3.2.Ngoại thương Việt Nam sau CMT 8 1945-1975
* Bối cảnh: Đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh, ngoại thương nhằm mục tiêu vừa đấu tranh chống âm mưu bao vây và phong tỏa của các đế quốc Pháp vừa duy trì và mở rộng giao lưu kinh tế với bên ngoài.
Thời kỳ 1955 - 1975 là thời kỳ cải tạo và xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá theo CNXH ở miền Bắc, vừa phải tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Từ năm 1955, Chính phủ ta đã ký với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác các hiệp định về viện trợ hàng hoá và kỹ thuật nhằm giúp nhân dân ta khắc phục hậu quả của chiến tranh, mở đầu sự hợp tác toàn diện giữa ta với các nước XHCN anh em.
Đối với các nước ngoài hệ thống XHCN, Chính phủ ta ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Pháp (cuối năm 1955), ấn độ (1956), Inđônêxia (1957) và những năm sau đó với Cộng hoà ả-Rập thống nhất, Campuchia, Irăc. Song song với việc thiết lập quan hệ kinh tế thương mại, về mặt Nhà nước ta cũng đặt quan hệ buôn bán với một số thị trường trong khu vục Châu Á - Thái Bình Dương. Từ năm 1955, các tổ chức kinh tế Việt Nam đã đặt quan hệ buôn bán với các công ty Nhật Bản, Hồng Kông, Xingapo, Xrilanca, CHLB Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Anh, Thuỵ Sĩ, Thụy Điển v.v... Đến năm 1964, miền Bắc đã có quan hệ thương mại với 40 nước (năm 1955 mới có 10 nước).
* Tình hình ngoại thương
- Xuất khẩu tăng rất chậm. Trong kim ngạch NK, tỷ trọng viện trợ không hoàn lại lớn. Ngoại thương chủ yếu với các nước XHCN (chiếm 85-90% tổng kim ngạch buôn bán với nước ngoài).
- Nhập siêu cực kỳ lớn: Nếu cộng cả giai đoạn từ năm 1958 đến 1975 theo số liệu của bảng 6.2 thì tổng giá trị xuất khẩu chỉ là 1,129 tỷ Rúp nhưng giá trị nhập khẩu lên đến 3,693 tỷ Rúp.
3.3.Ngoại thương Việt Nam từ 1975 đến 1986 ( trước thời kỳ đổi mới )
* Bối cảnh: Đất nước được thống nhất, chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước (đất đai, rừng, biển, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, nguồn lao động và yếu tố con người, vị trí của Việt Nam v.v...) Chiến tranh kéo dài để lại những hậu quả kinh tế nặng nề.
* Tình hình ngoại thương
Bảng 1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976-1985
Đơn vị : Triệu rúp- USD
Năm
|
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
|
Xuất khẩu
|
Nhập khẩu
|
Cán cân thương mại
|
Trị giá
|
Tỷ lệ %
|
1976
|
1.226.8
|
222.7
|
1.004.1
|
-881.4
|
22.20%
|
1977
|
1.540.9
|
322.5
|
1.218.4
|
-815.9
|
28.30%
|
1978
|
1.630.0
|
326.8
|
1.303.2
|
-976.4
|
25.10%
|
1979
|
1.846.6
|
320.5
|
1.526.1
|
-1.205.6
|
21.00%
|
1980
|
1.652.8
|
338.6
|
1.314.2
|
-975.6
|
25.80%
|
1981
|
1.783.4
|
401.2
|
1.382.2
|
-981
|
29.00%
|
1982
|
1.998.8
|
526.6
|
1.472.2
|
-945.6
|
35.80%
|
1983
|
2.143.2
|
616.5
|
1.526.7
|
-910.2
|
40.40%
|
1984
|
2.394.6
|
649.6
|
1.745.0
|
-1.095.4
|
37.20%
|
1985
|
2.555.9
|
698.5
|
1.857.4
|
-1.158.9
|
37.60%
|
Tổng số
|
18.773.0
|
4.423.5
|
14.349.5
|
-9.926.0
|
30.80%
|
Hầu hết các loại hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất trong nước không đảm bảo.
Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc, thiết bị còn nhập khẩu cả hàng tiêu dùng. Kể cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như lúa gạo, vải mặc. Trong những năm 1976 – 1985 đã nhập khẩu 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo.
Xuất khẩu tuy có tăng nhưng trị giá xuất khẩu quá thấp.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |