Đại sư Ngẫu Ích toát yếu kinh



tải về 1.17 Mb.
trang3/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.17 Mb.
#30362
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

Thiện Hiện ấn chứng lời nói ấy, rồi Ngài nói rộng ra vì sắc… đại nên Bát-nhã cũng đại, vì sắc… trong ba thời gian đều không thể thủ đắc nên nói là đại. Vì sắc… vô lượng nên Bát-nhã cũng vô lượng. Ví như hư không vô lượng không thể thủ đắc, sắc… cũng vậy, lượng không thể thủ đắc. Vì sắc… vô biên nên Bát-nhã cũng không thể thủ đắc.

Lại nữa, vì sở duyên của nhất thiết trí trí vô biên nên Bát-nhã cũng vô biên, vì pháp giới vô biên nên sở duyên cũng vô biên, vì sở duyên vô biên nên pháp giới cũng vô biên, vì chân như vô biên nên sở duyên cũng vô biên, vì sở duyên vô biên nên chân như cũng vô biên, vì sở duyên của pháp giới, sở duyên của chân như vô biên nên Bát-nhã cũng vô biên.

Lại nữa, vì hữu tình vô biên nên Bát-nhã cũng vô biên, vì các hữu tình bản tính tịnh, các hữu tình từ xưa đến nay vô sở hữu.

PHẨM THỨ 29: NHIẾP THỤ
Thiên Đế ba lần khen: Lành thay! Nếu có Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã đúng như lời Phật dạy, không xa rời Bát-nhã, chúng tôi sẽ cung kính phụng thờ người ấy như Phật. Trong giáo pháp sâu xa này, không có các pháp sắc… có thể thủ đắc mà thiết lập giáo pháp ba thừa.

Phật ngợi khen và ấn chứng điều đó, rồi nói cặn kẽ về chẳng phải ngay nơi bố thí… mà Như Lai có thể thủ đắc, chẳng phải lìa bố thí… mà Như Lai có thể thủ đắc. Nếu Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện siêng năng tu học tất cả pháp thì được chẳng rời tất cả Phật pháp, như lúc ở chỗ Phật Nhiên Đăng, Ta được thụ ký.

Thiên Đế ngợi khen: “Bát-nhã như thế rất là hiếm có, làm cho các Bồ-tát mau chóng đắc Nhất thiết trí trí, nghĩa là vì đối với sắc… chẳng thủ, chẳng xả làm phương tiện.

Đức Thế Tôn biết tâm ý của bốn chúng và chư thiên đồng vì họ mà minh chứng, và quay lại dặn dò Đế Thích: “Nếu có Bồ-tát nào tâm chẳng lìa nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện thụ trì, đọc tụng, siêng năng tu tập, tư duy đúng lý, giảng thuyết cho người khác nghe, truyền bá rộng rãi kinh Bát-nhã này, mà không tìm được cơ hội khuấy phá vì Bồ-tát ấy khéo trụ sắc… không, vô tướng, vô nguyện, chẳng thể lấy vô nguyện làm phương tiện để thủ đắc vô nguyện, vì tự tính của sắc… đều không, năng não hại, sở não hại và việc não hại đều không thể thủ đắc.

Lại nữa, loài người và loài phi nhân không thể làm não hại, do vì người này lấy vô sở đắc làm phương tiện khéo tu bốn tâm từ, bi, hỉ, xả đối với tất cả hữu tình. Lại chẳng bị các duyên hiểm ác làm hại, cũng chẳng chết oan, vì tu bố thí đem lại cuộc sống sung túc an ổn cho các hữu tình.

Lại nữa, chẳng sợ hãi đến nỗi chân lông dựng đứng vì khéo tu nội không… nên chư Thiên phát nguyện cung kính ủng hộ người này, vì Bồ-tát này khiến cho các hữu tình đoạn bốn đường ác, lìa tất cả khổ, vì Bồ-tát này có tất cả pháp lành, như mười điều thiện, bốn thiền…, vì Bồ-tát này có quả thù thắng của nhân thừa, thiên thừa và ba thừa.

Đức Phật ngợi khen và ấn chứng điều đó, rồi so sánh công đức cúng dường một người mới phát tâm tiến lên dần cho đến cúng công đức cúng dường Thánh chúng nhị thừa ở khắp mười phương cũng không bằng công đức thụ trì Bát-nhã.

Đế Thích lại ngợi khen công đức thụ trì Bát-nhã và ngợi khen nhiếp thụ Bát-nhã tức là nhiếp thụ tất cả pháp lành.

Phật ấn chứng điều đó, đồng thời chỉ bày pháp kế sau có công đức hơn pháp kế trước. Nếu có thiên ma, ngoại đạo hung ác, kiêu mạn tạm nghe tiếng Bát-nhã thì các ác dần dần tiêu diệt, công đức dần dần sinh khởi như thuốc Mạc-kì rất hay có thể làm tiêu tan nọc độc của rắn, và Bát-nhã có khả năng diệt các pháp ác tham…, tăng thêm sức đối trị các pháp ác kia, thậm chí tăng cường khả năng đối trị, diệt cả sự chấp trước về Bát-niết-bàn. Như vậy, có khả năng diệt tất cả pháp của ma an trụ và có khả năng tăng trưởng tất cả việc lành. Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện nên Bồ-tát này tự lìa mười điều ác, dạy người khác lìa mười điều ác, nói lời ngợi khen pháp lìa mười điều ác, vui vẻ ngợi khen người lìa mười điều ác, tu thực hành bố thí…, dạy người khác bố thí…, nói lời ngợi khen pháp bố thí, vui vẻ ngợi khen người thực hành bố thí… Lúc Bồ-tát này tu sáu độ như bố thí… lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì tất cả hữu tình cùng hồi hướng vô thượng Bồ-đề, thường nghĩ: “Tôi chẳng nên thuận theo sức lôi cuốn của xan tham, phá giới, nếu bị chúng lôi cuốn thì bố thí, trì giới không được trọn vẹn, rốt cuộc chẳng thể thành tựu trí Nhất thiết trí.

Đế Thích ngợi khen: Bát-nhã như thế rất là hiếm có, Bát-nhã điều phục Bồ-tát khiến cho họ không có tâm cống cao mà có thể hồi hướng trí nhất thiết trí, nghĩa là bố thí… theo thế gian, không có phương tiện thiện xảo thì khởi tâm cống cao, chẳng thể hồi hướng trí nhất thiết trí vì bị ngã và ngã sở làm nhiễu loạn tâm. Nếu bố thí… theo xuất thế gian, khéo tu Bát-nhã chẳng kẹt trong ba luân, có khả năng điều phục tâm cống cao đúng như lời Phật dạy, cũng có thể thật sự hồi hướng trí nhất thiết trí.

Phật bảo Đế Thích: Người niệm tụng Bát-nhã chẳng bị dao gậy làm tổn thương vì đã tự trừ dao gậy tham… cũng có thể trừ dao, gậy… tham cho kẻ khác, độc chẳng thể hại, nước không thể nhận chìm, lửa không thể đốt cháy, tà chẳng thể làm tổn thương. Vì thế, Bát-nhã là chú đại thần, chú đại minh, chú vô thượng, chú vô đẳng đẳng, vua của tất cả chú. Người này tinh tấn tu học chú vương này thì chính mình không bị hại và người khác cũng không bị hại, cả hai đều không bị hại. Vì sao? Vì thấu hiểu mình và người, cả hai đều không thể thủ đắc. Đó là chẳng thủ đắc sắc… cho đến chẳng thủ đắc vô thượng thừa. Người ấy lúc học đại chú vương này thì đối với ngã và pháp tuy vô sở đắc mà chứng vô thượng Bồ-đề. Quán tâm hành của các hữu tình sai biệt tùy nghi vì họ mà chuyển pháp luân khiến cho họ tu hành đúng như lời Phật dạy và đều được lợi ích. Bồ-tát trong ba thời gian đều như vậy. Pháp đại chú này được chư Thiên thủ hộ chẳng để cho bị phá hoại.

PHẨM THỨ 30: SO SÁNH CÔNG ĐỨC


Thiên Đế hỏi về công đức biên chép kinh so với công đức cúng dường xá-lợi, công đức nào nhiều hơn.

Phật dạy: Ta do tu học Bát-nhã mà đắc trí Nhất thiết trí và thân tướng hảo. Nhưng chẳng lấy thân tướng hảo mà được là Như Lai, chỉ nhờ trí nhất thiết trí mà được gọi là Như Lai. Trí nhất thiết trí , thân tướng hảo và xá-lợi đều lấy bát-nhã làm căn bản. Thế nên, biên chép kinh được phước đức nhiều, vì tất cả pháp lành đều từ Bát-nhã sinh ra.

Lại nữa, các hữu tình ở khắp mười phương phát tâm quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề do vì xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã thâm diệu mà phần nhiều bị rơi vào hàng Nhị thừa. Nếu muốn trụ Bất thoái chuyển mau chứng Vô thượng Bồ-đề thì phải thường nghe pháp Bát-nhã, thụ trì, đọc tụng, tinh tấn tu tập, tư duy đúng lý, thích thưa thỉnh thầy chỉ dạy, ưa giảng nói cho người khác nghe, biên chép cúng dường.

Lại nữa, các pháp lành ưu việt khác thuộc Bát-nhã cũng nên lắng nghe cho đến giảng nói cho người khác nghe, đó là các pháp năm độ, hai mươi không cho đến ba trí…

Lại nữa, vô lượng pháp môn tùy thuận Bát-nhã như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới cũng nên nghe nhận, tư duy, chẳng nên chê bai làm chướng ngại Bồ-đề. Vì các Đức Như Lai ở quá khứ đã đều tu học vô lượng pháp môn như thế mà chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Những pháp như thế là pháp ấn chân thật của ba thừa, vì đây là chỗ nương tựa lợi ích, an lạc của tất cả thánh phàm.

Đế Thích hỏi về phước thụ trì kinh, Đức Phật đáp bằng cách tuần tự so sánh các thứ công đức, rồi dạy: Bát-nhã này trụ tại nhân gian trong châu Thiệm-bộ thì tam bảo đều trụ chẳng bị tiêu diệt, thế gian thường có tất cả pháp lành mười thiện, sáu độ…, thế gian thường có quả báo tốt đẹp của trời, người và ba thừa…

Bấy giờ, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đồng thưa với Đế Thích: Khuyên bảo mọi người thụ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Bát-nhã này thì có thể làm cho pháp ác tổn giảm, pháp lành tăng thêm, vì gồm hết tất cả pháp ba thừa.

Phật bảo Đế Thích: Nhờ đại chú vương Bát-nhã nên tất cả thắng nhân thắng quả xuất hiện thế gian. Lại nữa, nhờ Bát-nhã cho nên có Bồ-tát, nhờ Bồ-tát nên tất cả thắng nhân thắng quả xuất hiện. Ví như nhờ vầng trăng rằm nên tất cả dược vật, tinh tú, núi non, sông biển đều được sáng thêm. Nếu lúc Như Lai chưa xuất thế, chỉ có Bồ-tát đủ phương tiện thiện xảo tuyên thuyết pháp thế gian, xuất thế gian một cách không điên đảo cho các hữu tình nghe. Phải biết Bồ-tát có khả năng sinh ra năm thừa, và phương tiện thiện xảo của Bồ-tát đều từ Bát-nhã này sinh trưởng. Nếu người nào nghe nhận cho đến truyền bá pháp Bát-nhã này thì người đó thành tựu được công đức lợi ích thù thắng ở đời hiện tại và vị lai.

Bấy giờ, có ngoại đạo muốn tìm lỗi lầm của Phật, nên đi đến chỗ Phật. Đế Thích niệm tụng Bát-nhã, ngoại đạo đi dọc đường bỏ ác ý, quay về. Có ác ma muốn đến phá rối Phật, Đế Thích niệm tụng Bát-nhã, ác ma lui về hóa làm bốn binh chủng tiến đến chỗ Phật, Đế Thích niệm tụng Bát-nhã, ác ma lui binh.

Chư thiên hóa ra đồ cúng dường mà nguyện Bát-nhã này có mặt lâu dài ở nhân gian.

Khánh Hỷ hỏi Phật: Vì sao không hết lời ngợi khen bố thí… mà chỉ hết lời ngợi khen Bát-nhã?

Phật dạy: Do Bát-nhã là tôn quý dẫn đường cho tất cả pháp lành. Nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí… thì chẳng được gọi là chân tu bố thí… cho nên ta chỉ ngợi khen Bát-nhã.

Khánh Hỷ hỏi tiếp: Hồi hướng trí nhất thiết trí như thế nào?

Phật dạy: Lấy không hai làm phương tiện, vô sinh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện hồi hướng trí nhất thiết trí tu tập bố thí…

Khánh Hỷ lại hỏi: Vì sao lấy sắc… không hai, vô sinh, vô sở đắc làm phương tiện hồi hướng trí nhất thiết trí tu tập bố thí…?

Phật đáp: Sắc…, sắc… tính không, vì sắc… tính không cùng với bố thí… không hai, không hai phần, do đó nên nói lấy sắc… không hai, vô sinh, vô sở đắc làm phương tiện tu tập bố thí… Khánh Hỷ nên biết, do Bát-nhã nên có khả năng hồi hướng trí nhất thiết trí . Lại do hồi hướng trí nhất thiết trí nên có khả năng tu tập bố thí… đến chỗ rốt ráo. Thế nên, Bát-nhã này đối với bố thí… là tôn quý hơn và cũng là pháp dẫn đường. Ví như gieo hạt giống trên đất, các duyên hòa hợp thì được sinh trưởng, nên biết, mặt đất làm chỗ nương tựa và có khả năng làm cho hạt giống sinh trưởng. Như vậy, Bát-nhã làm chỗ nương tựa và có khả năng kiến lập sự hồi hướng trí nhất thiết trí và các pháp lành như bố thí…, cho nên Bát-nhã đối với bố thí… thì tôn quý hơn và cũng là pháp dẫn đường.

Đế Thích lại nói rộng về công đức của Bát-nhã, Phật còn nói rộng thêm về công đức Bát-nhã. Nếu Bát-nhã này ở chỗ nào thì chung quanh phải trừ khử các vật bất tịnh, quét dọn sạch sẽ, vẫy rưới nước thơm, trải tòa báu ở nơi ấy, đốt hương, rải hoa, trang nghiêm cúng dường. Lại có Trời, Rồng đến tham quan, lễ bái, đọc tụng, hoan hỉ hộ niệm, người này thân tâm an lạc, trong giấc ngủ được mộng lành, chẳng tham bốn sự (y phục, thức uống ăn, thuốc men, giường nệm).

Nhân đó, Đức Phật hỏi Đế Thích: Giữa xá-lợi và Bát-nhã, ông chọn lấy cái nào?

Đế Thích bạch Phật: Con chọn lấy Bát-nhã.

Xá-lợi Tử nói: Bát-nhã vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, đó là vô tướng thì ông làm sao chọn lấy?

Đế Thích nói: Nếu biết được Bát-nhã như vậy tức là thật sự chọn lấy Bát-nhã, cũng là thật sự tu hành Bát-nhã, vì chẳng theo hai hạnh và không có hai tướng. Năm độ trước cũng chẳng theo hai hạnh và không có hai tướng.

Phật ngợi khen và ấn chứng điều đó.

Đế Thích lại ngợi khen nhiều hơn nữa, cho đến nếu không có Bát-nhã thì bố thí… chẳng thể đến bờ kia, ví như thần châu đại bảo vô giá.

Lại nữa, nếu muốn được thường thấy pháp thân, sắc thân, trí huệ thân… của tất cả Như Lai thì phải cúng dường cho đến truyền bá Bát-nhã. Nếu tu Bát-nhã nên dùng pháp tính tu tùy Phật niệm đối với các Đức Như Lai, , pháp tính có hai: Hữu vi pháp tính tức là biết đúng về vô lượng môn trí như ngã trí, hữu tình trí. Vô vi pháp tính là tự tính vô tính của tất cả pháp vô sinh, vô diệt.

Phật dạy: Hàng tam thừa quá khứ, vị lai, hiện tại đều nhờ Bát-nhã mà đắc quả, trong tạng bí mật của Bát-nhã này tuyên thuyết rộng về pháp tương ưng với ba thừa. Nhưng những pháp được tuyên thuyết này đều lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tính vô tướng làm phương tiện, vô sinh vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm vô tịnh làm phương tiện, vô tạo vô tác làm phương tiện, vô nhập vô xuất làm phương tiện, vô tăng vô giảm làm phương tiện, vô thủ vô xả làm phương tiện. Nói như thế là do vì thế tục chứ chẳng phải thắng nghĩa. Như vậy, Bát-nhã chẳng phải Bát-nhã, chẳng phải phi Bát-nhã cho đến chẳng phải cảnh, chẳng phải trí, chẳng dự vào pháp ba thừa, cũng chẳng bỏ pháp phàm phu.

Đế Thích bạch Phật: Như vậy Bát-nhã là đại ba-la-mật-đa, là vô đẳng đẳng ba-la-mật-đa. Tuy biết tâm hành và cảnh giới sai biệt của tất cả hữu tình, nhưng chẳng thủ đắc ngã…, chẳng thủ đắc sắc… cho đến chẳng thủ đắc pháp Chính đẳng chính giác, vì năng đắc, sở đắc và hai chỗ nương gá tính tướng đều không, không thể thủ đắc.

Phật dạy: Bồ-tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, thực hành đủ sáu độ. Nhờ Bát-nhã thâm diệu làm đầu, làm pháp dẫn đường tu tập bố thí… không chút chấp trước nên chúng được viên mãn đạo quả.

Lại nữa, đối với tất cả pháp như sắc…, lấy vô sở đắc làm phương tiện tu tập Bát-nhã. Do nhân duyên này không chút chấp trước khiến cho các pháp tu tập chóng được viên mãn. Như các loại cây cối trong châu Thiệm-bộ , nhánh lá, hoa, quả tuy có các hình sắc khác nhau nhưng bóng của nó thì không sai khác. Cũng vậy, các hạnh bố thí… tuy mỗi hạnh khác nhau, nhưng do Bát-nhã nhiếp thụ hồi hướng trí nhất thiết trí, nhưng do Bát-nhã nhiếp thụ hồi hướng trí nhất thiết trí , lấy vô sở đắc làm phương tiện cũng không có sai khác.

Lại nữa, so sánh công đức tự biên chép cúng dường không bằng công đức biên chép rồi đem tặng biếu cho người khác.

Kế đến nói, Đức Phật thành đạo rồi cũng trở lại trụ trong pháp này, cúng dường tôn trọng, tán thán huống chi người đang cầu Vô thượng Bồ-đề mà không chí tâm quy y Bát-nhã thâm diệu này.

Kế đến, tuần tự so sánh công đức càng lúc càng nhiều cho đến công đức giáo hóa hữu tình trong tất cả thế giới ở khắp mười phương đều học bốn thiền, bốn đẳng, bốn định, năm thông cũng không bằng công đức biên chép Bát-nhã và truyền bá cho mọi người, vì trong tạng bí mật này, tuyên thuyết rộng tất cả pháp vô lậu như bố thí…, vì chủng tính ba thừa học pháp này, người trong mỗi thừa đều chóng chứng đắc đạo quả.

Lại nữa, công đức giáo hóa tất cả hữu tình đều tu bốn thiền cho đến năm thông, nhưng vẫn không khỏi bị đọa ác đạo không bằng công đức giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự lưu. Công đức giáo hóa tất cả hữu tình khiến họ trụ quả A-la-hán bằng với công đức giáo hóa một hữu tình an trụ Độc giác Bồ-đề. Công đức giáo hóa tất cả hữu tình đều trụ Độc giác chẳng bằng công đức giáo hóa một hữu tình hướng đến Vô thượng giác khiến cho con mắt Phật ở thế gian không bị đoạn dứt. Do có Bồ-tát mới có ba thừa và ba ngôi quý báu. Do từ trong tạng bí mật Bát-nhã này thuyết pháp mới có sự thiết lập thiện quả thiện nhân của thế gian và xuất thế gian. Nếu tư duy đúng như lý Bát-nhã thì được phước đức nhiều hơn giáo hóa tất cả hữu tình trụ năm thần thông. Tư duy đúng lý nghĩa là thực hành sự giác biết chẳng phải hai, chẳng phải không hai mà tư duy đúng lý đối với Bát-nhã và sáu độ, hai mươi không…

Lại nữa, nếu đối với Bát-nhã này dùng vô lượng môn tuyên thuyết, khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý khiến cho mọi người dễ hiểu thì công đức này nhiều hơn công đức tự thụ trì, đọc tụng, tư duy đúng lý.

Nghĩa lý Bát-nhã tức là chẳng phải hai, chẳng phải không hai, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, cho đến chẳng phải thật tế, chẳng phải phi thật tế. Nghĩa lý như thế có vô lượng môn, nếu người nào có thể dạy cho người khác dễ hiểu thì công đức của người ấy hơn công đức tự thụ trì gấp vô lượng lần.

Đế Thích bạch Phật: Các thiện nam, thiện nữ nên dùng các thứ văn nghĩa khéo léo tuyên thuyết khai thị Bát-nhã như thế.

Đức Phật ngợi khen và ấn chứng điều đó. Kế đến Đức Phật nói: Nếu lấy hữu sở đắc làm phương tiện thì chỉ được gọi là bố thí… chứ không được gọi là Ba-la-mật-đa. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện thì có khả năng thực hiện trọn vẹn sáu ba-la-mật-đa. Nếu nói tương tự Bát-nhã cho đến tương tự bố thí… thì làm cho người mới phát tâm tu học bị lầm lạc, thoái lui ở giữa chừng, thế nên phải dùng huệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo tuyên thuyết pháp sáu độ cho người phát tâm Vô thượng bồ-đề. Nếu nói sáu độ hữu sở đắc thì bị gọi là nói tương tự sáu độ. Nếu nói sắc… hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, lại còn nói thực hành Bát-nhã nên cầu sắc… hoặc thường, hoặc vô thường… Nếu người cầu sắc… hoặc thường, hoặc vô thường… như thế đều là nói hữu sở đắc tương tự Bát-nhã, nói rộng ra thì tịnh lự cho đến bố thí cũng vậy.

Lại nữa, hễ lấy hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện và ý tưởng về thời phần dạy người khác tu học sáu độ cho đến tùy hỉ, hồi hướng đều là thuyết pháp tương tự. Nếu nói sáu độ vô sở đắc, đây gọi là tuyên thuyết đúng về sáu độ, nói như vầy: “Ông nên tu Bát-nhã, chẳng nên quán sắc… hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắc…, tự tính của sắc… là không. Tự tính của sắc… này tức chẳng phải tự tính. Nếu chẳng phải tự tính thì tức là Bát-nhã. Đối với Bát-nhã này thì sắc… chẳng thể thủ đắc, thường, vô thường kia cũng chẳng thể thủ đắc. Vì sao? Vì trong pháp Bát-nhã này còn không có sắc… có thể thủ đắc, hà huống có thường và vô thường kia. Ông nếu tu được Bát-nhã như thế chính là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cũng nói như vậy. Đó là tuyên thuyết chân chính Bát-nhã, nói rộng ra thì tĩnh lự cho đến bố thí… cũng vậy”.

Lại nói: “Lúc ông tu học, chớ quán các pháp có chút để trụ, để siêu, để nhập, để đắc, để chứng, để thụ trì…, công đức thu hoạch được và để tùy hỉ hồi hướng Bồ-đề. Vì sao? Vì đối với Bát-nhã này cho đến bố thí ba-la-mật-đa rốt ráo không có chút pháp nào để trụ, để siêu, để nhập…, vì tự tính của tất cả pháp đều không, đều vô sở hữu. Nếu vô sở hữu tức là Bát-nhã cho đến bố thí ba-la-mật-đa. Đối với Bát-nhã… này rốt ráo không có chút pháp có nhập, có xuất, có sinh, có diệt, có đoạn, có thường, có nhất, có dị, có lai, có khứ mà có thể thủ đắc. Nói những lời này là nói chân chính Bát-nhã cho đến bố thí ba-la-mật-đa.

Kế đến lại so sánh về phước đức cho đến nếu tất cả hữu tình trong khắp mười phương đều bất thoái chuyển đối với Vô thượng Bồ-đề; có người đối với Bát-nhã này dùng vô lượng văn nghĩa khéo léo tuyên thuyết cho người khác nghe và làm cho họ dễ hiểu. Lại nói: Này thiện nam tử! Ông nên nghe nhận thông thuộc, tư duy đúng lý pháp Bát-nhã thâm diệu này, theo pháp môn của Bát-nhã tuyên thuyết mà tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học, thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, thì có thể tu Bát-nhã đến chỗ viên mãn, chứng Vô thượng Bồ-đề. Công đức của người này thu hoạch nhiều hơn người kể trên.

Lại nữa, cho đến có người giáo hóa tất cả hữu tình trong khắp mười phương đều được bất thoái chuyển vô thượng Bồ-đề, lại có người tuyên thuyết Bát-nhã khiến cho người khác dễ hiểu, thì phước đức của người này nhiều hơn người đã nói trước.

Có người khuyên một người mau chứng Vô thượng Bồ-đề, dạy họ tuyên thuyết ba thừa cứu độ tất cả hữu tình. Lại có người tuyên thuyết Bát-nhã làm cho người khác dễ hiểu thì phước đức của người này nhiều hơn phước đức của người trước. Vì sao? Vì Bồ-tát muốn chóng đắc Đại bồ-đề rất cần phải nhờ pháp được tuyên thuyết, vì cầu chóng đạt đến Vô thượng giác, vì vận dụng tâm đại bi quán sinh từ khổ hết sức thông thiết.

Bây giờ Đế Thích tán thán, ngài Thiện Hiện ngợi khen và ấn chứng.

PHẨM THỨ 31: TÙY HỈ HỒI HƯỚNG
Bồ-tát Di-lặc bạch thượng tọa Thiện Hiện: “Bồ-tát đối với công việc của tất cả hữu tình, tùy hỉ cùng làm các việc phước nghiệp, đem việc phước nghiệp này vì tất cả hữu tình cùng nhau hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện nên đối với các việc phước nghiệp của phàm phu và nhị thừa là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Hạng phàm phu chỉ vì sự an vui của chính mình, còn Nhị thừa thì vì tự điều phục đắc tịnh tĩnh niết-bàn, duy hàng Bồ-tát thì vì tất cả hữu tình.

Thiện Hiện hỏi: Bồ-tát này duyên khắp các sự việc của Phật và Thánh chúng ở khắp mười phương mà phát tâm tùy hỉ hồi hướng. Vì có những duyên sự như thế, vậy Bồ-tát ấy có chấp tướng chăng?

Di-lặc đáp: Thật ra không có những duyên sự như vậy để Bồ-tát kia chấp tướng.

Thiện Hiện hỏi: Phát tâm tùy hỉ hồi hướng như thế chẳng lẽ là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo?

Di-lặc đáp: Nếu Bồ-tát tu hành sáu độ đã lâu, đã từng cúng dường chư Phật, gieo trồng căn lành, đã phát đại nguyện, được các thiện hữu nhiếp thụ, khéo học nghĩa tự tướng không của các pháp, không chấp tướng đối với các duyên sự và tất cả pháp mà có thể phát tâm tùy hỉ hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Tùy hỉ hồi hướng như thế, lấy chẳng phải hai, chẳng phải không hai làm phương tiện, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng làm phương tiện, chẳng phải hữu sở đắc, chẳng phải vô sở đắc làm phương tiện, chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh làm phương tiện, chẳng phải sinh chẳng phải diệt làm phương tiện, cho nên không chấp tướng đối với các sự duyên cho đến Vô thượng Bồ-đề, nên chẳng thuộc điên đảo. Nếu người tu sáu độ chưa lâu vì chấp tướng mà phát tâm tùy hỉ hồi hướng thì vẫn thuộc về điên đảo.

Lại nữa, chẳng nên tuyên thuyết Bát-nhã cho đến nghĩa tự tướng không của tất cả pháp cho hạng Bồ-tát mới học nghe, vì tuy họ có tin nhận, ưa thích chút ít, nhưng họ nghe rồi thì đều quên mất, nghi ngờ, sợ hãi, sinh ra phỉ báng.

Nếu đối với Bồ-tát bất thoái chuyển hoặc người đã từng cúng dường chư Phật thì nên giảng nói cho họ nghe về Bát-nhã cho đến nghĩa tự tướng không của các pháp vì họ có khả năng thụ trì, không bao giờ quên mất.

Thiện Hiện nói: Người này dụng tâm tận diệt, ly và biến thì duyên sự này và các căn lành cũng đều tận diệt, ly và biến. Tâm nào được vận dụng? Căn cứ vào các duyên sự nào và các căn lành nào mà nói tùy hỉ hồi hướng Vô thượng Bồ-đề? Tâm này đối với tâm, lẽ ra chẳng nên có tùy hỉ hồi hướng vì không có hai tâm sinh khởi cùng một lúc, vì tâm cũng chẳng thể tùy hỉ hồi hướng tự tính của tâm.

Nếu Bồ-tát tu hành Bát-nhã biết đúng như thật sắc…đều vô sở hữu đem tùy hỉ cùng làm các việc phước nghiệp hồi hướng Vô thượng Bồ-đề thì được gọi là tùy hỉ hồi hướng Bồ-đề không điên đảo.

Đế Thích hỏi: Bồ-tát mới học nghe pháp này sẽ không nghi ngờ, sợ hãi thì làm thế nào để tu căn lành hồi hướng? Làm sao nhiếp thụ tùy hỉ cùng thực hành hồi hướng các phước nghiệp?

Thiện Hiện nhờ sức gia hộ của Bồ-tát Di-lặc, đáp: Bồ-tát mới học tu Bát-nhã dùng vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện nhiếp thụ Bát-nhã cho đến tu Vô thượng Bồ-đề cũng vậy. Do nhân duyên này phần nhiều họ tin hiểu Bát-nhã cho đến tin hiểu Vô thượng Bồ-đề. Do nhân duyên này thường được thiện hữu nhiếp thụ, dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo thuyết pháp tương ứng sáu độ cho họ nghe khiến họ được nhập vào chính tính vô sinh của Bồ-tát, thường chẳng xa lìa pháp Bát-nhã…

Lại nữa, Bồ-tát mới học tùy theo hành tu bố thí…, tùy theo sự an trụ nội không… đều nên dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì tất cả hữu tình cùng nhau hồi hướng Vô thượng Bồ-đề.

Lại nữa, Bồ-tát mới học nên phát tâm tùy hỉ Vô đẳng đẳng đối với công đức của chư Phật và đệ tử Phật ở khắp mười phương, căn lành của trời người, tất cả tập hợp lại, rồi đem phước nghiệp vì tất cả hữu tình cùng nhau hồi hướng Vô thượng Bồ-đề.

Di-lặc hỏi Thiện Hiện: Làm sao để chẳng bị đọa tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo?

Thiện Hiện đáp: Đối với công đức của Phật và đệ tử Phật, chẳng khởi ý tưởng về công đức của Phật và đệ tử Phật. Đối với căn lành của trời người đã gieo trồng, chẳng khởi ý tưởng về căn lành của trời, người. Đối với sự phát tâm tùy hỉ hồi hướng, cũng chẳng khởi ý tưởng tùy hỉ hồi hướng thì Bồ-tát này không có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo, nếu chấp tướng thì có điên đảo.

Lại nữa, biết đúng tâm này tận diệt, ly, biến chẳng phải năng tùy hỉ. Biết đúng pháp ấy, tính nó cũng vậy, chẳng phải sở tùy hỉ. Lại thấu hiểu đúng tâm năng hồi hướng, pháp tính cũng vậy, chẳng phải năng hồi hướng, và thấu hiểu đúng pháp sở hồi hướng, tính nó cũng vậy, chẳng phải sở hồi hướng. Nếu theo những lời nói này mà tùy hỉ hồi hướng thì đúng, chẳng phải sai.

Di-lặc lại hỏi: Tại sao chẳng chấp tướng mới có thể tùy hỉ hồi hướng?



tải về 1.17 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương