ĐẠi học an giang khoa kinh tế quản trị kinh doanh tóm tắt bài giảng MÔn lý thuyếT & chính sách thưƠng mại quốc tế


Chi phí cơ hội (Opportunity Cost)



tải về 0.69 Mb.
trang5/16
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích0.69 Mb.
#22968
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

2.4Chi phí cơ hội (Opportunity Cost)


Ngoài lao động thì sản phẩm còn cần nhiều yếu tố khác như vốn, kỹ thuật, đất đai, …. Năm 1936 Gottfried Haberler phát triển thuyết lợi thế so sánh bằng cách dựa trên lý thuyết chi phí cơ hội để giải thích quy luật lợi thế so sánh.

Giả sử không có mậu dịch, người Nhật2 phải sản xuất gạo để ăn, mà một giờ sản xuất 1 kg gạo thì đã mất cơ hội sản xuất 3 con chip điện tử. Như vậy chi phí cơ hội tạo ra 1 kg gạo của Nhật Bản là 3 con chip, còn Việt Nam là 1/2. Nói cách khác, chi phí cơ hội của một sản phẩm là số lượng của một sản phẩm khác mà người ta phải hy sinh để có đủ tài nguyên làm tăng thêm một đơn vị sản phẩm thứ nhất.

Qua ví dụ trên cho thấy Việt Nam có chi phí cơ hội thấp trong sản xuất gạo so với Nhật Bản (1/2<3) nên Việt Nam có lợi thế so sánh; ngược lại trong sản xuất chip điện tử, Nhật Bản có lợi thế hơn.

Như đã đề cập ở phần 1.2, nguồn lực mỗi quốc gia đều hữu hạn nên các quốc gia sẽ phải lựa chọn những sản phẩm có lợi thế so sánh, chi phí cơ hội càng thấp càng tốt để sản xuất và trao đổi với nhau. Giao thương giúp cho các quốc gia tham gia “mở rộng” khả năng sản xuất (đường giới hạn sản xuất) của mình.



Ví dụ 2.4:

Bảng 2.6 : Phân bổ nguồn lực hữu hạn ở Mỹ và Anh

Mỹ

Anh

Thép

Vải

Thép

Vải

180

0

60

0

150

20

50

20

120

40

40

40

90

60

30

60

60

80

20

80

30

100

10

100

0

120

0

120

Nếu không thương mại, cả hai nước Mỹ và Anh ở tự cung, tự cấp; trong nước sản xuất bao nhiêu sẽ đáp ứng tiêu dùng bấy nhiêu. Giả sử Mỹ chọn mức sản xuất và tiêu dùng ở mức A (90; 60) và Anh ở A’ (40; 40). Mặt khác, Mỹ tập trung sản xuất thép tại C (180; 0) và Anh tập trung vào vải tại C’ (0; 120); sau đó hai nước trao đổi với nhau theo tỷ lệ 70 thép = 70 vải. lúc này tiêu dùng của hai nước đều gia tăng, tại Mỹ là B (110; 70) và Anh B’ (70; 50). So với khi tự cung tự cấp người Mỹ đã tăng phúc lợi 20 thép và 10 vải; còn người Anh tăng phúc lợi là 30 thép và 10 vải. Rõ ràng thương mại đã giúp hai nước tăng mức thỏa dụng cho nền kinh tế của mình.

Việc chuyên môn hóa vào mặt hàng có chi phí cơ hội thấp, đã giúp các nước sử dụng tài nguyên, nguồn lực phát triển hiệu quả hơn.





Hình 2.1: Thương mại làm gia tăng phúc lợi của nền kinh tế

Xét theo kinh tế toàn cầu, khi không mua bán, cả người Mỹ và Anh chỉ tạo ra 130 thép + 100 vải. Khi phân công sản xuất hợp lý, 2 nước này đã tạo ra 180 thép + 120 vải, đóng góp được nhiều hơn cho nền kinh tế thế giới.


2.5Lợi thế kinh tế nhờ quy mô (Economy of Scale)


Ví dụ 2.5:

Một chiếc xe đò 15 chỗ nếu vận chuyển 5 hành khách thì chi phí trung bình trên một hành khách là 300.000 đồng; nếu chở 10 hành khách thì chi phí trung bình còn 150.000 đồng, còn nếu chở 15 khách thì chi phí trung bình còn 100.000 đồng. Nhờ vào quy mô vận chuyển tăng lên làm chi phí giảm xuống. Quy luật này cũng diễn ra ở doanh nghiệp, quy mô sản xuất của doanh nghiệp càng mở rộng thì chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm càng giảm do biến phí/đơn vị giảm. Tương tự, nền kinh tế có quy mô càng lớn thì lợi thế kinh tế nhờ quy mô cũng lớn tương ứng.

Các ví dụ trên gọi là lợi thế kinh tế nhờ quy mô bên trong; ngoài ra, lợi thế kinh tế nhờ quy mô bên ngoài diễn ra khi các doanh nghiệp tập trung vào một khu công nghiệp nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất. Các quốc gia thành lập khu vực mậu dịch tự do cũng nhằm tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô bên ngoài.

Chương 3CÁC LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI

3.1Chi phí cơ hội gia tăng




Nhắc lại:

Đường bàng quan tập hợp những phối hợp khác nhau về hai loại sản phẩm mà người tiêu dùng đạt được mức thỏa mãn như nhau. Vì thế người tiêu dùng có thái độ bàng quan không phân biệt giữa hai điểm bất kỳ trên cùng một đường bàng quan.

Đường bàng quan càng nằm xa gốc tọa độ thì mức độ thỏa mãn càng cao và ngược lại.

Cân bằng nội địa: Nếu không có mậu dịch một quốc gia đạt được cân bằng khi đường bàng quan cao nhất tiếp xúc với đường giới hạn sản xuất. Hay giá cả sản phẩm so sánh cân bằng nội địa được xác định bởi độ dốc của đường tiếp tuyến chung của đường giới hạn sản xuất của quốc gia và đường bàng quan tại điểm cân bằng tức là tại điểm tự cung tự cấp.

Cân bằng nội địa tại mức giá cả sản phẩm so sánh và biểu thị lợi thế so sánh của quốc gia.
Haberler đã giả định rằng chi phí cơ hội không đổi khi đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội. Điều này không đúng trong thực tế vì càng chuyên môn hóa trong sản xuất thì chi phí cơ hội càng tăng.

Ví dụ: thăm dò dầu hỏa ở gần với chi phí thấp và thăm dò dầu hỏa ở xa với chi phí cao; hay nuôi tôm trên đất trồng lúa xấu (chi phí cơ hội thấp) và nuôi tôm trên đất trồng lúa tốt (chi phí cơ hội cao).

Chi phí cơ hội ngày càng tăng có nghĩa rằng quốc gia phải hy sinh ngày càng nhiều hơn sản phẩm này để dành tài nguyên sản xuất 1 đơn vị sản phẩm kia.

Khi xác định được lợi thế so sánh, mỗi quốc gia sẽ chuyên môn hóa vào sản xuất sản phẩm đó để trao đổi, tuy nhiên khi chuyên môn hóa thì dẫn đến chi phí cơ hội tăng lên. Do đó cả hai quốc gia chỉ chuyên môn hóa đến khi giá cả là như nhau ở cả hai quốc gia.

Hai quốc gia có thị hiếu tiêu dùng khác nhau khi trao đổi vẫn thu được lợi ích cho cả hai.

Một vài khái niệm khác:

Mức chi phí cơ hội gia tăng được gọi là tỷ lệ chuyển dịch biên (MRT), được đo bằng độ dốc của đường tiếp tuyến với đường giới hạn khả năng sản xuất tại điểm sản xuất.

Tỷ lệ thay thế biên (MRS) biểu thị số lượng sản phẩm này phải giảm đi để thay thế bằng một đơn vị sản phẩm kia mà mức thỏa mãn vẫn không đổi, được đo bằng độ dốc của đường bàng quan.



tải về 0.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương