Đại sư Ngẫu Ích toát yếu kinh



tải về 1.17 Mb.
trang5/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.17 Mb.
#30362
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

PHẨM THỨ 42: BẤT TƯ NGHỊ
Thiện Hiện bạch Phật: Bát-nhã thâm diệu vì là việc trọng đại nên hiện ra ở thế gian, vì là việc chẳng thể nghĩ bàn, vì là việc không thể cân lường, vì là việc không có số lượng, vì là việc không có gì sánh bằng nên hiện ra ở thế gian.

Phật dạy: Đúng thế, đúng thế!

Thiện Hiện hỏi: Chỉ có Phật tính, Như Lai tính, tự nhiên pháp tính, nhất thiết trí trí tính, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, không có số lượng, không có gì sánh bằng hay còn có pháp nào khác nữa?

Phật đáp: Sắc… cũng chẳng thể nghĩ bàn cho đến không có gì có thể sánh bằng. Lại nữa, sắc… chẳng thể thiết lập, chẳng thể nghĩ bàn cho đến tính không có gì có thể sánh bằng.

Thiện Hiện bạch Phật: Vì lý do gì?

Phật đáp: Vì sắc… chẳng thể thiết lập, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, chẳng có số lượng, chẳng có tính bình đẳng và bất bình đẳng.

Thiện Hiện hỏi tiếp: Vì lý do gì?

Phật đáp: Vì tự tính của sắc… chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, không có số lượng, không có gì sánh bằng là vô tự tính. Ý ông nghĩ sao? Sắc… chẳng thể nghĩ bàn cho đến không có gì sánh bằng, sắc… trong vô tự tính có thể thủ đắc chăng?

Thiện Hiện thưa: Không thể thủ đắc.

Phật nói: Đúng thế! Do đó tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn cho đến không có gì sánh bằng, vì tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn cho đến không có gì sánh bằng Phật pháp, Như Lai pháp, tự nhiên pháp, nhất thiết trí trí pháp của tất cả Như Lai cũng không thể nghĩ bàn cho đến không có gì sánh bằng vì dứt hết nghĩ bàn, dứt hết cân lường, dứt hết số lượng, dứt hết so sánh, chỉ có tăng ngữ (lời nói thêm) như hư không. Lúc ấy bốn chúng được lợi ích, Bồ-tát được thụ ký.

PHẨM THỨ 43: BIỆN SỰ
Phật dạy Thiện Hiện: Bát-nhã có khả năng làm thành tựu sáu độ, hai mươi không… Như nhà vua đem việc nước trao phó cho đại thần, Như Lai cũng vậy, đem pháp ba thừa trao phó cho Bát-nhã, Bát-nhã chẳng chấp trước sắc… xuất hiện ở thế gian có khả năng thành tựu các việc.

Thiện Hiện hỏi: Thế nào là Bát-nhã xuất hiện ở thế gian chẳng chấp trước sắc…?

Phật hỏi lại: Ông có thấy sắc… có thể chấp trước chăng? Có thấy có pháp có thể chấp trước chăng? Có thấy do pháp này có thể chấp trước chăng?

Câu hỏi nào, Thiện Hiện cũng đáp: Không!

Phật nói: Hay thay! Đúng thế! Vì thế Bồ-tát cũng không nên chấp trước sắc…

Các Thiên tử bạch Phật: Giả sử các hữu tình trong đại thiên thế giới này đều thành tựu bốn quả Thanh văn và Độc giác cũng chẳng bằng người thành tựu nhẫn Bát-nhã thâm diệu này trong một ngày hơn trí đoản của hàng Nhị thừa vô lượng vô biên vì trí đoản của hàng nhị thừa đều chỉ là một phần ít nhẫn của Bồ-tát.

Phật nói: Đúng thế!

PHẨM THỨ 44: CÁC THÍ DỤ


Thiện Hiện hỏi: Nếu Bồ-tát tin hiểu Bát-nhã, lại còn có thể tu tập thì vị Bồ-tát ấy từ đâu chết sinh đến nơi đây?

Phật đáp: Vị Bồ-tát ấy từ trong loài người sinh đến đây, cũng có vị từ chỗ của các Đức Phật ở phương khác sinh đến đây, cũng có vị từ cung trời Đổ-sử-đa sinh đến đây. Nếu ở đời trước, tuy được nghe Bát-nhã mà không thưa hỏi nghĩa lý thâm diệu, nên nay nghe nói Bát-nhã này tâm vị ấy mê muội, dụ dự, khiếp nhược hoặc sinh dị giải. Hoặc ở đời trước, tuy đã từng thưa hỏi nghĩa lý thâm diệu mà chẳng thể trải qua một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày tùy thuận tu hành nên nay nghe nói Bát-nhã này, giả sử trải qua một ngày cho đến năm ngày, tâm vị ấy tuy vững chãi, song nếu xa rời pháp đã nghe thì liền thoái thất.

Lại nữa, nếu Bồ-tát chẳng dùng Bát-nhã… giáo hóa các hữu tình, hoặc chẳng tùy thuận tu hành Bát-nhã…, hoặc rơi vào địa vị Thanh văn và Độc giác như thuyền ra biển bị vỡ, chẳng bám lấy khúc gỗ, thây chết…, như đi qua nơi hoang vắng xa xăm mà không mang theo lương thực, như mang chiếc bình đất chưa nung đem đựng nước, như chiếc thuyền chưa được trang bị đầy đủ, như người già bệnh không có người dìu đỡ. Nếu vị Bồ-tát nào có thể nhiếp thụ Bát-nhã, nhiếp thụ phương tiện thiện xảo thì trái lại những điều kể trên.

Thiện Hiện hỏi: Thế nào là chẳng nhiếp thụ Bát-nhã cũng chẳng nhiếp thụ phương tiện thiện xảo thì lui xuống địa vị Thanh văn và Độc giác?

Phật đáp: Bồ-tát từ lúc mới phát tâm chấp vào ngã và ngã sở mà tu hành bố thí… Vì sao? Vì trong các Ba-la-mật như bố thí… không có phân biệt như thế. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của các Ba-la-mật như bố thí… Người này chẳng biết tướng của bờ này, bờ kia nên chẳng thể nhiếp thụ tất cả pháp lành như bố thí… Do đây hoặc rơi vào địa vị Nhị thừa, chẳng chứng Vô thượng Bồ-đề. Lại nữa, lúc tu bố thí… chấp là ngã sở mà sinh ra kiêu mạn. Do chẳng nhiếp thụ Bát-nhã thâm diệu cũng chẳng nhiếp thụ phương tiện thiện xảo nên bị lui xuống hàng nhị thừa. Nếu Bồ-tát từ lúc mới phát tâm lìa chấp ngã, ngã sở mà tu hành bố thí… biết rõ tướng bờ này bờ kia thì có thể nhiếp thụ tất cả pháp lành như bố thí… chẳng rơi vào địa vị nhị thừa, chóng chứng Bồ-đề.

PHẨM THỨ 45: CHÂN THIỆN HỮU


Phật đáp Thiện Hiện: Bồ-tát mới tu học trước tiên cần phải gần gũi bậc thiện tri thức chân chính nghĩa là nói lúc tu bố thí… bố thí khắp các hữu tình cùng nhau hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, chẳng nên dùng các sắc… để thủ đắc Vô thượng Bồ-đề. Nếu chẳng chấp sắc… thì đắc Vô thượng Bồ-đề, chớ nên tham đắm, vì tất cả pháp tự tính không”.

Thiện Hiện bạch Phật: “Bồ-tát có thể làm việc khó làm, ở trong tất cả pháp tự tính không mà mong cầu Bồ-đề, muốn chứng Bồ-đề.

Phật nói: Đúng thế! Tuy biết tất cả pháp như huyễn, mộng, vang, bóng, sóng nắng, thành Tầm Hương, tự tính đều không mà vẫn làm việc nghĩa mang lại lợi ích, an lạc cho thế gian, cứu độ thế gian, làm chỗ nương tựa cho thế gian, làm nhà cửa cho thế gian, làm con đường cứu cánh, làm đất liền, làm ánh sáng, làm đèn đuốc, làm người hướng dẫn, làm tướng soái, làm chỗ hướng về, để phát tâm hướng đến Bồ-đề.

Thiện Hiện hỏi: Thế nào là làm cho thế gian được lợi ích cho đến làm chỗ hướng về?

Đức Phật giải đáp rõ ràng từng câu. Trong đó câu “làm nhà cửa” nghĩa là nói tất cả pháp đều chẳng hòa hợp, sắc… chẳng hòa hợp, tức là sắc… chẳng tương thuộc. Chẳng tương thuộc tức là vô sinh. Vô sinh tức là vô diệt. Vô diệt tức là chẳng hòa hợp. Còn giảng về “con đường cứu cánh” nghĩa là sắc… cứu cánh tức là chẳng phải sắc… Như vậy, tướng cứu cánh của các pháp, tướng của tất cả pháp cũng như vậy”.

Thiện Hiện hỏi Phật: “Nếu tướng của tất cả pháp như tướng cứu cánh thì tại sao Bồ-tát ứng hiện đẳng giác nơi tất cả pháp?”

Phật đáp: Sắc… này trong cứu cánh không có phân biệt như thế nghĩa là sắc… này là việc khó của Bồ-tát vì tuy quán tất cả pháp đều là tướng tịch diệt mà tâm không lui sụt, thầm nghĩ: “Ta đối với pháp này, hiện đẳng giác rồi, chứng đắc Bồ-đề, tuyên thuyết pháp tịch diệt vi diệu cho các hữu tình nghe. Phật giải thích câu “làm đất liền” nghĩa là tiền tế, hậu tế của sắc… đứt đoạn tức là tịch diệt vi diệu đúng như thật .

Phật giải thích câu “làm tướng soái” nghĩa là chỉ bày sắc… vô sinh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh.

Phật giải thích câu “làm chỗ hướng về” nghĩa là chỉ bày sắc… lấy hư không làm chỗ hướng về, chỉ bày sắc… chẳng phải chỗ hướng về, chẳng phải chỗ chẳng hướng về vì sắc… tính không, trong không chẳng có hướng về, chẳng có chẳng hướng về. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy không làm chỗ hướng về. Tất cả pháp không thể siêu việt đối với chỗ hướng về này, vì ở trong “không” thì hướng về và chẳng phải hướng về đều không thể thủ đắc. Vô tướng là chỗ hướng về, vô nguyện là chỗ hướng về, vô khởi vô tác là chỗ hướng về cho đến thành Tầm Hương là chỗ hướng về, vô lượng vô biên… là chỗ hướng về, Ngã, hữu tình… là chỗ hướng về, thường, lạc, ngã, tịnh là chỗ hướng về, vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh là chỗ hướng về, việc tham, việc sân, việc si, việc đang làm, chân như… là chỗ hướng về, mỗi câu đều được giảng rộng ra như vậy.

PHẨM THỨ 46: HƯỚNG VỀ TRÍ


Thiện Hiện hỏi Phật: Người nào có thể tin hiểu Bát-nhã thâm diệu?

Phật đáp: Người đã phát tâm từ lâu, cúng dường nhiều Phật, căn lành thuần thục, được thiện tri thức nhiếp thụ, thì mới có thể tin hiểu Bát-nhã thâm diệu.

Thiện Hiện hỏi: Tính, tướng, trạng, mạo của người tin hiểu Bát-nhã như thế nào?

Phật đáp: Điều phục tính tham sân si làm tính, xa lìa tướng, trạng, mạo tham sân si làm tướng, trạng, mạo.

Thiện Hiện hỏi: Người tin hiểu Bát-nhã hướng về đâu?

Phật đáp: Hướng về trí nhất thiết trí , vì trí này là chỗ hướng về của tất cả hữu tình. Thiện Hiện thưa: Bồ-tát có khả năng làm việc khó làm là mặc giáp kiên cố, độ thoát hữu tình khiến cho họ chứng Niết-bàn mà không thấy có hữu tình.

Phật nói: Đúng thế! Lại nữa, áo giáp được Bồ-tát mặc thì chẳng thuộc sắc…, vì sắc… rốt ráo vô sở hữu, chẳng phải Bồ-tát, chẳng phải áo giáp.

Thiện Hiện bạch Phật: Vị Bồ-tát này chẳng bị rơi vào hàng nhị thừa. Vì sao? Vì vị Bồ-tát này chẳng phải chỉ độ thoát một số ít hữu tình, chẳng phải vì cầu chút ít trí, mà chỉ vì cứu vớt hết thảy tất cả hữu tình, chỉ vì cầu đắc trí nhất thiết trí mà mặc áo giáp công đức.

Phật nói: Đúng thế!

Thiện Hiện bạch Phật: Bát-nhã thâm diệu, không có người năng tu, không có pháp sở tu, cũng không có chỗ tu, cũng không do đây mà được tu tập. Vì sao? Vì chẳng phải trong nghĩa thâm diệu này có một chút pháp thật nào có thể thủ đắc, hoặc tu hư không là tu Bát-nhã, hoặc tu tất cả pháp là tu Bát-nhã, hoặc tu pháp chẳng thật hoặc tu vô sở hữu, hoặc tu không nhiếp thụ, hoặc tu trừ bỏ là tu Bát-nhã, đó là tu trừ bỏ sắc…

Phật ấn chứng lời trình bày ấy của ngài Thiện Hiện.

Lại nữa, người chẳng chấp trước Bát-nhã… được nghiệm biết là Bồ-tát bất thoái. Đối với các Bồ-tát bất thoái chuyển, chẳng xét lời của các ngài và lời dạy của các ngài, cho là thật sự quan trọng, chẳng những tin tưởng các ngài mà các ngài có làm việc gì cũng chẳng bị tham sân si và các thứ tâm tạp nhiễm khác lôi kéo, trái lại, các ngài luôn luôn tùy thuận hướng về trí nhất thiết trí .

Thiện Hiện hỏi: Vị Bồ-tát này có hành sắc… chăng?

Phật đáp: Bồ-tát chẳng hành sắc… là Bồ-tát tùy thuận hướng về trí nhất thiết trí , không có năng tác, không có năng hoại, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng vô sở trụ, không có nơi chốn, không có số lượng, không có vãng lai, cũng không có năng chứng, không thể dùng sắc… để chứng. Vì sao? Nếu trí nhất thiết trí là chân như, nếu tất cả pháp là chân như, đều là một chân như không hai, không khác.

PHẨM THỨ 47: CHÂN NHƯ
Chư Thiên rải hoa và đảnh lễ ca ngợi: “Trong kinh Bát-nhã, tất cả các Đức Phật đều nói sắc… tức là trí nhất thiết trí , trí nhất thiết trí tức là sắc… tức là trí nhất thiết trí , trí nhất thiết trí , hoặc chân như của tất cả pháp đều là một chân như, không hai, không khác, cũng vô cùng tận.”

Đức Phật ấn khả và nói: “Ta xét nghĩa này, tâm thường hướng về tịch tĩnh, không thích thuyết pháp, nghĩa là Bát-nhã thâm diệu tức là Bồ-đề vô thượng của chư Phật đã chứng, không có lúc chứng. Pháp này thâm diệu, bất nhị hiện hành.”

Chư Thiên bạch Phật: “Pháp thâm diệu này vì chẳng nhiếp thủ đắc… nên nói, vì chẳng xả bỏ sắc… nên nói. Hữu tình ở thế gian phần đông hành hạnh nhiếp thủ, khởi chấp ngã, ngã sở, nghĩa là sắc… là ngã, ngã sở.”

Đức Phật ấn khả và nói: “Nếu Bồ-tát vì nhiếp thủ sắc… nên hành, vì xả bỏ sắc… nên hành thì chẳng thể tu sáu độ…, chẳng thể chứng hai mươi không…”

Thiện Hiện bạch Phật: Pháp thâm diệu này tùy thuận Bát-nhã cho đến tất cả pháp như ba trí… “Đối với sắc…đều không có ngại, lấy vô ngại làm tướng vì tính bình đẳng như hư không, vì sắc… vô sinh vô diệt, vì dấu vết của sắc… chẳng thể thủ đắc.”

Chư Thiên bạch Phật: “Thiện Hiện được Như Lai sinh ra, thật là con của Phật.”

Thiện Hiện nói với chư Thiên: “ Vì chân như của tất cả pháp bình đẳng nên chân như của Như Lai bình đẳng. Vì chân như của Như Lai bình đẳng nên chân như của tất cả pháp bình đẳng, đồng một chân như bình đẳng không hai, không khác. Thiện Hiện tin hiểu sâu sắc về chân như này nên nói Thiện Hiện từ Như Lai sinh.”

Lúc Đức Phật nói tướng chân như này, đại thiên chấn động, chư Thiên rải hương, hoa.

Thiện Hiện bạch Phật: Thiện Hiện chẳng do sắc… nên tùy Như Lai sinh, chẳng do chân như của sắc… nên tùy Như Lai sinh, vì chẳng lìa sắc… nên tùy Như Lai sinh, vì chẳng lìa chân như của sắc… nên tùy Như Lai sinh. Tất cả pháp này đều không có người tùy sinh. Nếu được tùy sinh thì do sự tùy sinh này và chỗ tùy sinh đều chẳng thể thủ đắc.

Xá-lợi Tử bạch Phật: Trong pháp này, sắc… chẳng thể thủ đắc, chân như của sắc… cũng chẳng thể thủ đắc. Vì sao? Vì sắc… còn chẳng thể thủ đắc huống là có chân như của sắc…có thể thủ đắc.

Đức Phật ấn khả và thuật lại việc sáu vạn Bồ-tát thành A-la-hán. Đức Phật nói: “Các vị Bồ-tát này tuy có ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện của đạo Bồ-tát nhưng vì xa lìa Bát-nhã và sức phương tiện thiện xảo nên chứng thật tế đắc quả Thanh văn”.

Xá-lợi Tử hỏi: Vì sao có Bồ-tát tu ba môn giải thoát, chẳng nhiếp thụ Bát-nhã, không có sức phương tiện thiện xảo, chứng thật tế, đắc quả nhị thừa; có Bồ-tát tu ba môn giải thoát, nhiếp thụ Bát-nhã, có sức phương tiện thiện xảo, chẳng chứng thật tế, hướng về Vô thượng giác?

Phật đáp: Nếu Bồ-tát xa lìa trí nhất thiết trí , tâm tu ba môn giải thoát là Bồ-tát chẳng nhiếp thụ Bát-nhã, không có sức phương tiện thiện xảo. Nếu Bồ-tát chẳng lìa trí nhất thiết trí , tâm tu ba môn giải thoát là Bồ-tát nhiếp thụ Bát-nhã, có sức phương tiện thiện xảo.

Kế đó Đức Phật nói ví dụ con chim to không có cánh để dụ Bồ-tát dựa vào lời nói mà chấp tướng, nếu chẳng chấp tướng thì hướng thẳng đến Vô thượng Bồ-đề. Vì tâm lìa tướng tu hành bố thí… an trụ hai mươi không…

Xá-lợi Tử nói: “Vị Bồ-tát này từ lúc mới phát tâm đến lúc cứu cánh đều không thấy có một chút pháp có thể thủ đắc, nghĩa là hoặc năng chứng, hoặc sở chứng, hoặc chỗ chứng, hoặc lúc chứng, hoặc do đây chứng đều chẳng thể thủ đắc. Hoặc sắc… cho đến nhất thiết tướng trí đều chẳng thể thủ đắc. Nếu có người nào xa lìa Bát-nhã và phương tiện thiện xảo mà cầu Bồ-đề, phải biết điều người ấy cầu hoặc được, hoặc chẳng được, đối với việc tu hành sáu độ, đối với việc an trụ hai mươi không… đều chấp tướng. Bồ-tát nếu muốn chứng Vô thượng Bồ-đề quyết chẳng nên xa lìa Bát-nhã và phương tiện thiện xảo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, dùng tâm tu hành vô tướng để tu sáu độ và an trụ hai mươi không”…

Chư Thiên bạch Phật: Vô thượng Bồ-đề rất khó tin hiểu, rất khó chứng đắc. Vì sao? Vì Bồ-tát phải chứng biết tự tướng và cộng tướng tất cả pháp thì mới đắc Vô thượng Bồ-đề và biết tướng của pháp đã biết đến vô sở hữu, đều chẳng thể thủ đắc.

Phật nói: Ta cũng hiện giác tất cả pháp tướng, chứng đắc Vô thượng Bồ-đề mà không thủ đắc thắng nghĩa pháp tướng để nói đây là năng chứng, đây là sở chứng, đây là chỗ chứng, đây là lúc chứng và nói do đây mà chứng, vì tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh, vì hữu vi, vô vi rốt ráo không”.

Thiện Hiện bạch Phật: “Như con tư duy nghĩa của Phật giảng nói thì Vô thượng Bồ-đề rất dễ tin hiểu, rất dễ chứng đắc. Nếu tin hiểu được thì không có pháp năng chứng, không có pháp sở chứng, không có chỗ chứng, không có lúc chứng, cũng không do đây mà có sở chứng thì có thể tin hiểu được Vô thượng Bồ-đề. Nếu có chứng biết không có pháp năng chứng… thì có thể chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, vì tất cả pháp rốt ráo đều không, hoặc tăng hoặc giảm đều chẳng thể thủ đắc, chẳng nên ở trong đó cho là khó tin hiểu và khó chứng đắc. Vì sao? Vì sắc… và tự tính của sắc… đều không. Nếu đối với tự tính không này mà sinh tin hiểu sâu sắc, không có chứng biết trái ngược thì đắc Vô thượng Bồ-đề.

Xá-lợi Tử nói: Do nhân duyên này, vô thượng Bồ-đề rất khó tin hiểu, rất khó chứng đắc. Ví như hư không chẳng bao giờ nghĩ: “Tôi phải tin hiểu chóng chứng Bồ-đề. Bồ-tát cũng giống như vậy nghĩa là phải tin hiểu tất cả pháp đồng với hư không… và năng chứng biết mới đắc Vô thượng Bồ-đề. Nếu tin hiểu tất cả pháp đồng với hư không thì dễ sinh tin hiểu, dễ chứng đắc Bồ-đề. Vậy lẽ ra chẳng có Bồ-tát nhiều như số cát sông Hằng mặc áo giáp công đức mà có thoái chuyển.

Thiện Hiện hỏi: Sắc… cùng Bồ-đề có thoái chuyển chăng? Lìa sắc… có pháp đối với Bồ-đề có thoái chuyển chăng? Chân như của sắc… đối với Bồ-đề có thoái chuyển chăng? Lìa chân như của sắc… có pháp đối với Bồ-đề có thoái chuyển chăng?”

Câu hỏi nào, Xá-lợi Tử cũng đều đáp: “Không”

Thiện Hiện nói: Nếu vì tất cả pháp chân thật nên trụ, vì đều vô sở hữu nên đều chẳng thể thủ đắc. Vậy nói pháp gì có thể đối với Bồ-đề có thoái chuyển?

Xá-lợi Tử nói: Nếu như vậy, vì sao Phật nói có ba loại hữu tình trụ Bồ-tát thừa. Đáng lẽ chỉ nên nói là một, chẳng nên nói là ba thừa, chỉ có một thừa.

Mãn Từ Tử nói với Xá-lợi Tử: Đáng lẽ nên hỏi có một Bồ-tát thừa chăng? Sau đó mới hỏi lẽ ra không có kiến lập ba thừa sai biệt?

Xá-lợi Tử đem điều này hỏi Thiện Hiện.

Thiện Hiện đáp: Trong chân như của tất cả pháp có ba tướng, hữu tình sai biệt trụ Bồ-tát thừa chăng? Hay là có Bồ-tát của ba thừa khác nhau? Hay là thật có người nhất định chẳng thoái chuyển Bồ-tát thừa chăng? Hay là thật có một Chính đẳng giác thừa chăng? Có một tướng, có hai tướng, có ba tướng chăng? Hay là có một pháp hoặc một Bồ-tát mà có thể thủ đắc chăng?

Câu hỏi nào, ngài Xá-lợi Tử cũng đáp: “Không”.

Thiện Hiện nói: Nếu tất cả pháp chân thật nên trụ, vì vô sở hữu nên đều không thể thủ đắc. Tại sao lại nghĩ: “Bồ-tát này hoặc quyết định có thoái chuyển, hoặc quyết định không thoái chuyển, hoặc không quyết định cho đến như vậy là ba, như vậy là một. Nếu Bồ-tát nghe nói tướng chân như của tất cả pháp chẳng thể thủ đắc mà tâm của Bồ-tát ấy không kinh sợ, nghi ngờ, lui sụt thì Bồ-tát ấy mau đắc Vô thượng Bồ-đề”.

Đức Phật ngợi khen và ấn khả.

PHẨM THỨ 48: BỒ TÁT TRỤ


Thiện Hiện hỏi Phật: Bồ-tát muốn đắc Bồ-đề phải trụ ở đâu và phải trụ như thế nào?

Phật đáp: Phải trụ nơi tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm bình đẳng, dùng tâm bình đẳng nói chuyện với họ. Khởi tâm đại từ, tâm đại bi, tâm đại hỉ, tâm đại xả, tâm cung kính, tâm chất trực, tâm điều nhu, tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm vô ngại, tâm như cha mẹ, anh em, chị em, con cái, thân thuộc, tâm bằng hữu, tâm như thân giáo sư, quỹ phạm sư, đệ tử, đồng học, tâm như Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, tâm như Độc giác, tâm như Bồ-tát, tâm như Như Lai, tâm phải cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, tâm phải cứu tế thương yêu che chở, tâm tất cánh không, vô sở hữu, bất khả đắc, tâm không, vô tướng, vô nguyện, Bồ-tát phải trụ nơi các tâm này.

Lại nữa, Bồ-tát tự mình xa lìa mười điều ác, khuyên người khác xa lìa mười điều ác, luôn luôn ngợi khen việc xa lìa mười điều ác, vui mừng tán thán người xa lìa mười điều ác, phải tự tin tất cả thiện, khuyên người khác tu tất cả thiện, ngợi khen tất cả pháp lành, tán thán người tu tất cả thiện. Bồ-tát phải trụ như thế, hoặc học như thế, an trụ như thế thì được vô chướng ngại đối với sắc. Vì sao? Vì từ xưa đến nay chẳng nhiếp thụ sắc… Vì sao? Vì sắc… chẳng thể nhiếp thụ. Nếu sắc… chẳng thể nhiếp thụ thì chẳng phải sắc…”

Lúc Đức Phật thuyết phẩm này, một muôn hai nghìn Bồ-tát đắc vô sinh pháp nhẫn.

PHẨM THỨ 49: BẤT THOÁI CHUYỂN
Thiện Hiện hỏi Phật: Bồ-tát bất thoái chuyển có hạnh gì? Có trạng gì? Có tướng gì? Chúng con làm sao biết?

Phật đáp: Bồ-tát biết đúng như thật về dị sinh địa, nhị thừa địa, Bồ-tát địa, Phật địa, ở trong pháp chân như, không biết khác, không phân biệt, đều không có hai, không có hai phần. Tuy đúng như thật ngộ nhập các pháp chân như mà không phân biệt các pháp chân như, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện. Bồ-tát nghe nói chân như cùng tất cả pháp không hai, không khác mà không có trệ ngại, vì chân như cùng tất cả pháp chẳng thể nói là một, là khác, là chung, là chẳng chung. Bồ-tát này không bao giờ nói lời vô nghĩa, lời không lợi ích, chẳng thấy người khác tốt xấu, hay dở, bình đẳng xót thương họ mà thuyết pháp.

Thiện Hiện hỏi: Nhờ hành, trạng, tướng nào mà biết đó là Bồ-tát bất thoái chuyển?

Phật đáp: Người có khả năng quán tất cả pháp không có hành, trạng, tướng, đó là Bồ-tát bất thoái chuyển. Vì thoái chuyển đối với sắc… nên gọi là bất thoái chuyển. Vì tự tính của sắc… vô sở hữu, Bồ-tát chẳng trụ trong đó nên gọi là thoái chuyển.

Nếu Bồ-tát bất thoái chuyển thì chẳng bao giờ thích xem kinh sách ngoại đạo, không bao giờ nghi ngờ tì-nại-da, không có giới cấm thủ, chẳng sinh vào ba đường ác, thực hành mười điều thiện, hằng tu sáu độ, thông hiểu mười hai thể loại kinh, đem pháp thí, căn lành cùng các hữu tình hồi hướng Bồ-đề, chẳng sinh nghi ngờ do dự đối với pháp môn thâm diệu, chẳng thấy có sắc… để có thể ở trong đó sinh ra nghi ngờ do dự, thành tựu ba nghiệp nhu hòa, tâm không ngăn ngại đối với các hữu tình, quyết định chẳng ở chung với năm món ngăn che, luôn luôn trụ nơi chính niệm, chính tri, thân tâm thanh tịnh, chẳng tham bốn sự cúng dường, tuy thụ nhận mười hai công đức đầu-đà mà không ỷ lại. Ác ma hóa hiện, Bồ-tát chẳng tin chẳng theo, quyết định chẳng lui sụt tất cả pháp thiện, tưởng sắc… thoái chuyển vì tự tướng không. Quán tất cả pháp đã nhập Bồ-tát chính tính ly sinh cho đến chẳng thấy có một chút pháp có thể thủ đắc, không tạo tác, rốt ráo bất sinh, cho nên gọi là vô sinh pháp nhẫn. Vì đắc nhẫn này nên được gọi là bất thoái chuyển.

Vì Bồ-tát này chẳng còn bị rơi vào hàng nhị thừa, vì nói bất thoái chuyển cho nên gọi là bất thoái chuyển. Xa lìa nhị thừa địa, nhất định chối bỏ nhị thừa, vì nói bất thoái chuyển nên gọi là bất thoái chuyển. Bồ-tát tùy ý có thể nhập mười hai môn thiền, ba mươi bảy phẩm trợ đạo… mà chẳng thụ nhận quả báo, thường chẳng xa lìa tâm đại bồ-đề, chẳng quý trọng sắc… Tuy thị hiện hưởng thụ năm dục mà chẳng đắm nhiễm, chẳng hành tà mạng mà lại có các hạnh trạng tướng khác. Thông đạt các pháp đều vô sở hữu, thường chẳng xa lìa tâm đại bồ-đề, chẳng thích xem các luận nói vô sắc…, chỉ thích xem các luận nói về bát-nhã, thường chẳng xa lìa trí nhất thiết trí, tương ưng tác ý tu hành bố thí…, lìa xan tham… Tuy trụ tất cả pháp không mà ưa thích chính pháp, chẳng thích phi pháp. Tuy trụ bất khả đắc không mà thường ngợi khen pháp tính bất hoại lợi ích hữu tình. Tuy trụ pháp giới chân như mà yêu thích bạn lành, chẳng thích bạn xấu, thường thích thấy Phật, nghe pháp, sinh ra chỗ nào cũng chẳng lìa Phật, hằng nghe chính pháp, hộ trì chính pháp chẳng tiếc thân mạng.

PHẨM THỨ 50: PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
Phật bảo Thiện Hiện: Bồ-tát bất thoái thành tựu công đức ưu việt rộng lớn vô lượng vô biên, chẳng thể tính kể, khó thể nghĩ bàn, trụ nơi trí bất cộng nhị thừa, dẫn phát bốn vô ngại giải. Lại nữa, sắc… cũng gọi là thâm diệu vì chân như của sắc… thâm diệu, vì chân như của sắc… chẳng phải tức sắc…, chẳng phải ly sắc…

Thiện Hiện bạch Phật: Rất lạ là phương tiện vi diệu vì Bồ-tát bất thoái mà ngăn trừ sắc… hiển bày niết-bàn.

Phật ấn khả và dạy: “Bồ-tát nên ở các chỗ thâm diệu này dựa vào nghĩa lý tương ưng Bát-nhã thâm diệu mà xét kỹ, tư duy, cân nhắc, quan sát, và nên nghĩ: “Nay ta nên trụ như lời Phật dạy, nên học như lời Phật dạy thì có thể nhiếp thủ vô số công đức, vượt qua vô lượng kiếp lưu chuyển sinh tử, chóng chứng bồ-đề. Nếu công đức này có hình tượng thì thế giới nhiều như số cát sông Hằng cũng không thể chứa hết. Kế đến, so sánh phước của người xa lìa bát-nhã mà tu với công đức của người y theo Bát-nhã thâm diệu mà tu”.

Thiện Hiện hỏi Phật: Phân biệt điều được làm đều chẳng phải thật có, tại sao các Bồ-tát này lại được phước vô biên?

Phật đáp: Bồ-tát tu hành Bát-nhã thâm diệu biết tất cả loại phân biệt điều được làm đều không, vô sở hữu, hư vọng chẳng thật, khéo học hai mươi không, như như quán sát thì chẳng xa lìa Bát-nhã thâm diệu được phước vô số, vô lượng, vô biên chẳng thể đếm tại trong phạm vi hữu vi, vô vi; chẳng thể lường ở trong pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng thể đo được giới hạn của nó.

Lại nữa, sắc… cũng vô số, vô lượng, vô biên vì sắc… không.

Thiện Hiện bạch Phật: Tất cả pháp không tức là vô tận cũng là vô số, vô lượng, vô biên.

Phật nói: Đúng thế!

Thiện Hiện nói: Nếu chẳng thể nói nghĩa không tăng không giảm thì tại sao Bồ-tát tu hành bố thí… chứng đắc Vô thượng bồ-đề?

Phật đáp: Đúng thế! Bồ-tát chẳng nghĩ: “Tôi đối với Bát-nhã… hoặc tăng hoặc giảm mà chỉ nghĩ: Bồ-tát tu bố thí… đem Bát-nhã này thực hành chung với bố thí và dựa vào Bát-nhã khởi tâm , đem căn lành cùng có chung với các hữu tình hồi hướng Bồ-đề. Như Phật bồ-đề vi diệu thậm thâm mà khởi hồi hướng, nhờ sức thiện xảo phương tiện hồi hướng này mà chứng đắc Vô thượng bồ-đề.



tải về 1.17 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương