì tu hành không đối đãi nên căn lành vững chãi, không bị hạn chế.

Kế đến, Phật dạy: Nếu không cung kính cúng dường các đức Phật thì không thể trọn vẹn căn lành, chẳng được bạn lành trợ giúp thì không thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Lại nữa, tuy cung kính cúng dường các đức Phật nhưng xa lìa sức phương tiện thiện xảo thì cũng vẫn không thể nào chứng đắc trí nhất thiết trí. Nhân đó, Phật nói cặn kẽ về các hình thái của phương tiện thiện xảo tu sáu độ và cách tu tất cả pháp lành.

PHẨM THỨ 64: HỌC RỘNG VỀ ĐẠO
Phật bảo Thiện Hiện: Bồ-tát có khả năng không động đối với tự tính vô tính của sắc...

Thiện Hiện hỏi: Pháp hữu tính có thể hiện chứng vô tính hay không? Pháp vô tính có thể hiện chứng hữu tính hay không? Pháp hữu tính có thể hiện chứng hữu tính hay không? Pháp vô tính có thể hiện chứng pháp vô tính hay không?

Phật đều đáp: Không!

Hỏi: Chẳng lẽ Thế Tôn chẳng đắc hiện quán?

Phật dạy: Thế Tôn có đắc hiện quán nhưng ly bốn câu phi hữu phi vô, bặt các hí luận mới được gọi là hiện quán, đắc cũng như vậy.

Hỏi: Hí luận là gì?

Phật dạy: Quán sắc... hoặc thường hoặc vô thường cho đến hoặc là sở biến tri, hoặc chẳng phải là sở biến tri, đó là hí luận.

Lại nữa, nếu Bồ-tát nghĩ: Phải nên biết hết về khổ, phải nên dứt hẳn tập, phải nên chứng diệt, phải nên tu tập đạo, phải nên tu bốn tĩnh lự, phải nên vượt lên quả Dự lưu, phải nên hành bố thí, phải nên trụ nội không, phải nên nhập vào chính tính ly sinh, phải nên viên mãn chính hạnh Thập địa, phải nên thành thục hữu tình, phải nên nghiêm tịnh cõi Phật, phải nên khởi mười lực Phật, phải nên đoạn tập khí phiền não, phải nên chứng vô thượng bồ-đề. Đó là hí luận.

Lại nữa, lúc Bồ-tát hành Bát-nhã thâm diệu phải nên quán sắc... hoặc thường hoặc vô thường vì chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận.

Lại nữa, lúc Bồ-tát quán bốn thánh đế hoặc nên biến tri hoặc chẳng nên biến tri vì chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận. Vì tất cả pháp hữu tính chẳng thể hí luận hữu tính, vô tính chẳng thể hí luận vô tính, hữu tính chẳng thể hí luận vô tính, vô tính chẳng thể hí luận hữu tính, lìa hữu tính, vô tính thì pháp chẳng thể thủ đắc, hoặc năng hí luận, hoặc sở hí luận, hoặc nơi hí luận, đều hoàn toàn không thật có. Thế nên, sắc… không hí luận cho đến Phật bồ-đề cũng không hí luận. Bồ-tát nên hành Bát-nhã thâm diệu không hí luận.

Thiện Hiện hỏi Phật: Quán tất cả pháp như thế nào để không có hí luận?

Phật dạy: Quán sắc… không có tự tính. Nếu pháp không có tự tính thì chẳng nên hí luận, vì thế sắc… không có hí luận.

Hỏi: Bồ-tát nhờ đạo nào được vào chính tính ly sinh?

Phật dạy: Chẳng phải nhờ đạo Thanh văn, chẳng phải nhờ đạo Độc giác, chẳng phải nhờ Phật đạo. Nhưng trước tiên phải học hết tất cả đạo, rồi nhờ đạo bồ-tát mà vào chính tính ly sinh nghĩa là Bồ-tát từ lúc mới phát tâm dũng mãnh siêng tu sáu độ dùng trí kiến thù thắng vượt qua tĩnh quán đến Độc giác ngang bằng Bát địa, dùng đạo tướng trí mà vào chính tính ly sinh. Lại dùng nhất thiết tướng trí dứt hẳn tập khí vào Như Lai địa cho đến thành tựu trí nhất thiết trí. Chỗ của Bồ-tát này học là đệ bát địa cho đến Độc giác hoặc trí hoặc đoạn đều là pháp nhẫn của Đại Bồ-tát.

Hỏi: Tại sao phải khởi nhất thiết tịnh đạo tướng trí?

Phật dạy: Nếu các tướng hành trạng hiển phát được tịnh đạo tướng trí thì Bồ-tát hiện Đẳng giác tuyên thuyết chỉ bày đúng như thật để cho các hữu tình được sự hiểu biết đúng đắn mà được lợi lạc. Bồ-tát khéo léo vận dụng ngôn từ thuyết pháp cho các hữu tình được nghe như tiếng dội trong hang tuy họ có thấu hiểu nhưng không chấp trước. Bồ-tát phải biết đúng như thật nhưng thứ sai khác về tùy miên, ý nhạo của các hữu tình. Bồ-tát phải biết đúng như thật nhân quả trong sáu đường thụ sinh, tùy theo người đáng được độ mà đưa họ thoát khỏi luân hồi. Bồ-tát phải biết đúng như thật ba mươi bảy phẩm trợ đạo cho đến ba trí, ba thừa và nhân quả, dùng đạo này an lập hữu tình.

Thiện Hiện bạch Phật: Nếu tất cả loại pháp bồ-đề phần và các bồ-đề đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải bất tương ưng, chẳng hợp, chẳng tan, chẳng hình sắc, chẳng thấy, chẳng đối đãi, một tướng đó là vô tướng thì tại sao pháp bồ-đề phần này có thể thủ chứng bồ-đề? Ví như hư không không lấy không bỏ tất cả pháp vì tự tướng là không. Các pháp cũng vậy, tự tướng đều không, chẳng phải có lấy có bỏ đối với các pháp khác.

Phật dạy: Đúng thế, đúng thế! Nhưng các hữu tình không hiểu nghĩa tất cả pháp tự tướng không, vì xót thương họ, Như Lai phương tiện tuyên thuyết pháp bồ-đề phần có thể thủ chứng bồ-đề.

Lại nữa, tất cả pháp như sắc… ở trong Thánh pháp tỳ-nại-da đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải bất tương ưng cho đến một tướng tức là vô tướng. Đức Phật vì lợi ích hữu tình, khiến cho họ hiểu đúng thâm nhập vào thật tướng các pháp mà dùng thế tục diễn nói, chứ chẳng phải dùng thắng nghĩa.

Bồ-tát đã học, đã dùng trí huệ thấy pháp nhị thừa, thông hiểu đúng như thật biết rằng chẳng nên thiếp thụ. Bồ-tát đã học và dùng trí huệ thấy các pháp tương ưng với trí nhất thiết trí thông hiểu đúng như thật tất cả mọi thứ tướng cần phải nên nhiếp thụ.

Thiện Hiện lại hỏi: Nếu Bồ-tát chẳng học các pháp tướng này thì cũng phải chẳng học các hành tướng. Đã chẳn học thì làm sao có thể vượt lên trên hàng Nhị thừa cho đến dùng ba thừa an lập hữu tình để họ thoát khổ?

Phật dạy: Nếu tất cả pháp thật hữu tướng thì Bồ-tát là ra phải ở trong đó học, nhưng vì tất cả pháp thật chẳng phải hữu tướng, không hình sắc, không thấy, không đối đãi, một tướng đó là vô tướng. Vì thế, Bồ-tát chẳng nên học pháp hữu tướng cũng chẳng nên học pháp vô tướng.

Hỏi: Nếu như vậy, làm sao Bồ-tát tu Bát-nhã vượt lên trên hàng Nhị thừa cho đến an lập hữu tình?

Phật dạy: Như lời ông nói, tất cả pháp chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng. Nếu Bồ-tát biết tất cả pháp hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng một tướng, đó là vô tướng. Tu vô tướng này tức là tu Bát-nhã.

Hỏi: Vì sao tu vô tướng này là tu Bát-nhã?

Phật dạy: Nếu tu trừ bỏ sắc… cũng trừ bỏ luôn cả pháp tu này tức là tu Bát-nhã.

Hỏi: Vì sao tu trừ bỏ sắc… cũng là trừ bỏ pháp tu này?

Phật dạy: Nếu nghĩ có sắc…, có trừ bỏ pháp tu này thì chẳng phải tu Bát-nhã. Vì sao? Vì chẳng phải người có tưởng có thể tu Bát-nhã, thế nên tu trừ bỏ sắc… cũng trừ bỏ pháp tu này, tức là tu Bát-nhã.

Lại nữa, người trụ hữu tưởng hoặc tu bố thí… hoặc trụ nội không… chắc chắn sẽ chấp có Ngã và ngã sở, chấp hai bên chẳng giải thoát sinh tử, rồi cho rằng không có đạo, không có niết-bàn.

Hỏi: Thế nào là tu đúng về bố thí và trụ nội không? Cái gì là hữu? Cái gì là phi hữu?

Phật dạy: Hai là hữu, không hai là phi hữu. Sắc tưởng… là hai, sắc tưởng… không là không hai, cho đến tất cả tưởng đều là hai, cho đến tất cả hai đều là hữu, cho đến tất cả hữu đều có sinh tử chẳng thể giải thoát. Các tưởng không đều là không hai, đều là phi hữu, đều là không sinh tử thì có thể giải thoát. Do tất cả hữu mang cái tưởng thấy hai này nên chắc chắc không có sáu độ, không có đạo, không có quả, cũng không có hiện quán cho đến thuận nhẫn. Các thứ ấy còn phi hữu huống là có biến tri sắc…, huống là đắc thánh quả ba thừa.

PHẨM THỨ 65: BA TẦNG LỚP


Thiện Hiện thưa hỏi Phật: Người trụ hữu tưởng nếu không có đạo quả thì người trụ vô tưởng há có đạo quả?

Phật đáp: Đúng thế!

Hỏi: Lúc Bồ-tát tu hành Bát-nhã thâm diệu là có hữu tưởng, có vô tưởng chăng? Là có tưởng về sắc… chăng? Là có tưởng về sắc và có tưởng về sắc… đoạn chăng?

Phật dạy: Đối với tất cả pháp, đều không có tưởng cũng không có vô tưởng, phải biết tức là thuận nhẫn, tức là tu đạo, tức là đắc quả. Phải biết vô tính tức là đạo Bồ-tát, vô tính tức là hiện quán của Bồ-tát.

Hỏi: Nếu tất cả pháp đều lấy vô tính làm tự tính thì tại sao Như Lai hiện đẳng giác rồi đều được tự tại đối với tất cả pháp và các cảnh giới?

Phật dạy: Xưa kia lúc ta tu học đạo Bồ-tát, tu đúng sáu độ, nhập bốn tĩnh lự; đối với các tĩnh lự và các phần thuộc tĩnh lự tuy đã chứng đắc mà không hề chấp trước, không say đắm, đều vô sở đắc, không phân biệt, an trụ trọn vẹn trong đó. Đã thuần thục rồi phát khởi năm thứ thần thông cũng không chấp trước, không phân biệt. Dùng một sát-na tương ưng huệ chứng đắc Vô thượng bồ-đề. Đó là hiện đẳng giác bốn đế đều vô sở hữu, thành tựu vô biên công đức của mười lực… làm cho hữu tình trong ba cõi đều được lợi lạc.

Hỏi: Vì sao Như Lai có thể lấy vô tính làm tự tính bốn tĩnh lự, lấy vô tính làm tự tính năm thần thông, chứng vô tính thành tự tính bồ-đề, lập vô tính thành tự tính hữu tình, làm cho hữu tình trong ba cõi được lợi lạc?

Phật dạy: Nếu các pháp tham dục ác, bất thiện có một chút tự tính hoặc lấy tha tính làm tự tính thì Ta không nên thông đạt vô tính kia là tự tính rồi có thể nhập tĩnh lự. Vì nó không có tự tính, tha tính, chỉ lấy vô tính làm tự tính, cho nên Ta thông đạt rồi có thể nhập tĩnh lự, nói rộng ra năm thông cho đến hữu tình cũng vậy.

Hỏi: Tại sao ở trong pháp vô tính làm tự tính có tầng lớp hạnh nghiệp, tầng lớp học, tầng lớp hành, do đó chứng đắc bồ-đề?

Phật dạy: Bồ-tát nghe nói tất cả hữu tình, tất cả hạnh, tất cả pháp đều lấy vô tính làm tự tính rồi suy tư thấu hiểu, phát tâm hướng đến bồ-đề, vì độ hữu tình mà thực hiện tầng lớp hạnh nghiệp, tu tầng lớp học, hành tầng lớp hạnh. Như các Bồ-tát ở thời quá khứ theo thứ lớp tu hành sáu độ, sáu niệm, hai mươi không… Bồ-tát học tất cả pháp như thế đều lấy vô tính làm tự tính, ở trong đó còn không có một chút ý niệm có thể thủ đắc huống là có ý niệm về sắc…

Hỏi: Vậy thì lẽ ra không có sắc… cho đến tất cả pháp đều không?

Phật dạy: Trong tất cả pháp đều lấy vô tính làm tự tính có thể thủ đắc hữu tính vô tính chăng?

Thiện Hiện đáp: Không!

Phật dạy: Nếu hữu tính, vô tính đều chẳng thể thủ đắc thì tại sao có câu hỏi: “Lẽ ra không có sắc…”

Thiện Hiện bạch Phật: Con không có nghi ngờ đối với pháp này, nhưng vào đời sau sẽ có các Bí-sô cầu ba thừa, họ sẽ nói: “Phật nói tất cả pháp đều lấy vô tính làm tự tính thì ai nhiễm, ai tịnh, ai trói, ai mở. Vì họ không hiểu rõ về nhiễm, tịnh, trói, mở cho nên họ phá giới, phá kiến, phá giới nghị, phá tịnh mạng, sẽ đọa vào ba nơi thống khổ chịu các thứ khổ, luân hồi sinh tử, khó được giải thoát. Con thấy đời sau có những việc đáng sợ như vậy, vì thế con hỏi Như Lai về nghĩa thâm diệu này.

Phật dạy: Hay thay! Đúng như lời ông nói, hữu tính, vô tính đều không thể thủ đắc, chẳng nên chấp có vô tính.

PHẨM THỨ 66: VÔ TƯỚNG VÔ ĐẮC
Phật bảo Thiện Hiện: Nếu tất cả pháp đều lấy vô tính làm tự tính, Bồ-tát thấy nghĩa lý gì mà vì lợi lạc hữu tình cầu hướng đến Bồ-đề?

Phật dạy: Vì tất cả pháp đều lấy vô tính làm tự tính nên Bồ-tát vì lợi lạc hữu tình mà cầu hướng đến Bồ-đề. Vì sao? Vì hữu tình đủ cả hai kiến chấp đoạn và thường, trụ có sở đắc, khó thể điều phục, ngu si điên đảo, khó thể giải thoát. Do vì có tưởng sở đắc nên không có đắc, không có hiện quán cũng không có bồ-đề. Nếu vô sở đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là bồ-đề, vì chẳng hoại pháp giới. Nếu có người ở trong vô sở đắc này muốn có sở đắc, muốn đắc hiện quán, muốn đắc bồ-đề, phải biết người đó vì muốn hoại pháp giới.

Thiện Hiện hỏi: Tại sao có Cực hỷ địa…?

Phật đáp: Vì tất cả pháp vô sở đắc nên có Cực hỷ địa.

Hỏi: Sáu độ có gì sai biệt?

Phật đáp: Vô sở đắc đều không có sai biệt, nhưng vì muốn cho người có sở đắc lìa đắm nhiễm nên tạm nói có tướng sai biệt.

Hỏi: Vì sao vô sở đắc đều không có tướng sai biệt?

Phật dạy: Không thủ đắc hạnh bố thí, không thủ đắc người bố thí, không thủ đắc người thụ nhận của bố thí, không thủ đắc vật bố thí mà thực hành bố thí cho đến không thủ đắc tất cả Phật pháp mà đắc Vô thượng bồ-đề. Bồ-tát tu hành Bát-nhã vô sở đắc này, ma và bè đảng của ma không phá hoại được.

Hỏi: Tại sao một tâm bao gồm hết tất cả các pháp?

Phật dạy: Bố thí, nội không mà Bồ-tát tu hành đều chẳng lìa Bát-nhã, đều được bao gồm trong Bát-nhã. Cũng vậy, một sát-na tâm bao gồm hết tất cả các pháp.

Hỏi: Tại sao các hạnh của Bồ-tát đều chẳng lìa Bát-nhã vì được Bát-nhã nhiếp thụ, cũng vậy, một sát-na tâm bao gồm hết các hạnh bố thí…?

Phật dạy: Vì bố thí, nội không của Bồ-tát thực hành và an trụ đều được Bát-nhã nhiếp thụ nên xa lìa ý tưởng thấy hai (đối đãi).

Hỏi: Tại sao tuy hành bố thí… mà không có ý tưởng thấy hai?

Phật dạy: Vì muốn viên mãn thí độ nên ngay ở trong thí độ nhiếp thụ tất cả Phật pháp mà hành bố thí. Do nhân duyên này mà không có ý tưởng thấy hai, nói rộng ra cho đến tu tám mươi tùy hình hảo cũng vậy.

Lại nữa, lúc hành bố thí, Bồ-tát trụ nơi tâm vô lậu mà hành bố thí cho nên không có ý tưởng thấy hai.

Lại hỏi: Tại sao trụ nơi tâm vô lậu mà hành bố thí…?

Phật dạy: Vì lìa tâm chấp tướng mà tu hành bố thí…

Hỏi: Trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, làm sao có thể viên mãn bố thí…?

Phật đáp: Vì lấy tâm vô lậu ly tướng mà thực hành bố thí…

Phật nói cặn kẽ về hành tướng của mỗi hạnh.

PHẨM THỨ 67:

PHÁP NGHĨA KHÔNG LẪN LỘN


Thiện Hiện bạch Phật: Tại sao trong pháp tất cả pháp vô tạp, vô tướng, tự tướng không mà có thể tu viên mãn sức độ?

Tại sao ở trong tất cả pháp vô lậu, vô sai biệt mà thiết lập các pháp sai biệt và có thể nhận biết?

Tại sao ở trong Bát-nhã nhiếp thụ tất cả pháp thế gian và xuất thế gian?

Tại sao trong tất cả pháp có tướng khác nhau mà lập ra một tướng, đó là vô tướng. Và ở trong pháp một tướng vô tướng thành lập các pháp tướng sai biệt?

Phật đáp: An trụ trong năm uẩn như mộng, như vang cho đển như việc biến hóa mà tu hành sáu độ, biết đúng như thật năm uẩn như mộng… đều vô tướng. Vì sao? Các mộng, vang… đều vô tự tính, vô tính thì vô tướng, vô tướng thì một tướng. Do nhân duyên này, bố thí vô tướng, người thí vô tướng, người nhận vô tướng, vật thí vô tướng. Nếu biết như vậy mà thực hành bố thí thì viên mãn được thí độ, thì không xa lìa sáu độ, thì có thể viên mãn tất cả Phật pháp. Nói rộng ra cho đến Bát-nhã cũng vậy.

PHẨM THỨ 68: CÁC LOẠI HÌNH CÔNG ĐỨC


Thiện Hiện bạch Phật: Tại sao các pháp như mộng như âm vang… mà có thể an lập là thiện, là bất thiện cho đến là bồ-đề, là năng chứng?

Phật dạy: Bọn phàm phu thủ đắc mộng, thủ đắc người thấy mộng cho đến thủ đắc việc biến hóa, thủ đắc người thấy việc biến hóa. Thủ đắc rồi, điên đảo chấp trước, tạo tác ba nghiệp thân, miệng, ý, phước, phi phước, biết động hạnh, qua lại sinh tử, lưu chuyển vô cùng. Bồ-tát thực hành Bát-nhã thâm diệu quán sát thị không (ngã không, pháp không) rốt ráo không có giới hạn, an trụ nhị không rốt ráo không có giới hạn, tuyên thuyết chính pháp cho các hữu tình biết rằng: Sắc… tức là không, không có Ngã, ngã sở; biết trong đây không có sắc…, không có mộng… cũng không có người thấy mộng…, tất cả pháp đều không có thật, đều lấy vô tính làm tự tính. Các ông vì sức phân biệt hư vọng mà ở trong không có sắc thấy có sắc cho đến ở trong không có pháp vô vi thấy có pháp vô vi. Phải biết tính của tất cả pháp uẩn, xứ, giới đều sinh khởi từ các duyên hòa hợp kiến lập một cách điên đảo, bị các nghiệp dị thục nhiếp thụ, các ông tại sao đối với pháp hư vọng, không thật lại khởi ra ý tưởng cho là thật! Lúc đó, Bồ-tát tu hành Bát-nhã, dùng phương tiện thiện xảo cứu vớt hữu tình dạy họ tu tất cả Phật pháp như bố thí… Nếu các hữu tình tham đắm phước quả bố thí hữu vi, Bồ-tát dùng các phương tiện giáo hóa để cho họ trụ ba thừa. Vị Bồ-tát này quán sát an trụ nhị không rốt ráo không giới hạn. Tuy biết các pháp như mộng, như âm vang mà có thể an lập là thiện, là phi thiện… không có lẫn lộn, thật đặc biệt, thật hy hữu.

Kế đó, đức Phật còn phân tích các pháp thật đặc biệt, thật hy hữu của Bồ-tát. Đó là các pháp trụ dị thục sinh bố thí… cho đến pháp tứ nhiếp…

Thiện Hiện bạch Phật: Nếu tất cả pháp, tất cả hữu tình, tự tính rốt ráo đều chẳng thể thủ đắc, tại sao Bồ-tát tu hành bố thí… an trụ nội không… cho đến trụ dị thục sinh sáu món thần thông rồi, vì các hữu tình thuyết pháp.

Bạch Thế Tôn! Trong chẳng thể thủ đắc, không có hữu tình, không có hữu tình được kiến lập, không có sắc…, không có sắc… được kiến lập, pháp của tất cả hữu tình và kiến lập đã chẳng thể thủ đắc thì tại sao Bồ-tát thuyết pháp cho các hữu tình nghe? Vì sao? Vì lúc Bồ-tát tu hành Bát-nhã thâm diệu còn chẳng thủ đắc Bồ-đề huống là có pháp Bồ-đề phần có thủ đắc, còn chẳng thủ đắc Bồ-tát huống là có pháp Bồ-tát có thể thủ đắc.

Phật dạy: Đúng thế! Tất cả hữu tình, hữu tình được kiến lập, tất cả pháp, pháp được kiến lập đều chẳng thể thủ đắc, vì vô sở hữu. Phải nên biết nội không cho đến vô tính tự tính không, chân như không cho đến bất tư nghị giới không, khổ thánh đế không, tập diệt đạo thánh đế không, sắc không cho đến tám mươi tùy hình hảo không. Bồ-tát thấy tất cả pháp thảy đều không rồi, vì các hữu tình thuyết pháp để cho họ lìa điên đảo mà đối với hữu tình và pháp đều vô sở đắc, đối với các tướng không chẳng thêm, chẳng bớt, chẳng lấy, chẳng bỏ. Do đó, tuy thuyết các pháp mà không có thuyết gì hết; đối với tất cả pháp, được trí vô chướng ngại, không phá hoại các pháp, không có hai, không có riêng biệt như đức Như Lai biến hóa ra giáo hóa chúng do Như Lai biến hóa ra (không thật).

Tùy chẳng phân biệt, phá hoại tướng các pháp mà có khả năng đúng như thật an lập hữu tình trụ vào chỗ cần phải trụ.

Chẳng phải pháp vô tính trụ pháp vô tính, chẳng phải pháp hữu tính trụ pháp hữu tính, chẳng phải pháp vô tính trụ pháp hữu tính, chẳng phải pháp hữu tính trụ pháp vô tính, chẳng phải pháp tự tính trụ pháp tự tính, chẳng phải pháp tha tính trụ pháp tha tính, chẳng phải pháp tự trụ pháp tự tính. Vì sao? Tất cả pháp này đều chẳng thể thủ đắc. Pháp chẳng thể thủ đắc thì làm sao trụ! Bồ-tát lấy “không” để trừ bỏ các pháp cũng có khả năng nói đúng sự thật để chỉ dạy hữu tình.

Thiện Hiện hỏi Phật: Nếu chân pháp giới, chân như thật tế không chuyển đổi vượt lên thì sắc… có khác với pháp giới, chân như thật tế hay không?

Phật đáp: Không khác.

Hỏi: Nếu không khác, tại sao Thế Tôn dạy rằng pháp ác của quả báo ác, pháp thiện của quả báo thiện, pháp phi thiện phi ác cảm quả báo phi thiện phi ác?

Phật đáp: Đó là nói theo thế tục đế, chứ chẳng phải thắng nghĩa đế. Trong thắng nghĩa đế chẳng nên nói có nhân quả sai khác. Sắc… không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh vì tất cánh không vô tế không.

Hỏi: Nếu theo thế tục nói nhân quả mà chẳng dựa vào thắng nghĩa thì hàng phàm p hu lẽ ra phải có quả ba thừa?

Phật dạy: Hàng phàm phu chẳng biết đúng về thế tục đế và thắng nghĩa đế, không có thánh quả không có tu Thánh đạo thì làm sao có Thánh quả! Chỉ có bậc Thánh biết đúng về hai đế, mới có Thánh đạo, có tu Thánh đạo, đắc có Thánh đạo sai biệt.

Lại nữa, Bồ-tát không chấp trước các pháp và cũng không dạy người khác chấp trước các pháp. Vì không chấp trước nên ở đâu cũng được vô ngại, như người được Phật biến hóa ra tuy tu hành bố thí… nhưng không thụ nhận, không chấp trước vào quả báo của bố thí mà chỉ vì độ hữu tình bát nê-hoàn.

PHẨM THỨ 69: CÁC PHÁP BÌNH ĐẲNG


Thiện Hiện bạch Phật: Thế nào là thấu đáo thật tướng của tất cả pháp?

Phật dạy: Như người do Phật biến hóa ra không hành tham… cho đến không hành đạo quả, không hề hành đối với tất cả pháp. Đây gọi là thấu đáo thật tướng các pháp, cũng có nghĩa là không phân biệt đối với pháp tính.

Hỏi: Tất cả sắc đều như biến hóa ra, phải không?

Phật đáp: Đúng thế, tất cả pháp đều như biến hóa ra.

Hỏi: Các thứ Biến hóa ra đều không có thật sắc thì tại sao Bồ-tát làm lợi lạc cho các hữu tình?

Phật hỏi lại: Bồ-tát có thấy hữu tình thoát khỏi ba cõi chăng?

Thiện Hiện đáp: Không.

Phật nói: Bồ-tát thấy tất cả pháp đều như huyễn hóa.

Hỏi: Vậy thì vì việc gì mà tu bố thí…?

Phật đáp: Nếu các hữu tình biết được tất cả pháp đều như huyễn hóa thì Bồ-tát chẳng cần phải trải qua vô số kiếp hành đạo để cứu độ hữu tình. Do vì hữu tình tự chẳng thể biết được các pháp đều như huyễn hóa, thế nên Bồ-tát phải hành đạo để cứu độ hữu tình.

Lại nữa, nếu Bồ-tát chẳng biết đúng như thật các pháp đều như huyễn hóa thì chẳng thể trải qua vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát, nghiêm tịnh cõi nước Phật, thành thục hữu tình. Vì Bồ-tát biết đúng như thật các pháp đều như huyễn hóa, nên trải qua vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát.



tải về 1.17 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương