I- nhậN ĐỊnh tình hình miền bắC



tải về 393.56 Kb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích393.56 Kb.
#13234
1   2   3   4   5   6

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân lao động miền Bắc đã phát huy vai trò làm chủ, phát huy truyền thống yêu nước và lao động cần cù, phấn đấu không mệt mỏi cho chủ nghĩa xã hội và thống nhất Tổ quốc. Lực lượng của công nhân ngày càng phát triển và củng cố, đã tỏ rõ vai trò tiên phong trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, sản xuất, xây dựng và học tập. Nông dân, thợ thủ công, những người bạn chiến đấu lâu nǎm cùng chung quyền lợi với công nhân, phần lớn bắt đầu thấy rõ ràng con đường phát triển tư bản chủ nghĩa là nguy hại, và ngày càng kiên quyết đi theo con đường hợp tác hoá xã hội chủ nghĩa. Quân đội nhân dân không ngừng phát huy truyền thống vì nhân dân phục vụ, đã ngày đêm luyện tập, nâng cao nǎng lực quốc phòng, đồng thời đã tích cực tham gia mọi mặt hoạt động, thiết thực góp phần đẩy mạnh phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hoá. Các bạn trí thức bước đầu được cải tạo tư tưởng, đội ngũ được mở rộng thêm, đã có những cống hiến quan trọng vào sự nghiệp xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hoà mình trong các tầng lớp nhân dân lao động miền Bắc, cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết đã tỏ rõ một tinh thần yêu nước rất cao, góp nhiều thành tích trong mọi mặt công tác, tích cực tham gia củng cố miền Bắc, phối hợp thiết thực với phong trào đấu tranh anh dũng của đồng bào ở miền Nam. Đi theo con đường của Đảng, nhân dân lao động nước ta là lực lượng vĩ đại sáng tạo mọi thành quả của cách mạng. ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng dần dần được nâng cao là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi ngành hoạt động, bảo đảm giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội.

Trong hoàn cảnh kinh tế thấp kém, miền Bắc nước ta sở dĩ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nhanh chóng kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa, một mặt là do cố gắng của nhân dân ta, mặt khác là nhờ sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Trong khi khôi phục kinh tế, công nghiệp quốc doanh của ta rất nhỏ yếu, chính nhờ sự giúp đỡ của các nước anh em về hàng công nghiệp, chúng ta đã mở rộng hoạt động của mậu dịch quốc doanh, thông qua việc trao đổi hàng hoá giữa Nhà nước và nông dân mà củng cố khối liên minh công nông, ổn định thị trường, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặc biệt là các nước anh em đã giúp đỡ ta một cách toàn diện về vốn, thiết bị, nguyên liệu, kỹ thuật và chuyên gia; nhờ sự giúp đỡ ấy, chúng ta đã xây dựng những nền móng đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, dần dần phát huy khả nǎng tự lực cánh sinh của mình, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chúng ta lại được học tập những kinh nghiệm quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, nhờ đó đã đưa công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta tiến lên một cách vững vàng. Thêm nữa, những bước tiến khổng lồ của Liên Xô trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản, những thành tựu vĩ đại của Liên Xô về khoa học và kỹ thuật, những bước tiến nhảy vọt của Trung Quốc và các nước anh em khác trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đối với chúng ta, là một sự giúp đỡ rất lớn về tinh thần, làm tǎng thêm lòng tin tưởng và chí hǎng hái phấn đấu của nhân dân ta.

*
* *

Sự nghiệp cách mạng của chúng ta đang phát triển rất thuận lợi, nhưng chúng ta vẫn không chủ quan với các khó khǎn, thiếu sót.

Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp phát triển nhanh, nhiều hợp tác xã mới thành lập, phần lớn còn có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa, việc củng cố chưa theo kịp. Bên cạnh công tác quản lý kinh tế còn non kém, việc giáo dục tư tưởng trong các hợp tác xã vẫn còn yếu; ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của khá nhiều xã viên còn thấp, nhiều người chưa thật sự coi công việc và lợi ích của hợp tác xã như của nhà mình, dễ bi quan dao động mỗi khi sản xuất gặp khó khǎn. Đối với chính sách mua nông sản, mua lương thực của Nhà nước, một khâu quan trọng để thực hiện sự liên minh về kinh tế giữa công nhân và nông dân, do đó mà củng cố sự liên minh về chính trị, nhiều hợp tác xã và xã viên, kể cả một số đảng viên, không chấp hành đúng. Trong cán bộ vẫn có tình trạng chưa quán triệt chính sách quản lý lương thực của Nhà nước, tư tưởng của nông dân chưa được giải quyết tốt, tâm lý giữ thóc còn nặng. Nông dân ta rất tốt, tin tưởng vững chắc ở sự lãnh đạo của Đảng nhưng vẫn chưa xoá bỏ được hết những tư tưởng và tập quán của chế độ làm ǎn riêng lẻ, nhất là trong những người trung nông lớp trên. Chúng ta nhận rõ rằng mặt tiêu cực ấy không phải là chủ yếu và có thể khắc phục được. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp không khỏi có những bước quanh co, và trải qua thử thách sẽ càng được củng cố vững chắc hơn. Vấn đề là chúng ta phải làm tốt công tác lãnh đạo, nhất là phải tǎng cường việc giáo dục tư tưởng đối với nông dân.

Dựa trên quan hệ sản xuất tập thể đang mở rộng, sức sản xuất bước đầu phát triển, nhưng nói chung trình độ sản xuất, trình độ kỹ thuật vẫn còn lạc hậu. Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, thường xuyên bị nắng hạn, bão lụt uy hiếp. Công cụ sản xuất thô sơ mới được cải tiến một bộ phận nhỏ, sức kéo còn thiếu, việc cải tiến kỹ thuật chưa được đẩy mạnh. Vấn đề lương thực chưa được giải quyết vững chắc; các ngành khác trong nông nghiệp như cây công nghiệp, chǎn nuôi... phát triển chưa đúng mức. Nǎng suất lao động trong nông nghiệp còn kém, mức sử dụng sức lao động còn thấp, chi phí sản xuất còn cao, cho nên thu nhập của nông dân chưa tǎng được nhiều, đời sống vẫn còn thiếu thốn.

Trong thủ công nghiệp, việc cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ mới được thực hiện trong một phạm vi nhất định; nhiều ngành gặp khó khǎn về nguyên liệu, sản xuất bị hạn chế, ảnh hưởng đến đời sống của một số lao động thủ công.

Công tác quản lý xí nghiệp, công trường của ta đã được cải tiến một bước nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sức sản xuất, chưa phát huy được đầy đủ nhiệt tình lao động của công nhân. Cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề thiếu nhiều; việc lãnh đạo và quản lý kỹ thuật còn lỏng lẻo; bảo quản và sử dụng máy móc còn nhiều thiếu sót, thường xảy ra hư hỏng nhưng thiếu phụ tùng thay thế, mức lợi dụng công suất thiết bị nói chung còn thấp. Các nguyên liệu, vật liệu trong nước thường phân tán, có nơi, có lúc vận chuyển không kịp thời gian. Nhiều thứ nguyên liệu, vật liệu quan trọng phải nhập khẩu; tình trạng cung cấp nguyên liệu, vật liệu, nhất là sắt, thép và gỗ không được đều đặn, đã gây ra lãng phí nhân lực, ảnh hưởng không tốt đến việc thi công xây dựng cơ bản và đến sản xuất.

Do yêu cầu của nhiệm vụ củng cố và bảo vệ miền Bắc, chúng ta cần phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, nhưng làm chưa được tốt. Chúng ta có cố gắng phát triển giao thông vận tải, tuy nhiên vẫn chưa phục vụ kịp yêu cầu về kinh tế cũng như về quốc phòng.

Về chỉ đạo, chúng ta có một số thiếu sót: trong việc lập kế hoạch, chúng ta có phần chủ quan, có một số chỉ tiêu đặt quá cao, gây ra tình hình cǎng thẳng trong khi thực hiện. Một số bộ phận không đạt kế hoạch làm cho tác dụng động viên có bị hạn chế. Một số chính sách cụ thể đề ra chậm hoặc không được kịp thời bổ sung; công tác kiểm tra không được chặt chẽ, tình trạng lãng phí, tham ô còn khá phổ biến. Công tác giáo dục quần chúng, phát động tư tưởng của quần chúng làm chưa được sâu sắc, chỉ đạo về biện pháp thiếu cụ thể, thiếu khẩn trương; nhiều nǎng lực tiềm tàng chưa được phát huy đúng mức. Việc phân cấp quản lý kinh tế không được nghiên cứu một cách ǎn khớp giữa các ngành, thi hành còn dở dang, đó là một trở ngại lớn cho việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch.

*

Nhìn chung, chúng ta nhận định rằng:



- Sau khi hoàn thành kế hoạch 3 nǎm, nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc bắt đầu có những chuyển biến sâu sắc. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định. Thông qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phong trào quần chúng phát triển ngày càng sâu rộng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đang dần dần chiếm ưu thế. Về mặt quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa đã chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế quốc dân. Theo đà chuyển biến của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, các ngành kinh tế và vǎn hoá, nhất là sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, bắt đầu phát triển với nhịp độ nhanh; cơ cấu của các ngành công nghiệp và nông nghiệp được điều chỉnh tiến bộ hơn trước. Trên cơ sở phát triển sản xuất, đời sống của nhân dân dần dần được cải thiện.

- Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mở rộng chưa khắp và chưa được củng cố vững chắc; trình độ sản xuất vẫn còn lạc hậu. Việc giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho quần chúng làm chưa được sâu sắc. Sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm bộ phận lớn và còn bấp bênh; công nghiệp hiện đại, nhất là công nghiệp nặng còn nhỏ bé, chưa giải quyết được các nhu cầu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Các ngành sản xuất và vận tải còn nhiều khả nǎng tiềm tàng chưa được phát huy. Lực lượng cán bộ và công nhân kỹ thuật còn ít, trình độ kỹ thuật còn non kém. Nhân lực dồi dào nhưng sử dụng chưa được hợp lý. Vì nǎng suất lao động xã hội còn thấp cho nên thu nhập và mức sống của nhân dân còn thấp.

Chúng ta cần nhận rõ hai mặt ấy của tình hình miền Bắc trong khi xây dựng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất và chỉ đạo thực hiện kế hoạch.

II- NHIỆM VỤ CƠ BẢN CỦA KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT

Cǎn cứ vào nhận định về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và tình hình miền Bắc sau khi hoàn thành kế hoạch 3 nǎm, Ban Chấp hành Trung ương nhận định:

Trong thời gian kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, sau khi cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa giành được thắng lợi có tính chất quyết định, chúng ta cần phải chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Về những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương thấy cần phải:

a) Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, tích cực phát triển giao thông vận tải, tǎng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên biến nước ta thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.

b) Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa; củng cố và tǎng cường thành phần kinh tế quốc doanh, tǎng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

c) Nâng cao trình độ vǎn hoá của nhân dân; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao nǎng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động; đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thǎm dò tài nguyên tự nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.

d) Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta được ǎn no, mặc ấm, tǎng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.

e) Đi đôi và kết hợp với phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tǎng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Nǎm nhiệm vụ ấy liên hệ mật thiết với nhau, thể hiện yêu cầu phát triển có trọng tâm và toàn diện, phát triển với nhịp độ nhanh và theo tỷ lệ của nền kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong thời gian kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, nhằm củng cố miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững chắc của nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Dựa theo sự tính toán bước đầu, chúng tôi đề nghị lấy những con số kiểm tra chủ yếu sau đây để làm cǎn cứ cho việc xây dựng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất:

Đến nǎm 1965, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp có thể tǎng gần 1,5 lần so với nǎm 1960*, bình quân hàng nǎm tǎng khoảng 20%, trong đó nhóm A tǎng 25,8%, nhóm B tǎng 16%. Nhịp độ phát triển ấy là tích cực, xấp xỉ với tốc độ bình quân trong thời gian kế hoạch 3 nǎm 1958-1960 (dự tính là 21%). Để bảo đảm mức phát triển ấy, cần phải huy động các nǎng lực tiềm tàng của thủ công nghiệp hợp tác hoá, của các xí nghiệp công tư hợp doanh, các xí nghiệp hợp tác; quan trọng nhất là phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc doanh. Về các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh do trung ương quản lý, dự định có thể tǎng 199% so với nǎm 1960; bình quân hàng nǎm tǎng 24,5%. Trong việc định chỉ tiêu về tốc độ phát triển của công nghiệp quốc doanh, chúng tôi dựa vào yêu cầu và khả nǎng động viên các nhân tố tích cực trong việc xây dựng cơ bản cũng như trong sản xuất. Cần phải hoàn thành phần lớn các công trình mới xây dựng trong thời gian kế hoạch 5 nǎm, tích cực cải tiến và mở rộng các xí nghiệp sẵn có, tranh thủ đưa vào sản xuất đúng thời hạn; đồng thời, phải nâng mức lợi dụng nǎng lực các xí nghiệp sẵn có cũng như các xí nghiệp mới lên khoảng 70 đến 99% công suất thiết kế; chúng tôi dự tính ngoài việc sử dụng tốt các xí nghiệp sẵn có, các xí nghiệp mới xây dựng trong kế hoạch 5 nǎm, đến nǎm 1965, sẽ chiếm trên 60% tổng giá trị sản lượng. Về công nghiệp quốc doanh địa phương, tốc độ dự kiến phát triển còn có phần thấp, trong khi lập kế hoạch chúng tôi sẽ cùng với các địa phương nghiên cứu để đẩy mạnh hơn nữa.

Về nông nghiệp, giá trị tổng sản lượng nǎm 1965 có thể tǎng khoảng 61% so với dự tính thực hiện kế hoạch nǎm 1960, bình quân hàng nǎm tǎng khoảng 10%. So với mấy nǎm trước đây, chúng ta thấy rằng trong kế hoạch 5 nǎm, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ nhanh (trong ba nǎm khôi phục kinh tế 1955-1957, bình quân hàng nǎm nông nghiệp tǎng 10%; từ nǎm 1955 đến nǎm 1959 bình quân hàng nǎm tǎng 11,2%). Trong khi xây dựng chỉ tiêu về tốc độ phát triển của nông nghiệp, chúng tôi đã chú ý vận dụng phương châm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, đã tính đến những cố gắng rất lớn của chúng ta về các mặt phát triển và củng cố các hợp tác xã, các nông trường quốc doanh, đẩy mạnh công tác thủy lợi, xúc tiến việc cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật..., hết sức phát huy sự giúp đỡ của công nghiệp đối với nông nghiệp; mặt khác, cũng có chiếu cố những khó khǎn do thiên tai thường xuyên gây ra và khả nǎng khắc phục những khó khǎn ấy trong những nǎm tới.

Theo những dự tính đã đề ra, đến nǎm 1965, trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và nông nghiệp, tỷ trọng của công nghiệp và thủ công nghiệp sẽ chiếm khoảng 51%, nông nghiệp sẽ chiếm khoảng 49%.

Về tỷ trọng của các thành phần kinh tế, dự tính: trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp, nǎm 1965, công nghiệp quốc doanh có thể chiếm 68,9%, các xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác chiếm 5,3%, thủ công nghiệp hợp tác hoá chiếm 17,7%. Trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, các nông trường quốc doanh sẽ tǎng giá trị sản lượng lên gấp hơn 10 lần, chiếm khoảng 5,8%, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 86,2%, sản xuất cá thể còn khoảng 8%.

Về xây dựng cơ bản kinh tế và vǎn hoá, dự định trong kế hoạch 5 nǎm, Nhà nước sẽ đầu tư 5.100 triệu đồng, chiếm khoảng 48% ngân sách chi. So với số vốn đã đầu tư trong 5 nǎm trước đây thì tổng mức đầu tư trong kế hoạch 5 nǎm tǎng 1,5 lần. Với tổng mức đầu tư ấy, vốn xây dựng cơ bản bình quân hàng nǎm tǎng hơn gấp đôi so với thời gian kế hoạch 3 nǎm. Trong kế hoạch 5 nǎm, chúng ta cần phải ra sức xây dựng cơ bản có tính chất sản xuất, tập trung khả nǎng về vốn, vật tư và thi công, xây dựng kịp thời các công trình trọng điểm về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông có tác dụng lớn thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển với nhịp độ nhanh. Đồng thời, cần phải đẩy mạnh xây dựng cơ bản phục vụ việc đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật; coi trọng đúng mức việc xây dựng các công trình vǎn hoá và công trình phúc lợi để nâng cao đời sống của nhân dân, xúc tiến một bước xây dựng các thành thị, các khu công nhân và hướng dẫn xây dựng nông thôn mới, dần dần thay đổi bộ mặt thành thị và nông thôn ở miền Bắc.

Vấn đề tǎng nǎng suất và hạ giá thành là một mục tiêu phấn đấu rất quan trọng trong kế hoạch 5 nǎm. Dự định bình quân hàng nǎm, nǎng suất của ngành công nghiệp quốc doanh sẽ tǎng khoảng 9%; ngành xây dựng cơ bản sẽ tǎng khoảng 6%...

Về giáo dục và đào tạo cán bộ: tổng số học sinh phổ thông nǎm 1965 sẽ tǎng gần gấp đôi so với nǎm 1960; số học sinh chuyên nghiệp trung cấp sẽ là 85.000 người, tǎng thêm hơn 1,5 lần; số sinh viên đại học sẽ là 40.000 người, tǎng thêm hơn 2 lần. Trong 5 nǎm, sẽ có thêm gần 25.000 cán bộ tốt nghiệp đại học và gần 10 vạn cán bộ tốt nghiệp chuyên nghiệp trung cấp.

Trên cơ sở sản xuất phát triển và nǎng suất lao động nâng cao, đời sống của nhân dân lao động sẽ được cải thiện thêm một bước. Dự tính trung bình thu nhập thực tế của công nhân và nông dân nǎm 1965 có thể tǎng khoảng 30% so với nǎm 1960.

Để chấp hành đúng đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, và phương hướng nhiệm vụ đã đề ra, chúng tôi nhận thấy trong khi xây dựng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, cần nắm vững mấy chủ trương lớn sau đây:

1. Xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và ra sức hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa

Sau kế hoạch 3 nǎm, các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa đã chiếm ưu thế nhưng vẫn chưa được mở rộng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vẫn chưa được củng cố vững chắc, trình độ sản xuất và trình độ kỹ thuật nói chung vẫn còn lạc hậu. Tình hình ấy đòi hỏi trong thời gian kế hoạch 5 nǎm: Một mặt, cần phải xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội để phát triển sức sản xuất và để tǎng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, mở mang kinh tế quốc doanh, nhất là công nghiệp quốc doanh là lực lượng lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, và giúp đỡ các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ, thực hiện nửa cơ giới hoá và bước đầu cơ giới hoá sản xuất, củng cố vững chắc chế độ sở hữu tập thể. Mặt khác, cần phải làm xong việc đưa quần chúng lao động vào các hợp tác xã, chuyển các hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao, không ngừng củng cố các hợp tác xã, chú trọng nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của xã viên, tǎng cường công tác quản lý kinh tế trong các hợp tác xã cho phù hợp với yêu cầu phát triển của sức sản xuất. Cần kết hợp chặt chẽ việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội với việc hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa để mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ sản xuất và trình độ kỹ thuật, đẩy mạnh phát triển sức sản xuất. Trong hai nhiệm vụ ấy, việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là khâu quyết định nhất để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên, đồng thời việc hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa là một khâu rất quan trọng. Cho nên chúng ta cần chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, và phải chú trọng đầy đủ hoàn thành tốt công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện những nhiệm vụ ấy là vừa tiến hành đấu tranh giai cấp, vừa đấu tranh với tự nhiên, là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, vǎn hoá và kỹ thuật. Trong thời gian kế hoạch 3 nǎm, trọng tâm của nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; chúng ta đã chú trọng tǎng cường đấu tranh về kinh tế, chính trị và tư tưởng để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trong thời gian kế hoạch 5 nǎm, chúng ta chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải chú trọng lãnh đạo cán bộ và quần chúng học tập vǎn hoá, học tập kỹ thuật, phải nắm vững việc lãnh đạo và quản lý kỹ thuật; nhưng không phải vì thế mà coi nhẹ cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị, tư tưởng. Sau khi thực hiện xong công tư hợp doanh đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và cǎn bản hoàn thành hợp tác hoá bậc thấp đối với nông nghiệp và thủ công nghiệp, chúng ta phải phát triển và củng cố những thắng lợi đã giành được, nhất là còn phải tiếp tục lâu dài cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị và tư tưởng song song với việc phát triển vǎn hoá, khoa học và kỹ thuật để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội. Phải ra sức cải tạo tự nhiên, khắc phục các thiên tai, lợi dụng tốt các nguồn tài nguyên và các điều kiện tự nhiên thuận lợi để phục vụ đời sống; muốn thế, phải tiến quân từng bước vào khoa học, phải cải tạo thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ sử dụng máy móc, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân phát triển không ngừng trên những cơ sở vật chất và kỹ thuật ngày càng nâng cao. Cuộc đấu tranh đó tiến hành được tốt là nhờ có đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, nhờ dựa trên những cơ sở xã hội ngày càng vững chắc của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, phải nắm vững việc lãnh đạo chính trị làm gốc, ra sức phấn đấu cải tạo xã hội, cải tạo con người, phát huy tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng, làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, chống lại mọi biểu hiện của tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xóa bỏ mọi tàn tích của tư tưởng phong kiến và những tư tưởng sai lầm khác; phải đập tan mọi thế lực phản động chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại nhân dân; phải tǎng cường củng cố mối quan hệ nhất trí giữa nhân dân và Nhà nước, kết hợp chặt chẽ lực lượng của Nhà nước và của nhân dân, của kinh tế quốc doanh và của kinh tế tập thể để đẩy mạnh phát triển kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.

2. Song song phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện và ra sức phát triển công nghiệp nhẹ

Với yêu cầu chuyển trọng tâm của nhiệm vụ chính trị vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất mở đầu cho một thời kỳ phát triển mới có ý nghĩa quyết định của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Chuyển trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thì đương nhiên phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, làm cho công nghiệp giữ địa vị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Muốn thanh toán tình trạng lạc hậu trong các ngành sản xuất của ta, nâng cao đời sống của nhân dân thì chúng ta phải tiến lên xây dựng một cơ cấu công nghiệp hiện đại, phải phát triển điện lực, phát triển công nghiệp gang thép, công nghiệp chế tạo cơ khí làm tiền đề để đổi mới kỹ thuật, nâng cao nǎng suất lao động, thực hiện tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa. Đó là phương hướng phấn đấu để vừa đẩy mạnh phát triển công nghiệp vừa đẩy mạnh phát triển nông nghiệp; công nghiệp càng phát triển thì càng phát huy tác dụng lãnh đạo và giúp đỡ đối với nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.

Một vấn đề khác là chúng ta dựa vào đâu để tiến lên theo phương hướng ấy? Đứng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, chúng ta được sự giúp đỡ to lớn của nền công nghiệp tiên tiến của các nước anh em, đó là một thuận lợi cǎn bản. Bên cạnh sự giúp đỡ ấy, chỗ dựa chính của ta là lực lượng kinh tế trong nước mà hiện nay đại bộ phận là kinh tế nông nghiệp. Chúng ta phảiđi từ nông nghiệp mà tiến lên, phải lợi dụng tốt điều kiện khí hậu nhiệt đới, giải quyết vững chắc vấn đề lương thực là chủ yếu, đồng thời đẩy mạnh phát triển các ngành khác trong nông nghiệp, dựa vào cơ sở của nông nghiệp ngày càng phát triển mà thực hiện từng bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa một cách thuận lợi. Nông nghiệp là cơ sở của công nghiệp, có nhiệm vụ phải bảo đảm cung cấp lương thực và thực phẩm cho các thành phố và khu công nghiệp; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm; tǎng cường nguồn hàng nông sản xuất khẩu để đổi lấy thiết bị cho công nghiệp; bổ sung nhân lực cho sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ bản; nâng cao thu nhập, nâng cao sức mua bằng tiền của nông dân, mở rộng việc tiêu thụ hàng công nghiệp, kể cả các tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng ở nông thôn và góp phần tǎng tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chú trọng nắm vững việc lãnh đạo nông nghiệp thì nền nông nghiệp nước ta có đầy đủ khả nǎng để thực hiện các nhiệm vụ ấy. Cần phải hướng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, đồng thời phải hết sức động viên mọi nǎng lực tiềm tàng trong nông nghiệp để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp.


Каталог: coltech -> sites -> default -> files
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Cơ học kỹ thuật
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 1976-1980
files -> Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đảng Cộng sản Việt Nam
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 2020 Ngày 4/3/2011. Cập nhật lúc 16
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 2010 Ngày 12/7/2003. Cập nhật lúc 15
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Khoa học máy tính

tải về 393.56 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương