I- nhậN ĐỊnh tình hình miền bắC



tải về 393.56 Kb.
trang1/6
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích393.56 Kb.
#13234
  1   2   3   4   5   6
Nhiệm vụ và phương hướng của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965). Báo cáo bổ sung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày, ngày 7-9-1960

Ngày 6/2/2006. Cập nhật lúc 10h 17'

Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965). Báo cáo bổ sung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày, ngày 7-9-1960



Thưa các đồng chí thân mến,

Kế hoạch nǎm 1960 và kế hoạch 3 nǎm sắp kết thúc; bắt đầu từ nǎm 1961, chúng ta sẽ bước vào kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất.

Trong quá trình chuẩn bị Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận những nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 nǎm, và đã giao cho Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cùng với một số đồng chí phụ trách các ngành kinh tế và vǎn hoá xây dựng bản dự án số kiểm tra của kế hoạch 5 nǎm.

Vì việc nghiên cứu mới tiến hành một bước, còn phải tổ chức nghiên cứu ở các ngành, các cấp, bảo đảm chính xác hơn, cho nên Ban Chấp hành Trung ương chỉ trình ra Đại hội trong phần thứ IV của Báo cáo Chính trị, những nhiệm vụ cơ bản và những phương hướng chủ yếu của kế hoạch 5 nǎm. Những nhiệm vụ và phương hướng ấy được Đại hội thông qua sẽ là những cǎn cứ để Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo việc xây dựng dự án kế hoạch và quyết định bản kiến nghị về kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất.

Theo sự uỷ nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, tôi xin trình bày sau đây bản báo cáo bổ sung về "Nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965)". Nội dung bản báo cáo bổ sung này dựa theo kết quả thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương kết hợp với kết quả nghiên cứu dự án số kiểm tra, nhằm trình bày rõ thêm những nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 nǎm đã nêu lên trong bản Báo cáo Chính trị.

I- NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH MIỀN BẮC


SAU KHI HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH 3 NĂM

Từ khi hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và nhờ sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, nhân dân lao động miền Bắc nước ta đã vươn lên với một khí thế cách mạng mới, đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất và nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hiện đang hoàn thành kế hoạch 3 nǎm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hoá.

Những thắng lợi to lớn ấy của chủ nghĩa xã hội và hoà bình, là tiếp tục thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và của cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta. Điều đó nói lên một sự thật hùng hồn là: nhân dân một nước nhỏ yếu, kinh tế lạc hậu, có sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân thì có thể phát huy mọi nǎng lực tiềm tàng của mình, đánh thắng kẻ thù thực dân và phong kiến, giành độc lập và tự do thật sự, và sử dụng quyền làm chủ của mình để đẩy mạnh phát triển kinh tế và vǎn hoá theo con đường xã hội chủ nghĩa, đưa nước nhà nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu và nghèo đói, tiến lên xây dựng một nền kinh tế và vǎn hoá tiên tiến, đem lại hạnh phúc cho toàn dân. Điều đó nói lên tính hơn hẳn của chế độ dân chủ nhân dân và nǎng lực cách mạng dồi dào của nhân dân ta ở miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng nói lên sự phát triển tất yếu của cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào ta ở miền Nam, của cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong cả nước nhằm chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nắm vững những bài học kinh nghiệm trong hơn 30 nǎm vận động cách mạng và chấp hành đúng đắn đường lối cách mạng trong giai đoạn mới của Đảng ta, nhất định chúng ta sẽ giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa, không một sức phản động nào ngǎn cản nổi bước tiến của dân tộc ta.

Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc mới trải qua 6 nǎm, đó chỉ mới là một quãng ngắn trên con đường ngàn dặm đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta đã giành được những thắng lợi bước đầu, nhưng là những thắng lợi rất quan trọng.

1. Các ngành kinh tế và vǎn hoá đều bắt đầu phát triển với nhịp độ nhanh*

Đến cuối nǎm 1960, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp và công nghiệp tǎng gấp đôi so với nǎm 1955; riêng nông nghiệp tǎng 43,5%, công nghiệp và thủ công nghiệp tǎng 384,5%. Trong những nǎm đầu khôi phục kinh tế, giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp nǎm 1956 tǎng gần gấp đôi so với nǎm 1955; tính từ nǎm 1956 đến nǎm 1960, công nghiệp và thủ công nghiệp bình quân hàng nǎm tǎng 25,1%. Về nông nghiệp, từ nǎm 1955 đến nǎm 1959, giá trị sản lượng đều tǎng, riêng nǎm 1960 có thể sút thua nǎm 1959 nhưng vẫn trội hơn nǎm 1958. Lấy giá trị sản lượng nông nghiệp nǎm 1959 so với nǎm 1955 thì tǎng 52,4%, bình quân hàng nǎm tǎng 11,2%.

Nông nghiệp và công nghiệp cùng song song phát triển, nhờ công nghiệp tǎng nhanh hơn cho nên tỷ trọng giữa công nghiệp và nông nghiệp được điều chỉnh bước đầu tiến bộ hơn trước:


Công nghiệp và nông nghiệp...

1955

1957

1960

 

100

100

100

Trong đó:

 

 

 

Công nghiệp và thủ công nghiệp

16,9

31,4

40

Nông nghiệp ...............

83,1

68,6

60

Về nông nghiệp, nǎm 1960, vụ chiêm gặp nhiều khó khǎn về thời tiết, thu hoạch bị sút kém, kế hoạch cả nǎm vì thế sẽ không đạt. Để đánh giá đúng sự phát triển của nền nông nghiệp của ta, cần phải nhìn qua các nǎm. Nǎm 1955, toàn miền Bắc sản xuất 3.893.000 tấn lương thực, trong đó riêng thóc là 3.523.000 tấn; nǎm 1959 sản xuất 5.700.000 tấn lương thực, trong đó riêng thóc là 5.193.000 tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người đã tǎng từ 286,8kg lên 367,2kg, riêng về thóc từ 259,5kg tǎng lên 334kg. Nǎng suất thóc bình quân mỗi hécta cũng tǎng từ 16,2 tạ lên 22,84 tạ. Từ một nền sản xuất nông nghiệp vốn rất thấp kém, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, chỉ trong 5 nǎm sau khi lập lại hoà bình, miền Bắc nước ta đã tiến lên hàng đầu trong các nước Đông - Nam á về nǎng suất lương thực bình quân mỗi hécta và sản lượng lương thực tính theo đầu người,đó là một thắng lợi có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất lớn. Mặt khác, nền nông nghiệp của ta trước đây có tính chất độc canh, nay đã bắt đầu phát triển toàn diện hơn. Lương thực tǎng nhanh và vẫn giữ địa vị chủ yếu, nhưng cây công nghiệp, chǎn nuôi phát triển nhanh hơn, cho nên từ nǎm 1955 đến nǎm 1959, tỷ trọng của cây lương thực từ 54,5% xuống 52,5%, tỷ trọng của cây công nghiệp từ 1,7% tǎng lên 3,2%, tỷ trọng của chǎn nuôi từ 14,6% tǎng lên 19,4%.

Về công nghiệp, cuối nǎm 1960, chúng ta có 172 xí nghiệp do trung ương quản lý. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh nǎm 1960 có thể vượt kế hoạch 3,8% và tǎng hơn hai lần so với nǎm 1957. Công nghiệp quốc doanh địa phương bước đầu được phát triển, đã chiếm 19% trong giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh. Nǎng suất lao động trong các ngành công nghiệp quốc doanh nǎm 1959 tǎng 3,8 lần so với nǎm 1955 và tǎng hơn 60% so với nǎm 1957. Thủ công nghiệp được khuyến khích, nǎm 1960 tǎng gần hai lần so với nǎm 1955 và tǎng 34% so với nǎm 1957.

Các sản phẩm chủ yếu về công nghiệp và thủ công nghiệp tǎng khá nhanh. Trong 6 nǎm, điện tǎng 3,8 lần, than đá tǎng 2,8 lần, xi mǎng tǎng 3,5 lần, gỗ khai thác tǎng gấp đôi, phốt phát tǎng hơn 6 lần... công nghiệp cơ khí trước kia không có, nay đã có một số cơ sở đầu tiên, sản xuất được một số loại máy công cụ hạng nhỏ và hạng vừa, máy dập gạch ngói, máy xát gạo, tàu kéo, ca nô, toa xe hỏa, máy phát điện...; cung cấp cho nông nghiệp hàng vạn nông cụ cải tiến, một số máy bơm nước và máy móc nông nghiệp nhỏ và một số loại phụ tùng trước vẫn phải mua ở nước ngoài. Về gang thép, đi đôi với việc xây dựng nhà máy liên hợp Thái Nguyên, chúng ta đã xây dựng 6 lò cao cỡ nhỏ ở các địa phương, với dung tích tính chung là 56 mét khối, có thể sản xuất hàng nǎm khoảng một vạn tấn gang; đó là một bài học tốt về lãnh đạo quần chúng làm kỹ thuật, về lợi dụng tài nguyên, về tinh thần tích cực và sáng tạo của quần chúng trong lao động sản xuất. Về vật liệu xây dựng, chúng ta đã sản xuất được gạch chịu lửa và các loại bê tông đúc sẵn. Công nghiệp hoá học đã sản xuất được axít sunfuric, thuốc trừ sâu. Cũng trong sáu nǎm, vải tǎng hơn 8,5 lần, đường mật tǎng hơn 3 lần, muối tǎng gấp rưỡi, thuốc lá tǎng hơn gấp đôi, diêm tǎng 5,5 lần, giấy viết tǎng 4,5 lần. Chúng ta đã sản xuất được nhiều mặt hàng mới về vải, hàng dệt kim, đồ nhựa, đồ sắt tráng men, đồ dùng gia đình, vǎn phòng phẩm, sǎm lốp xe đạp, một số loại dược phẩm...

Nền kinh tế nước ta trong gần một thế kỷ đã bị thực dân Pháp kìm hãm trong tình trạng lạc hậu và phụ thuộc; về công nghiệp, chỉ có một số ít cơ sở khai thác nguyên liệu và chế biến thô sơ, thiết bị đã già cỗi. Hầu hết các cơ sở lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề; khi hoà bình lập lại, thực dân Pháp thoả hiệp với bọn Mỹ - Diệm lại tháo gỡ một phần máy móc quan trọng mang vào Nam. Tình hình nói trên đang được cải biến một cách rõ rệt; cơ cấu công nghiệp ở miền Bắc nước ta đang hình thành, các ngành cần thiết đã có một số cơ sở, cung cấp được một phần quan trọng về tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Trong việc thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, chúng ta mới đi một bước đầu tiên; chúng ta phải khắc phục nhiều khó khǎn nhưng có những thuận lợi cǎn bản: chúng ta được các nước anh em giúp đỡ về thiết bị và kỹ thuật; nguồn tài nguyên tự nhiên của ta tương đối dồi dào; cán bộ và công nhân của ta ham học và có thể tiến bộ nhanh. Phong trào thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong công nghiệp gần đây có những tiến bộ mới như ở công trường Cọc 6 Khu mỏ Hòn Gai, ở Nhà máy dệt Nam Định, ở Nhà máy cơ khí Hà Nội, trong các xưởng sửa chữa ôtô, ở Đoàn 8 thǎm dò địa chất... Chúng ta cần bồi dưỡng và phát huy những mầm phát triển ấy, mở rộng phong trào một cách đều đặn và liên tục.



Về giao thông, cuối nǎm 1959, chúng ta đã khôi phục, củng cố và làm mới 720 cây số đường sắt, 2.910 cây số đường bộ. Các Cảng Hải Phòng, Hòn Gai, Cửa Ông, Bến Thủy đều được nạo vét và mở rộng thêm. Khối lượng vận tải tính theo tấn cây số tǎng 3,5 lần so với nǎm 1955 và 1,5 lần so với nǎm 1957. Riêng vận tải đường sắt, trong ba nǎm qua tǎng hơn 2 lần, vận tải đường biển tǎng gần 2 lần, vận tải đường sông tǎng gần gấp đôi, vận tải đường ôtô tǎng 1,5 lần. Ngành giao thông tuy chưa phục vụ kịp yêu cầu của kinh tế và quốc phòng, nhưng đã có những cố gắng và tiến bộ. Phong trào thi đua giải phóng đôi vai ở một số công trường và một số địa phương, phấn đấu nâng cao nǎng lực trọng tải và bảo dưỡng xe cộ ở một số cơ sở gần đây đang phát triển, cần được hết sức khuyến khích, thúc đẩy.

Về vǎn hoá, chúng ta đã cǎn bản xoá nạn mù chữ ở miền xuôi cho những người lớn dưới 50 tuổi; hơn 10 triệu người đã biết đọc, biết viết. Phong trào bổ túc vǎn hóa đang được đẩy mạnh. Nǎm 1960, cứ 10 người có một người tham gia các lớp học ngoài giờ làm việc. Về giáo dục phổ thông, tổng số học sinh là 1.815.000 người, tǎng 1,5 lần so với nǎm 1955 và tǎng 80% so với nǎm 1957. Để mở rộng việc đào tạo cán bộ, chúng ta đã mở thêm một số trường chuyên nghiệp trung cấp và một số trường đại học và đưa ngày càng nhiều lưu học sinh, thực tập sinh đi học ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác. Nǎm 1960, ngoài 2.400 lưu học sinh, trong nước có 9 trường đại học với 11.070 sinh viên, tǎng hai lần so với nǎm 1957; và có 50 trường chuyên nghiệp trung cấp với 26.330 học sinh, tǎng 2,3 lần so với nǎm 1957. Trong phong trào xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa, việc giảng dạy và học tập đã có những tiến bộ. Khi hoà bình lập lại, chúng ta chỉ có khoảng 700 cán bộ chuyên môn có trình độ đại học; trong sáu nǎm, chúng ta đã đào tạo gần 2.500 cán bộ có trình độ đại học và trên một vạn cán bộ chuyên nghiệp trung cấp. Công tác khoa học và kỹ thuật bắt đầu có tổ chức và đi vào nền nếp. Nhờ sự giúp đỡ quý báu của Đoàn đại biểu Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, chúng ta đang xây dựng một kế hoạch dài hạn về công tác khoa học và kỹ thuật để phục vụ thiết thực yêu cầu phát triển kinh tế và vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.



Trên cơ sở phát triển sản xuất, đời sống vật chất của nhân dân được dần dần cải thiện rõ rệt. Nǎm 1959 so với nǎm 1957, thu nhập quốc dân tính theo đầu người tǎng 19,3%; thu nhập thực tế bình quân đầu người của nông dân tǎng 14,8%. Tiền lương thực tế của công nhân, viên chức từ nǎm 1955 đến nǎm 1959 tǎng 33%; tiền lương nǎm 1960 đã được tǎng 25% so với nǎm 1957. Chế độ tiền lương của công nhân, viên chức qua hai lần cải tiến nhằm thực hiện từng bước nguyên tắc phân phối theo lao động, đã được hợp lý hơn trước, dần dần có tác dụng tốt khuyến khích mọi người hǎng hái sản xuất và công tác. Để giải quyết một phần khó khǎn về nhà ở, trong sáu nǎm qua Nhà nước đã chi trên 145 triệu đồng, xây dựng khoảng 1 triệu rưởi mét vuông nhà kiên cố và nửa kiên cố. Công tác phòng bệnh và công tác điều trị được tǎng cường, đã góp phần quan trọng bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Nạn thất nghiệp ở các thành phố do chế độ cũ để lại về cǎn bản đã được giải quyết, trên 10 vạn người đã được sắp xếp công việc làm. Vật giá dần dần được ổn định; chỉ số vật giá bán lẻ nǎm 1959 bằng 89,2% so với nǎm 1957, trong khi đó sức mua của nhân dân tǎng 15,1%.

2. Trên miền Bắc nước ta, chủ nghĩa xã hội đang dần dần chiếm ưu thế

Đi đôi với những thành tích trên đây về phát triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cùng với việc mở mang xây dựng cơ bản đã thu được những thắng lợi rất to lớn. Những thắng lợi đó đã có ảnh hưởng quyết định thúc đẩy mọi mặt tiến bộ ở miền Bắc.

Phong trào hợp tác hoá nông nghiệpđã trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng, kết hợp chặt chẽ việc cải tạo quan hệ sản xuất với cải tạo tư tưởng, cải tiến công cụ và cải tiến kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất. Đến cuối nǎm 1960, dự tính có thể có từ 70 đến 75% số hộ nông dân lao động tham gia các hợp tác xã, trong đó phần lớn là hợp tác xã cấp thấp, các hợp tác xã cấp cao chiếm khoảng 7-8% số nông hộ. Mặc dù có những thiếu sót về chấp hành đường lối và những khó khǎn về quản lý, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đã phát triển một cách lành mạnh và cǎn bản là tốt; nhiều hợp tác xã đã đi đầu trong việc cải tiến kỹ thuật, làm thủy lợi, làm phân và bón phân..., tǎng thêm thu nhập, bước đầu phát huy tính hơn hẳn của hợp tác xã so với lối làm ǎn riêng lẻ.

Về thủ công nghiệp, gần đây phong trào hợp tác hoá phát triển khá đều và mạnh; đến tháng 6 nǎm 1960, đã có 67,8% số thợ thủ công chuyên nghiệp tham gia các tổ chức hợp tác, trong đó các hợp tác xã chiếm tỷ lệ 44,2%. Nhiều hợp tác xã đã phát huy tác dụng tốt, chǎm lo cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, dựa vào khả nǎng sẵn có để khắc phục khó khǎn về thiếu nguyên liệu, tạo thêm mặt hàng, hạ giá thành sản phẩm.

Trong những người buôn bán nhỏ, hơn một nửa đã tham gia các hình thức tổ chức hợp tác; và 5,5% đã chuyển sang sản xuất. Riêng ở các thành thị, hầu hết những người buôn bán nhỏ thuộc các ngành nghề chủ yếu đã được tổ chức lại. Nhờ được giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, những người buôn bán nhỏ hợp tác hoá nói chung đã có nhiều tiến bộ trong việc chấp hành các chính sách, giữ vững giá cả, phục vụ người tiêu thụ; nhiều người đã sử dụng thì giờ nhàn rỗi để tham gia sản xuất, tǎng thêm thu nhập.

Đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định. Đến cuối nǎm, tất cả các cơ sở thuộc các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, kinh doanh vǎn hoá và nghệ thuật sẽ được cải tạo thành xí nghiệp công tư hợp doanh hoặc xí nghiệp hợp tác, bao gồm khoảng 57 triệu tiền vốn đǎng ký. ở các xí nghiệp công tư hợp doanh đều đã có tổ chức công đoàn, những nơi có thanh niên đều có tổ chức thanh niên lao động; ở nhiều nơi, chúng ta đã phát triển được đảng viên mới trong công nhân, nhờ đó, việc lãnh đạo chính trị được củng cố, vai trò làm chủ của công nhân được đề cao. Về mặt kinh tế, các xí nghiệp công tư hợp doanh đều có nhiều tiến bộ trong việc sử dụng sức lao động, sử dụng máy móc, một số nơi có cải tiến và tǎng thêm thiết bị, cho nên nǎng suất và sản lượng được tǎng thêm rõ rệt.

Nhìn chung, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa đề ra trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 và 16 có thể được hoàn thành tốt. Trải qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tình hình chính trị, tư tưởng, kinh tế, vǎn hoá ở miền Bắc đã có những tiến bộ sâu sắc. Đến cuối nǎm 1960, có thể nói là công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định, tuy cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn còn phải tiếp tục. Sau cuộc cải cách ruộng đất, chế độ chiếm hữu phong kiến đã được xóa bỏ ở miền bắc; sau khi cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa hoàn thành, chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa và con đường phát triển tư bản chủ nghĩa cũng sẽ được xoá bỏ. Những chuyển biến cách mạng ấy có một ý nghĩa lịch sử vĩ đại, giải phóng xã hội miền Bắc thoát khỏi quan hệ người bóc lột người, mở đường cho chủ nghĩa xã hội giành thắng lợi hoàn toàn, thúc đẩy lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.

Đi đôi với việc đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành phần kinh tế hợp tác xã và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa Nhà nước, thành phần kinh tế quốc doanh ngày càng được mở rộng và tǎng cường, nắm vững vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cuộc vận động cải tiến quản lý xí nghiệp đã hoàn thành, cǎn bản thực hiện được các yêu cầu đã đề ra về việc bước đầu xây dựng chế độ quản lý xã hội chủ nghĩa trong các xí nghiệp quốc doanh. Nhờ mở mang thêm nhiều công trường, xí nghiệp, lực lượng công nhân, viên chức thuộc biên chế khu vực sản xuất của Nhà nước nǎm 1960 có khoảng 255.000 người, tǎng thêm hơn hai lần so với nǎm 1955. Trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp nǎm 1960, công nghiệp quốc doanh chiếm 49,5%; tỷ trọng của mậu dịch quốc doanh nǎm 1960 trong tổng mức bán lẻ của thương nghiệp thuần tuý lên tới 47,8%; vận tải quốc doanh bảo đảm 75,6% khối lượng hàng hoá vận chuyển. Tính chung các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và các hợp tác xã thủ công nghiệp nǎm 1960 chiếm 73,1% giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp; mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán và thương nghiệp tư bản chủ nghĩa Nhà nước chiếm 91,5% trong tổng mức bán lẻ của thương nghiệp thuần túy.

Để mở mang xây dựng cơ bản về kinh tế và vǎn hoá, trong 6 nǎm, từ 1955 đến 1960, Nhà nước đã đầu tư 2.155,2 triệu đồng. Trong kế hoạch 3 nǎm 1958-1960, tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản tǎng 130,7% so với 3 nǎm khôi phục kinh tế; lấy nǎm 1960 so với nǎm 1955 thì vốn đầu tư tǎng hơn 5 lần.

Trong tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước từ nǎm 1958 đến nǎm 1960, khoản dành cho nông nghiệp chiếm 12,6%, công nghiệp 41,1%, giao thông và bưu điện 20,6%, thương nghiệp 7,6%; các ngành vǎn hoá, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học chiếm 8,6%, xây dựng nhà ở, các sự nghiệp công cộng thành phố và cơ quan hành chính chiếm 9,5%.

Về nông nghiệp, trong ba nǎm qua, Nhà nước đã xây dựng 19 công trình thủy lợi hạng lớn, bảo đảm tưới nước cho 153 vạn hécta ruộng đất. Kết hợp với lực lượng của Nhà nước, nhân dân ta đã góp hàng chục triệu ngày công để củng cố và tǎng cường các đê sông, đê biển và phát triển nhiều công trình thủy lợi hạng nhỏ. Tính chung, các công trình thuỷ lợi hạng lớn và hạng vừa được khôi phục, mở rộng và mới xây dựng đã bảo đảm tưới nước cho 55% diện tích gieo cấy; kể cả các công trình thủy lợi hạng nhỏ do nhân dân làm thì có trên 70% diện tích gieo cấy được tưới nước.

Về công nghiệp, đến cuối nǎm 1960, trong 172 xí nghiệp do trung ương quản lý, chúng ta đã mở rộng và xây dựng mới 170 xí nghiệp; ngoài ra, có 24 xí nghiệp đang xây dựng, sẽ chuyển sang kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất. Việc xây dựng công nghiệp địa phương bắt đầu từ nǎm 1959 đã có trên 500 cơ sở. Do việc mở mang xây dựng công nghiệp, một số khu công nghiệp mới như Thái Nguyên, Việt Trì, Thanh Hoá, Vinh... đang mọc lên; thủ đô Hà Nội có thêm nhiều xí nghiệp mới, đang trở thành một thành phố công nghiệp.

Để phục vụ việc mở mang xây dựng cơ bản, nhất là về công nghiệp, công tác điều tra thǎm dò địa chất đã có những tiến bộ đáng kể.

Về mặt thi công và quản lý công tác xây dựng, chúng ta đã trưởng thành một bước. Việc khai thác và vận chuyển vật liệu có nhiều khó khǎn nhưng nói chung các ngành, các địa phương đều cố gắng bảo đảm yêu cầu. Việc quản lý sử dụng vật liệu, quản lý kỹ thuật dần dần đi vào nền nếp, tình trạng lãng phí có giảm bớt, chất lượng công trình được nâng cao. Đi đôi với việc cải tiến dụng cụ, cải tiến kỹ thuật xây lắp, chúng ta đã bắt đầu mở rộng việc thi công cơ giới hoá, tập trung lực lượng về người, về phương tiện, về vật liệu cho các công trình chủ chốt. Lối xây dựng bằng cách lắp các bộ phận đúc sẵn cũng được bắt đầu áp dụng.

3. Những thắng lợi đã giành được là thắng lợi chung của Đảng ta, nhân dân ta và của sự hợp tác quốc tế.

Những tiến bộ trên đây cho thấy: từ khi hoà bình lập lại đến nay, nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc đã được khôi phục và phát triển một cách lành mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa. Dưới ảnh hưởng của tư tưởng xã hội chủ nghĩa và dựa trên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa đang dần dần chiếm ưu thế, phong trào quần chúng phát triển liên tục và ngày càng sâu rộng; các ngành hoạt động đều phát triển với nhịp độ nhanh; cơ cấu của nền kinh tế quốc dân cũng được điều chỉnh ngày càng cân đối hơn. Đó là kết quả bước đầu của những chuyển biến cách mạng sâu sắc, những chuyển biến cách mạng ấy sẽ phát triển không ngừng, bảo đảm đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tiếp tục tiến lên với nhịp độ nhanh.

Những thành tựu ấy chỉ rõ những chủ trương của Đảng ta về khôi phục kinh tế, phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển vǎn hoá là đúng đắn. Sau khi hoà bình lập lại, chúng ta đã kết hợp đẩy mạnh cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế, chú trọng nắm vững lãnh đạo nông nghiệp và thương nghiệp, phấn đấu ổn định tình hình kinh tế và chính trị ở nông thôn và thành thị. Trong kế hoạch 3 nǎm, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa làm trọng tâm, tích cực vận động quần chúng đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá lâu ngày, chúng ta đã nắm vững khâu chính của nhiệm vụ kinh tế là ra sức khôi phục và phát triển nông nghiệp, đồng thời đẩy mạnh khôi phục và phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp, chú trọng sản xuất hàng tiêu dùng và đã tiến lên đẩy mạnh sản xuất các tư liệu sản xuất. Chủ trương của Đảng ta về khôi phục và phát triển nông nghiệp, công nghiệp trong mấy nǎm qua là hoàn toàn thích hợp với hoàn cảnh miền Bắc nước ta, một mặt đã giải quyết đúng những yêu cầu trước mắt của nền kinh tế quốc dân; mặt khác đã chuẩn bị điều kiện cho việc thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời gian sắp đến. Chúng ta đã chú trọng song song phát triển kinh tế và vǎn hoá, làm cho kinh tế và vǎn hoá cùng thúc đẩy nhau phát triển. Chúng ta đã chú trọng giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho đảng viên và quần chúng và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng và nǎng lực lao động của quần chúng, thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật nâng cao nǎng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, tǎng gia sản xuất và tiết kiệm. Nhờ củng cố không ngừng vai trò lãnh đạo của mình và sử dụng nền chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành được những thắng lợi to lớn, làm cho chủ nghĩa xã hội ngày càng chiếm ưu thế. Đảng ta cũng đã nắm được quy luật phát triển nhanh của chủ nghĩa xã hội, đề ra khẩu hiệu "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc", chú trọng vừa đẩy mạnh, vừa củng cố các phong trào quần chúng, động viên cán bộ và quần chúng hǎng hái tiến lên trong mọi ngành, mọi mặt hoạt động.


Каталог: coltech -> sites -> default -> files
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Cơ học kỹ thuật
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam trưỜng đẠi học công nghệ Độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 1976-1980
files -> Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đảng Cộng sản Việt Nam
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 2020 Ngày 4/3/2011. Cập nhật lúc 16
files -> Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 2010 Ngày 12/7/2003. Cập nhật lúc 15
files -> Biểu mẫu 2 Đhqghn trưỜng đẠi học công nghệ thông báo công khai thông tin về nội dung và chuẩn chất lượng nghề nghiệp chương trình đào tạo chuẩn ngành Khoa học máy tính

tải về 393.56 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương