HOÀng anh một số VẤN ĐỀ VỀ SỬ DỤng ngôn từ trên báo chí HÀ NỘI – 2003 MỤc lụC


CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ



trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu23.07.2016
Kích1 Mb.
#2149
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Hiện nay, ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách chức năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng " phong cách là những khuôn mẫu trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu " 1, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuyết phục khác nhau, để khẳng định là ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như phong cách khoa học, phong cách hành chính - công vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách chính luận.

Vậy đâu là các nét đặc thù của phong cách báo chí? Các nhà nghiên cứu đã có ý kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.

Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo chí ( như tính chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn ), đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí thuộc các phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu2. Theo chúng tôi, đây phần lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí cụ thể, vì thế chúng chưa đủ tầm khái quát để có thể khắc hoạ diện mạo của cả một phong cách ngôn ngữ trong sự đối sánh với các phong cách ngôn ngữ khác.

Còn tác giả Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách báo chí bao gồm: 1. Chức năng thông báo, 2. Chức năng hướng dẫn dư luận, 3.Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng, 4. Tính chiến đấu mạnh mẽ, 5. Tính thẩm mỹ và giáo dục, 6. Tính hấp dẫn và thuyết phục, 7. Tính ngắn gọn và biểu cảm, 8. đặc điểm về cách dùng từ ngữ ( gồm cách dùng từ ngữ và cách dùng các khuôn biểu cảm )3. Dễ dàng nhận thấy là Hữu đạt không có sự phân định rõ ràng giữa các đặc điểm về chức năng của thông tin báo chí và các đặc điểm về ngôn ngữ như là phương tiện chuyển tải thông tin ấy. Chính vì thế, 8 đặc điểm mà ông đưa ra không đồng loại, chỉ có các đặc điểm thứ sáu và thứ bảy là có vẻ xác đáng hơn cả.

Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu Đạt4 cho thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ đều xuất phát từ góc độ chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính chức năng chứ không phải bất cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu đạt có tính đặc thù của từng loại hình sáng tạo.

Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đầu của báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập các sự kiện. Không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, theo chúng tôi, nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện.

Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí một loạt các tính chất cụ thể như:


  1. Tính chính xác

Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm tính chính xác. Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra những gây hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được. Chẳng hạn, sau chuyến tháp tùng một quan chức cao cấp sang thăm trung quốc, một nhà báo đã viết một bài phóng sự, trong đó có câu: " Chúng tôi đã chia tay với tình hữu nghị dạt dào của hai nước Việt - Trung ". Rõ ràng, từ " với " ở đây là không thể chấp nhận được (vì cụm từ " chia tay với..." biểu đạt ý nghĩa " từ bỏ, từ giã "), cần phải thay nó bằng từ "trong" .

Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít nhất 2 yêu cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ pháp; có vốn từ vựng rộng, chắc, và không ngừng được trau dồi; thành thạo về ngữ âm; hiểu biết về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện có thực và nguyên dạng để phản ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu cầu này có quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện thực thì ngôn ngữ có thể " kêu " những rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ đối với độc giả. Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngôn từ thì cũng không thể chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đôi khi còn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.

Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo chi đông tới mức không xác định được và họ ( nhất là trẻ em ) lại luôn xem các cơ quan báo chí là " ngọn đèn chỉ dẫn " trong việc dùng ngôn từ, cho nên ngôn ngữ báo chí càng hoàn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.


  1. Tính cụ thể

Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm của mình. Đoạn trích sau đây trong phóng sự " Hai giờ dưới lòng đất " của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân là một minh chứng:

"...Tôi cố nén sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lò thế này mà ngán gì. Đi như hầm địa đạo Củ Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến mất. Tôi lọ mọ đi. Hai tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tôi mà cũng còn va đàu vào đá. Tôi nghĩ bụng và bắt đầu đi lom khom. Mẹ ơi, chỉ còn mình tôi thôi sao? Tống, Lực đâu rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm xuống, bò. Có tiếng nước róc rách. Đường lò ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi dây cáp ở đầu một cái dốc. " Bám vào - ngửa người ra, tụt xuống! ". Một mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra hai anh vẫn đi sát tôi, như có vẻ cố tình thử thách nhau một tý " cho nhà báo có thêm thực tế ". Thấy tôi thở phì phò, thợ lò bảo: " Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất mỏ Mông Dương đấy! Dễ nhất! Tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng hồ mới lấy được vài xe goòng than đá. Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang".

Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo dựng nhờ sự miêu tả một loạt các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc đoạn văn trên, độc giả thấy mình như cũng đang trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả dưới lòng đất. Và đây chính là khởi nguồn của niềm cảm thông sâu sắc với nỗi cực nhọc trong côngviệc của những người thợ lò.

Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở việc tạo ra sự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định; với những con người cũng xác định ( có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ thể ). Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như " một người nào đó ", " ở một nơi nào đó ", " vào khoảng ", " hình như ", v. v...


  1. Tính đại chúng

Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội, không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp nhận thông tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi, thấp kém. Vì, nói như nhà nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V. G. Kostomarov: " Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt cũng không thấy khó hiểu "5.

Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối tượng hạn hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào mọi tầng lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do khiến cho trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên ngành hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài.



  1. Tính ngắn gọn

Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nó còn làm tốn thời gian vô ích cho cả hai bên: cho người viết, vì anh ta sẽ không đáp ứng được yêu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời; cho người đọc ( người nghe ), vì trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta luôn cố gắng thu được càng nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian càng tốt. Đấy là còn chưa kể đến việc viết dài dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về sử dụng ngôn từ ( thực tế khảo sát của chúng tôi cho thấy một tỉ lệ khá lớn các câu sai về ngữ pháp trong các tác phẩm báo chí có liên quan tới việc nhà báo quá ham mở rộng các thành phần phụ mà quên mất các thành phần chính của câu ).

Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A. P. Chekhov có lẽ chính xác hơn cả với phong cách ngôn ngữ báo chí: " Ngắn gọn là chị của thành công "6.



  1. Tính định lượng

Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng thường bị giới hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh được đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt quá khung cho phép vè không gian và thời gian.

Hiện tại, không ít báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên khi viết bài không được phép vượt quá một lượng chữ nhất định. Đối với những bài " không đặt trước " biên tập viên buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng với việc công bố. Rồi ngay trong số các cơ sở đào tạo nhà báo cũng có không ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối tượng dự thi phải thử nghiệm khả năng định lượng của mình thông qua việc viết một hay một số văn bản với độ dài cho sẵn.

Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện được thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhờ đó, họ có thể dễ dàng thích nghi với mọi điều kiện thời gian cũng như không gian được dành cho việc công bố chúng.


  1. Tính bình giá

Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà còn phải thể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá ( có lẽ trong các thể loại báo chí chỉ có tin vắn, tin ngắn là không có tính bình giá, tức là tác giả thể hiên sắc thái biểu cảm trung tính ). Sự bình giá này có thể là tích cực mà cũng có thể là tiêu cực, song trong bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp qua ngôn từ.

Chẳng hạn, có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ tiêu đề như: " Góc tối ở thành phố cảng ", " Bông hoa Thủ đô giữa núi rừng Tây Bắc ", " Lặng lẽ quá ... liên hoan phim ", " Giai điệu buồn của một đêm nhạc trẻ ", " Đó cũng là một cách sống đẹp "...Còn trong các phần khác ( cả mở đầu, triển khai lẫn kết thúc ) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết còn gặp thường xuyên hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận, phóng sự, ghi chép, ký...



  1. Tính biểu cảm

Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh động hấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Ví dụ:

" Ở những " cua " cấp tốc, chuyện thầy viết lia lịa lời giải ở trên, trò cắm cổ chép như chép chính tả ở dưới vì không có thời gian giảng là " chuyện thường ngày ở huyện ". ( Hà Nội mới cuối tuần, 18 / 4 / 1998 );



" Sông Tô mà không lịch ". ( Văn hoá, 17 / 5 /1999 ).

Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí là vô cùng phong phú và đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là sự vay mượn các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật, là lối chơi chữ, nói lái, dùng ẩn dụ, v. v...hay chỉ đơn giản là việc thể hiện sự bình giá có tính chất cá nhân7.

Nếu ngôn ngữ báo chí không có tính biểu cảm, những thông tin khô khan mà nó chuyển tải khó có thể được công chúng tiếp nhận như mong muốn, vì chúng mới chỉ tác động vào lý trí của họ. Chính tính biểu cảm vốn là hiện thân của cái hay, cái hấp dẫn mới là nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe, người đọc, làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để rồi từ đó thực hiện những hành động mà người viết vẫn chờ đợi.


  1. Tính khuôn mẫu

Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm " khuôn mẫu ". Đó là những công thức ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin, làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm nhiều loại và có mặt trong nhiều phong cách chức năng của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong văn phong báo chí, khi viết các mẩu tin, người ta thường dùng các khuôn mẫu như:

- Theo AFP, ngày...tại...trong cuộc gặp gỡ...Tổng Bí thư...đã kêu gọi...



- TTXVN, ngày...người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết...

Giao tiếp báo chí không thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và công sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời.

Song, khác với khuôn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa học, khuôn mẫu báo chí không cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt, uyển chuyển. Chẳng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải thoả mãn 6 câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? nhưng thứ tự trả lời cho các câu hỏi đó có thể được sắp xếp khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

Bên cạnh đó, các thành tố khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo chí lại luôn kết hợp hài hoà với các thành tố biểu cảm cho nên ngôn ngữ báo chí thường rất mềm mại, hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản khoa học và văn bản hành chính, là nơi người ta chỉ sử dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.


Trên đây là một số tính chất cơ bản của ngôn ngữ báo chí. Với những tính chất đặc thù như vậy, ngôn ngữ báo chí hoàn toàn có đủ tư cách để được xem là một phong cách chức năng trong ngôn ngữ.

Chú thích


  1. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục, H., 1997, tr.19.

  2. Đinh Trọng Lạc, Sđd., tr. 98 - 111.

  3. Hữu Đạt, Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt, NXB. Văn hoá - Thông tin, H., 2000, tr. 224 - 248.

4. Khi bài viết này được công bố, cuốn " Ngôn ngữ báo chí " của nhà nghiên cứu Vũ Quang Hào còn chưa được xuất bản. Tác giả cuốn sách đó cho rằng đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ báo chí có khả năng chế định phong cách của nhà báo là sự " chệch chuẩn ". Không xem ngôn ngữ báo chí là một phong cách chức năng riêng, ông đi sâu vào khảo sát 3 phong cách chức năng, mà theo ông, báo chí thường sử dụng là: phong cách chính luận, phong cách khoa học và phong cách hành chính.

Xem: Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB. Đại học quốc gia, H., 2001.



  1. Kostomarov V. G., Tiếng Nga trên trang báo, M., 1978, tr. 62 ( bằng tiếng Nga ).

  2. Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, M., 1984, tr. 287 ( bằng tiếng Nga).

7. Vấn đề này chúng tôi trình bày khá cụ thể trong bài " Những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí ".
( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3 / 2001 )

SỰ ĐAN XEN KHUÔN MẪU VÀ BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Việc trình bày hay lập mã thông tin được thực hiện khác nhau trong các lĩnh vực giao tiếp khác nhau. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sản xuất - công nghệ người ta thường dùng lối miêu tả kê khai: Tên gọi ... Đặc điểm... Trọng lượng .... Chức năng ... Người sản xuất...
Dưới đây là những dòng chữ được ghi trong một giấy chứng nhận sáng chế:
" Chiếc đèn nháy điện tử có tên gọi là " Electron " do nhà máy điện quang Washington sản xuất là một dụng cụ có trọng lượng 250 g, có khả năng phát sáng với công suất 20 j và làm việc nhờ hệ thống ắc qui ".

Song, vẫn thông tin nói trên, khi được đưa trên một tờ báo, lại có dạng thức như sau:

" Một trong những nhà máy điện quang của Washington đã tạo nên một sự bất ngờ thú vị cho những người yêu thích chụp ảnh. Ngọn đèn nháy điện tử " Electron " nặng chỉ vẻn vẹn có 250 g. Tia chớp xinh xắn này làm việc nhờ hệ thống ắc qui có thể nạp được điện từ những ổ cắm thông thường ".

Dễ dàng nhận thấy là thông tin trên báo sinh động và hấp dẫn hơn nhiều so với những gì được ghi trên giấy chứng nhận sáng chế.

Nguyên nhân thật đơn giản: Trong ngôn ngữ báo chí, người ta đã đan xen một cách hài hoà các thành tố khuôn mẫu với các thành tố biểu cảm; còn trong ngôn ngữ có tính chất kê khai của một giấy chứng nhận sáng chế, người ta chỉ dùng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.

Nếu so sánh các phong cách chức năng trong ngôn ngữ về phương diện quan hệ giữa khuôn mẫu và biểu cảm, chúng ta nhận thấy: Trong phong cách hành chính - công vụ và phong cách khoa học, tính khuôn mẫu của cách thức diễn đạt đạt tới mức tối đa, nghĩa là không còn chỗ cho các thành tố biểu cảm. Trong phong cách văn học nghệ thuật, tính biểu cảm chiếm ưu thế so với tính khuôn mẫu; đặc biệt, trong một số tác phẩm thơ, tính biểu cảm có thể đạt tới mức tối đa. Riêng trong phong cách báo chí - chính luận, tính khuôn mẫu và tính biểu cảm của ngôn từ nằm trong quan hệ tương đối hài hoà, cân bằng.

Các trường hợp đan xen khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí, nhìn chung, có thể chia thành 3 kiểu chính như sau:



  1. Đan xen trong phạm vi câu

Đây là sự đan xen ( chủ yếu là giữa các từ ) trong nội tại câu. Ví dụ:

"Không giống như nhiều tập đoàn khác bỏ hàng núi tiền để giành một suất quảng cáo trên truyền hình hay các phương tiện thông tin đại chúng, Piaggio chơi kiểu khác " độc " hơn và " cao tay " hơn: Đổ tiền vào sản xuất các bộ phim hay và khéo léo lồng thương hiẹu của mình vào. Sau khi bộ phim " Kỳ nghỉ thành Rôma " được trình chiếu ( 1954 ) với hai ngôi sao Gregorg và Herburrn luồn lách ngang dọc trên các đường phố Rôma cùng con ong xinh xắn ( Vespa - tiếng ý có nghĩa là con ong ), thì Vespa trở thành biểu tượng của nước ý ". ( Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 10 / 7 /2001 );

" Nhưng “chảo dầu sôi " trên sân Vinh với gần 3 vạn khán giả cuối cùng cũng "nấu chín " đội Công an Hà Nội ". ( Lao động, 31 / 3 /2000 );

" Công - coóc từ trước đến nay vẫn được coi là phi cơ quý tộc vì những tiện nghi và các ưu thế kỹ thuật " độc nhất vô nhị " của nó. ( Quân đội nhân dân, 3 / 9 / 2000 );

" Faustino asprila, " mũi tên đen " hay gây tranh cãi của Clombia mới đây thổ lộ rằng... anh sẵn sàng từ chối một bản hợp đồng hàng triệu đô la tại một vương quốc dầu lửa và muốn kết thúc sự nghiệp của mình tại đội " thường thường bậc trung " Tutu của thành phố quê hương ". ( Thể thao và Văn hoá, 12 / 9 / 2000 );

" Lành mạnh " nhất trong các chiêu lôi kéo khách của những quán cà phê kiểu " tục " là cho tiếp viên ... khoe " của ". ( Người lao động, 16 / 8 /2000 ).


  1. Đan xen trong phạm vi đoạn văn

Đay là sự đan xen giữa các câu với nhau. Ví dụ:

" Trước hết, nợ của Chính phủ Nhật Bản rất cao, khoảng 9,3 % GDP hàng năm. Đây là một quả bom nổ chậm đang ẩn trong nền kinh tế Nhật ". ( Hà Nội mới cuối tuần, 21 / 12 / 1998 );

" Đảo đèn Long Châu đã dược phong danh hiệu anh hùng năm 1972. Người ta gọi nó là " con mắt ngọc " của biển Đông ". ( Lao động, 11 / 4 /1998 );

" Hầu hết các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng và các Phó Giám đốc, Trưởng và các Phó ban đều làm việc chính tại Hà Nội. Đầu tuần, tất cả đều xuống Quảng Ninh họp giao ban với một xe tuyến và gần hai chục xe con dành riêng cho các " sếp ". ( Văn nghệ trẻ, 20 / 8 /2000 );

" Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, mọi sự nói vậy mà không hẳn đã là vậy. Trong chương trình làm việc mới được đưa ra kèm theo khoản viện trợ cả gói cho kế hoạch " Cô - lum - bi - a ", Oa - sinh -tơn thực chất đã thay đổi một cách căn bản nguyên tắc phối thuộc cùng Bô - gô - ta trong cuộc đấu tranh chống lại nạn buôn bán ma tuý. Từ nay trở đi, người Mỹ không chỉ đứng đằng sau quân đội Cô - lum - bi -a, mà với vai trò cố vấn huấn luyện, sẽ thực sự và trực tiếp nhúng tay vào công việc nội bộ của Cô - lum - bi -a ". ( Quân đội nhân dân , 10 / 9 /2000 )...


  1. Đan xen trong phạm vi kết cấu toàn văn bản

Ở đây, các thành tố biểu cảm được sử dụng để xây dựng những mảng màu đối lập ở bậc kiến trúc của toàn bài. Đó có thể là:

a, Đối lập giữa tiêu đề với nội dung, ví dụ:

Nắm người có tóc

Trong vòng vài ngày qua, Đà Nẵng gần như chấm dứt hẳn nạn ùn tắc giao thông vào các giờ tan học, tan tầm. Hiệu lực chỉ thị nghiêm cấm học sinh không được đi học bằng xe gắn máy, mô tô của chính quyền, nhằm vãn hồi trật tự giao thông trên đường phố có tác dụng thấy rõ. Gần chục ngàn học sinh của 7 trường phổ thông trung học đã tự giác đến trường bằng xe đạp thay vì xe máy như trước đây. Có thể nói đây là hiện tượng tích cực mà mà Đà Nẵng là một trong số rất ít đô thị trong cả nước hiện nay làm được nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông đang có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ trên khắp các địa phương trong cả nước... ( Lao động, 13 / 1 / 2003 ).
Khôn ngoan chẳng lọ thật thà

Hai vợ chồng giàu có vào bậc nhất phố tôi, dạo này buồn rười rượi, rất năng đi chùa lễ Phật. Hàng xóm thạo tin kháo nhau: Nhà ấy phất nhờ đánh hàng lậu biên giới, vừa bại quả lớn, may mà không phải vào tù. Trời có mắt cả, được cái này mất cái kia, lắm tiền " đen ' nên thằng con đầu đi xe máy ngã, cưa mất một chân, thằng thứ hai, nghiện hút đang đi cai... ( Hà Nội ngày nay, số 8 / 1999 ).

b, Đối lập giữa phần mở đầu và phần triển khai, ví dụ:

" Lại nói Tôn Sách là con Tôn Kiên muốn nối chí cha xưng hùng xưng bá ở Giang Đông, nhưng hiềm một nỗi là không có binh mã. Thủ hạ của Sách hiến kế rằng: " Tướng quan nên đem ngọc tỷ của Tôn Phụ để lại, thế chấp cho Viên Thuật, lấy quân mà thu phục Giang Đông ". Sách nghe theo. Viên Thuật giao cho Sách 3000 quân và 500 ngựa chiến để đổi lấy ngọc tỷ truyền quốc. Có quân mã trong tay, lại được Chu Du giúp mẹo mực, chẳng bao lâu Tôn Sách đã làm chủ cả một vùng Giang Đông rộng lớn ".

Nay trở lại quy chế lên bán chuyên nghiệp do LĐBĐVN đề ra cho các đội bóng muốn tham dự.." ( Lao động, 21 / 7 /2000 ).

c, Đối lập giữa phần triển khai và phần kết thúc, ví dụ:

" Thiết nghĩ, Kodak là một công ty lớn, việc kinh doanh đã có uy tín, thương hiệu sản phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng qua kiểu làm ăn " đánh trống rồi... cất luôn dùi với VAFACO như vừa nêu gây thiệt hại cho đối tác hàng chục tỷ đồng, đã tự hạ uy tín của mình và chứng tỏ " ông chủ lớn " đôi khi chỉ vì muốn thu lợi cho nhiều mà tính toán rất " nhỏ "...

Rõ là:

" kinh doanh có ba, bảy đường

Anh chơi kiểu ấy khó lường về sau

Nên lấy chữ tín làm đầu

Giữa đường phản phé thì mau... sụp hầm ". ( Công an Thành phố Hồ Chí Minh, 26 / 8 / 2000 ).

Thực tế khảo sát cho thấy, hầu hết các tác phẩm báo chí ( cho dù chúng có thuộc về bất cứ thể loại nào ) đều sử dụng sự đan xen khuôn mẫu và biểu cảm như là nguyên tắc cấu tạo về ngôn ngữ, song, tất nhiên là với mức độ và cách thức không giống nhau. Chỉ trong một số dạng tin thời sự phản ánh các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng ( hoạt động của các nhà lãnh đạo, các cơ quan quyền lực cao cấp của đất nước ) là có vẻ thiếu vắng các thành tố biểu cảm. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì ở ngay các tin kiểu này cũng không nên phủ nhận hoàn toàn vai trò của việc đan xen khuôn mẫu và biểu cảm, mà ngược lại, phải biết hướng tới nó, biết vận dụng nó một cách mềm mại, sao cho vừa không làm phương hại đến tính khách quan của thông tin, vừa giúp cho độc giả phần nào bớt được cảm giác là mình đang phải đọc một thông báo khô khan. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi đọc các tờ báo lớn, thu hút được một lượng độc giả đông đảo, của nước ngoài.

Vậy phải làm thế nào để cho ngôn ngữ báo chí có tính biểu cảm? Hay nói cụ thể hơn, là làm thế nào để tăng cường giá trị biểu cảm cho các thành tố ngôn ngữ được dùng trong tác phẩm của anh? Bài viết tiếp sau của chúng tôi sẽ phần nào giải đáp cho câu hỏi không dễ dàng này.
( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 6 / 2000 )


MỘT SỐ THỦ PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÍNH BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Như chúng ta đều biết, chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí là thông tin. Nhưng nếu trong ngôn ngữ báo chí người viết chỉ dùng các từ ngữ, cách diễn đạt có tính chất khuôn mẫu để phản ánh các sự việc, hiện tượng, vấn đề,... thì thông tin khó tránh khỏi khô cứng, đơn điệu, thậm chí tẻ nhạt. Để khắc phục các nhược điểm này, các tác giả đã sử dụng khá nhiều những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm khác nhau; và nhờ đó, thông tin của họ trở nên sinh động, hấp dẫn, dễ đọc và dễ tiếp thu hơn đối với độc giả. Qua khảo sát sơ bộ, các thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí có thể chia thành một số loại chính như sau:


  1. Dùng từ ngữ hội thoại

Từ " hội thoại " ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó không chỉ bao hàm các từ thuộc vốn từ vựng của ngôn ngữ văn hoá được dùng đặc biệt trong lời nói miệng, trong sinh hoạt hàng ngày, mà còn gồm cả một số từ thông tục và từ lóng, vì những từ thuộc hai loại sau này cũng chỉ được chuyên dùng trong khẩu ngữ. Ví dụ:

" Bằng cấp đầy người, anh vẫn chỉ là một nhân viên quèn ". ( Hà Nội mới chủ nhật, 22 / 11 /1998 );

" Đã qua ngày rằm mà nhiều công sở vẫn còn vắng hoe. Điện thoại réo mệt nghỉ vẫn không có ai trả lời ". ( Nhà báo và Công luận, số 10 / 1998 );

" Vòng đấu thứ 17 là vòng đấu " bốc mùi " nhất kể từ đầu giải. Những quan sát viên khẳng định rằng cách mà Thừa Thiên - Huế " chết " trên sân Hà Nội còn " thô " hơn so với cách mà Công an Hà Nội đã " nằm " trên sân Tự Do - trận đấu mà BTC giải đã lôi hai đội ra " chém ", và bị dư luận phản ứng về cách " chém " nửa vời ". ( Lao động, 25 / 5 /2001 );

" Thực tế thì Tú chẳng có xu gỉ nào để góp vốn ". ( An ninh thế giới, 6 / 3 / 1998 );

" Tôi... vội nháy anh bạn đồng nghiệp uống một hơi hết cốc cà phê đen, hấp tấp nổ xe máy, dông thẳng ". ( lao động, 4 / 3 /1998 )...

Hiện nay, xu hướng chung trên thế giới là hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí để nó đơn giản hơn, gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, từ ngữ ( và thậm chí cả cú pháp ) của ngôn ngữ hội thoại được dùng để tăng cường tính biểu cảm trong các bài viết ngày càng phong phú và đa dạng.

Tuy nhiên, hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí không có nghĩa là chúng ta được phép bê nguyên xi ngôn ngữ đời thường với tất cả cái dáng vẻ thô ráp, xù xì, gai góc của nó vào trong tác phẩm báo chí. Vì dù thế nào đi chăng nữa, ngôn ngữ trên trang báo phải là một thứ ngôn ngữ đã được gọt giũa, được trải qua sự nhào nặn của tác giả và phải đạt tới một sự chuẩn mực nhất định về văn hoá. Vì thế, tình trạng lạm dụng quá mức các từ ngữ thuộc tiếng lóng hay các từ ngữ thô tục đang diễn ra ở một số nhà báo và ở một số tờ báo ( nhất là các tờ báo dành cho thiếu niên nhi đồng ) là rất đáng lo ngại, cần được quan tâm đúng mức và không chậm trễ1.



  1. Dùng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài

Những từ ngữ dược vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu có thể được giữ nguyên dạng hay phiên âm. Ví dụ:

" Hơn một chút... họ sẽ là " Speaker " ( văn hoá, 18 / 1 /1998 );

" Tôi thấy không ít người giản dị mang những bộ đồ rát đẹp nhưng quả thực dó không phải là cái đẹp modern hiện đại mà một nét đẹp rất riêng, cái đẹp của một phong cách giản dị ... " ( Văn hoá- Tết 1999 );

" ... Ông ta không làm cho một tờ báo cụ thể nào mà chỉ hợp tác làm những chuyên san về đời tư nghệ sỹ, thậm chí còn bới móc hay lăng xê vô tội vạ cho một ai đó với mục đích chỉ là để ... có tiền " ( Tiền Phong, 21 / 5 / 2002 );

" Tôi vốn không thích táo nhưng thấy táo ngon mua vài quả dùng làm đét xe cho bữa cơm chiều " ( Lao động, Xuân Mậu Dần, 1998 )...

Trong số các từ được vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu, có khá nhiều từ đã phần nào thích nghi với chuẩn mực của tiếng Việt cho nên được sử dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên, người ta vẫn dẽ dàng nhận thấy cái nguồn gốc ngoại loại của chúng, chẳng hạn như: apphe, xêmina, makettinh, kiôt...

Còn các từ Hán - Việt thì được dùng quá phổ cập và đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của tiếng Việt. Song, không vì thế mà người ta không nhận thấy khả năng tăng cường tính biểu cảm của chúng. Ví dụ:

" Quý hồ tinh bất quý hồ đa " ( Văn hoá, 25 / 2 /1998 );

" Về phía chủ quan, cũng nên thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém, bất cập của ta trong lĩnh vực này ..." ( Tuổi trẻ Thủ đô, số 6 / 1998 )...

Việc sử dụng các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài cần có chừng mực để tránh gây phản cảm cho người đọc, vì sự xuất hiện quá nhiều các từ không thuần Việt trong một văn bản báo chí không chỉ làm cho ngôn ngữ của nó có vẻ không trong sáng mà còn tạo ấn tượng rằng người viết muốn " khoe chữ ". Bên cạnh đó, những từ ngữ được lựa chọn phải có những ưu thế thật sự nổi trội so với các từ hoặc những cách diễn đạt tương đương trong tiếng Việt ( Chẳng hạn như diễn đạt khái niệm rõ ràng, đầy đủ, chính xác hơn; hoặc có vỏ âm thanh nghe gợi cảm hơn ) và đồng thời phải tương đối quen thuộc đối với công chúng ( tức được dùng thường xuyên trong giao tiếp ) để không gây cản trở gì đáng kể cho quá trình nhận thức của độc giả.



3. Dùng thuật ngữ

Các thuật ngữ, xét theo tự thân, là những từ trung tính, tức không mang sắc thái biểu cảm. Thế nhưng, khi được kết hợp hài hoà với các từ khuôn mẫu, chúng lại có khả năng tăng cường tính biểu cảm rất đáng kể. Ví dụ:

" Với biểu tượng về sức mạnh vô song, hổ là hình ảnh để nói sự đứng đầu xuất chúng: chúa sơn lâm. Bằng tư duy, bằng hành động thực tiễn, con người luôn văn hoá hoá thế giới xung quanh" ( Ngôn ngữ và Đời sống, số 2 / 1998 );

" Sự thành công của những hạng mục đầu tiên sẽ tạo nên sự hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư vào liên doanh, liên kết để có thể triển khai dự án " ( Nhân dân hằng tháng, số 5 / 1998 );

" Ít thích lý luận trừu tượng, tự biện, kinh viện, giàu óc thực tế, nắm bắt nhanh kỹ thuật, gắn lý luận với tình cảm, về gần cái chân chất, bình dị...đó cũng là nét khu biệt của văn hoá Nam Bộ " ( Thể thao và Văn hoá, Xuân Mậu Dần / 1998 );

" Đây là một bước ngoặt vì từ trước đến nay đảng LDP cầm quyền vẫn chủ trương cắt giảm thâm thủng ngân sách bằng mọi giá " ( Hà Nội mới cuối tuần, 21 / 2 /1998 )...

Hiện nay, do khoa học kỹthuật phát triển mạnh, nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới ra đời, cho nên số lượng thuật ngữ gia tăng nhanh chóng và chúng xuất hiện với mật độ ngày càng dày trên các báo.

4. Dùng từ ngữ địa phương

Các từ ngữ địa phương luôn mang đậm dấu ấn riêng về lời ăn tiếng nói của một cộng đồng người gắn liền với một vùng đất, vì thế chúng làm cho câu văn có sắc thái mới lạ, đôi khi khá giàu sức gợi.

Các từ ngữ địa phương có thể gặp trong ngôn ngữ của tác giả cũng như trong ngôn ngữ nhân vật. Ví dụ:

"Ước mong sao đến đâu ta cũng gặp những cái chạnh ( xóm, tiếng Nghệ An - H A.) như ở Liên Trì, bắt gặp những con người từ chạnh ra đi " ( Lao động, 4 / 4 / 2002 );

" Huế ơi, biết về bây chừ? " ( Gia đình, số 5 / 2000 );

" Bà Ngô Thị Của ( 67 tuổi ) - Hội trưởng Hội Phụ nữ làng cố giấu sự xấu hổ": " Đúng là có chuyện đó thiệt, cũng là do đời sống mà ra cả. Nói xa, chỉ nhìn sang mấy làng bên núi là đêm nằm tủi thân muốn khóc hết nước mắt. Nhưng nói gì thì nói, mấy chục năm giải phóng lên, làng Cổ Dù đã thay đổi nhiều lắm rồi. Trước phần vì đói, phải ăn độn, phần vì uống nước đục, gái trai, già trẻ làng ni đều bụng phình to như bụng chửa, mặt bủng, da chì " ( Lao động, 20 / 3 / 2003 );...

Dễ dàng nhận thấy là trong ngôn ngữ nhân vật, từ ngữ địa phương xuất hiện một cách tự nhiên như là sự phản ánh chân xác lời ăn tiếng nói của họ, vì thế tính biểu cảm của chúng có vẻ như không được cao bằng so với các từ ngữ địa phương được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi phương diện trong ngôn ngữ tác giả.

5. Sử dụng chất liệu văn học

Các chất liệu văn học có mặt rộng rãi trong hầu hết các thể loại báo chí, theo nhiều cách thức khác nhau. Nhưng những cách thức thường gặp nhất là vay mượn cốt truyện, hình ảnh hay từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học2. Ví dụ:

" Trong tiểu thuyết " Đất vỡ hoang " của nhà văn Xô Viết Sôlôkhôp có miêu tả một ông chủ tịch nông trang Nagunôp không chịu được tiếng gáy của con gà nhà một mụ hàng xóm. Cứ đúng lúc ông ngủ say thì phải bừng thức vì con gà nhà nọ cất tiếng gáy. Nó gáy mới oai vệ, mới thách thức, mới trêu ngươi. Không chịu nổi tiếng con gà, ông chủ tịch mới dùng quyền hành tìm đến nhà nọ bóp chết con gà.

Với ông bạn tôi thì lại khác, ông lại mang con gà nhà mình đến gáy ở thiên hạ. Thói đời vẫn vậy, con gà tức nhau tiếng gáy tất sinh lắm chuyện, trước hết là chuyện sĩ diện, sau đến hao tiền tốn của. Ông bạn tôi là chủ một công ty nhỏ. Người ta tán ông nên đưa hàng đi triển lãm quốc gia, hàng của ông phải nổi tiếng cả nước. Nổi tiếng trong nhà coi như vứt, như áo gấm đi đêm..." ( Nông nghiệp Việt Nam, 10 / 4 / 2002 );

" Cảng Sài Gòn: Đâu là gót chân A-sin? ( Tuổi trẻ TP HCM 27 / 5 /2001 );

" Bản quyền âm nhạc: - cuộc chiến của chàng Đôn kihôtê chống lại cối xay gió ( Gia đình và Xã hội, số 34 / 2002 );

" Ngày 15 / 5 Leverkusen sẽ chơi trận chung kết tranh cúp Đức với Schaltre 04 trước khi gặp Real Madrid trong trận tranh cúp C1. Không biết câu lạc bộ này thi đấu ra sao. Cầu chúc cho ước mơ ban đầu của học không trở thành " miếng da lừa " ( Tiền phong, 12 / 5 /2002 );

" Buồn vui cũng một hội này chùa Hương "; " Lời vui có một khúc này " ( Hà Nội mới cuối tuần, 21 / 2 /1998 );

" Nghề chơi cũng lắm công phu " ( Đầu tư, 9/ 3 /1998 );

" Điều lệ bảo hiểm có những quy định theo kiểu " sống chết mặc bay " ( Gia đình và Xã hội , số 68 / 2001 );

...Với đội bóng Liverpool : Không có nơi nào đẹp như Rôma " ( Thể thao và văn hoá, 20 / 2 /2001 )...


  1. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn... cùng các biến thể của chúng

Các phương tiện ngôn ngữ này thường có ý nghĩa rõ ràng, dễ hiểu, lại xuất hiện với tần số cao trong hoạt động giao tiếp thường ngày ( nhất là thành ngữ, tục ngữ )3, cho nên việc sử dụng chúng rất thuận lợi đối với cả người viết lẫn người đọc.Ví dụ:

" Giận cá chém thớt " ( Lao động, 14 /5 /2001 );

" Nhất cận thị, nhị cận giang " ( Nhân dân hằng tháng, tháng 5 / 1998 );

"Cái nết đánh chết không chừa " ( Thanh niên, 15 / 3 /1998 );

" Làm vua chơi lan, làm quan chơi trà " ( Tuổi trẻ TP HCM, 22 / 1 / 2001 );

" Đầu xuôi, đuôi chưa lọt " ( Nhà báo và Công luận, số 10 /1998 );

" Tên cướp Nguyễn Văn Thi đã từng hai lần vào tù vì tội " cưỡng đoạt tài sản công dân " nay vừa ra tù được vài tháng, mặc dù có sức khoẻ nhưng vẫn không chịu lao động kiếm sống một cách lương thiện mà vẫn mắc chứng " ngựa quen đường cũ " ( Tiền phong, 21 / 5 /2001 );

" Xung quanh vấn đề nhà đất này, cả cán bộ nhà nước và nhân dân đều kêu khổ, kêu cực vì còn những kẻ cơ hội " đục nước béo cò ", lợi dụng các kẽ hở mà làm ăn bất chính " ( Tuổi trẻ TP HCM, 20 / 1 /2002 );

" Thế đấy, mua danh ba vạn nhưng bán danh chỉ cần năm bảy năm tổ chức lễ hội không ra gì " ( Thể thao và Văn hoá, số 18 / 2001 );

" Hãy nói cho tôi biết, bạn yêu như thế nào, tôi sẽ nói bạn là người ra sao " ( Thế giới trẻ, số 34 /1997 );

" Có một danh nhân đã nói, đại ý rằng: " Hạnh phúc là một thứ nước hoa mà khi ban phát cho người khác vẫn con vương lại vài giọt " ( Thanh niên, 16 / 10 / 2000 );...

Khảo sát cho thấy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ đang là thủ pháp tăng cường giá trị biểu cảm được ưa dùng nhất hiện nay trên nhiều tờ báo.



  1. Chơi chữ

Các trường hợp chơi chữ gặp không nhiều trong các tác phẩm báo chí. Vì so với các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm khác, việc chơi chữ khó khăn hơn, đòi hỏi người viết nhiều phải có sự tìm tòi, khám phá công phu hơn. Ví dụ:

" Pháp Mỹ hợp tác hay hợp tát ? ( Nhân dân, số 73 / 1972 );

" Ẩn hoạ văn hoá " ( Hà Nội mới, Tết Nhâm Ngọ, 2002 );

" Gặp nhau đuối ... dần " ( Đầu tư, 12 / 1 /2002 );

" Nhiều người ngại đấu tranh vì họ biết rằng hậu quả họ sẽ phải gánh chịu là " tránh đâu "... " ( Lao động, 15 / 3 /1998 );

" ... Cậu phải chịu ít nhất một lần tiếng chửi thề vì cán phải chân đứa đi bên cạnh khi dừng đèn đỏ để đến cái lớp Anh văn đàm thoại; nhưng " thoại hoài mà vẫn cứ bị loại " ( Áo trắng, số 7 / 2000 )...

Thực tế khảo sát cho thấy, trong báo chí cách mạng Việt Nam, người chơi chữ thường xuyên, hiệu quả và tạo nên hẳn một phong cách riêng, là Chủ tịch Hồ Chí Minh.4 Còn ở các tác giả khác, việc chơi chữ thường được dùng rất hạn chế, mang nặng tính ngẫu hứng.


  1. Dùng dấu câu

Các dấu câu cũng là những phương tiện đắc dụng trong việc tạo nên giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí. Song ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến dấu ngoặc kép và dấu chấm lửng ( dấu ba chấm ) như là hai loại dấu câu nổi bật hơn cả về phương diện này.

Dấu ngoặc kép: Có giá trị biểu cảm cao khi báo hiệu rằng những từ ngữ nào đó được dùng không phải với ý nghĩa hay phong cách thông dụng của chúng. Nó mang đến cho câu văn sắc thái dí dỏm, hài hước hoặc mỉa mai, châm biếm. Ví dụ:

" Khán giả đã quá " no " với những gì được thưởng thức và đang tìm một " món ăn " khác hợp khẩu vị hơn " ( Gia đình và Xã hội, số 100 / 2001 );

" Trong đêm xứ Lạng giá rét, chúng tôi tình cờ gặp tốp 4, 5 cô gái " tóc xù mỳ " kiểu Hàn Quốc đứng trước quán Karaoke trên đường Đông Kinh " phát ngôn " với những lời lẽ, thô tục..." ( Tiền phong, 9 / 1 /2002 );

" ... Tuy vậy, không phải cứ sắm máy rồi muốn bơm lúc nào thì bơm, mà còn phải theo sự phân phối của " trưởng dãy " . Bắt đầu vào hè năm nay, ông Thắng, trưởng khu nhà, đã " lên lịch " phân phối như sau [...]. Còn một hộ không được bơm nhưng ngày nào cũng được " đặc quyền " dùng xô múc nước đủ dùng trong ngày. Phân phối như thế hoá ra anh ta lại " bở " nhất. Cái bể công cộng suốt ngày khô như rắn ráo " ( Nông nghiệp Việt Nam, 19 / 3 /2002 );

" Cũng có nghĩa rằng, dù đã rất cố gắng nhưng một lần nữa, Công an và Viện Kiểm sát quận Kiến An lại " ôm nhầm " một văn bản không có giá trị pháp lý ( Lao động, 24 /5 /2001 );

" 61% lưu học sinh Việt Nam " bốc hơi " sau khi tốt nghiệp. Họ đi đâu ? " ( Thể thao và Văn hoá, số 12 /2001 )...



Dấu chấm lửng: tăng cường đáng kể tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí khi nó thực hiện chức năng làm giãn nhịp câu văn, báo hiệu sự bất ngờ hoặc gợi mở các định hướng suy nghĩ khác nhau cho người đọc. Ví dụ:

" Các nam ca sỹ ngày càng ... đẹp gái " ( Thể thao và Văn hoá, 17 / 6 / 2001);

" Về thành phố mua ... cỏ " ( Lao động, 24 /5 / 2002 );

" Lời hứa cũng ... ô nhiễm " ( Lao động, 21 / 5 / 2001 );

" Tôi đi mua ... vợ " ( Gia đình và Xã hội, số 4 / 2001 );

" Nhưng đến một nơi như Kalona, làng truyền thống ở Iowa, một thành phố miền Trung nước Mỹ mà còn dùng hàng Trung Quốc thì... " ( Tiền phong, 15 / 4 / 2002 );

" Tôi rời làng, đứng trên đồi cao nhìn xuống thấy Cam nghĩa và Cam Chính có thân hình còng ngoặt như một dấu hỏi lớn. Dấu hỏi gieo vào giữa trời, đất, vào biết bao nhiêu thân phận ở làng và khóc nghẹn không có câu trả lời... " ( Lao động, 29 / 3 /2001 )...


  1. Dùng ẩn dụ

Ẩn dụ trong ngôn ngữ báo chí thường mang tính chất văn cảnh. Nó là sáng tạo riêng của người viết và in đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ:

" Các tân binh với nỗi lo muôn thuở: trụ hạng " ( nhà báo và Công luận, số 11 /1998 );

" Bóng đá Đức tăng quân trong cuộc chiến vùng vịnh " ( Hà Nội mới chủ nhật, 22 /2 /1998 );

" Những sáng kiến này có thể giúp Việt Nam loại bỏ những ổ gà trên con đường trở thành " điểm đến của thiên niên kỷ mới " ( Gia đình và Xã hội, số 37 / 2002 );

'" Ở Trường sa, tình yêu của một lính đảo lặng sóng là anh em cả phòng đều vui " ( Tiền phong, 7 / 3/ 2002 );

" Vàng trắng lên ngôi " ( Lao động, 19 / 2 / 2002 )...

Có thể nói, không theo đuổi mục đích khám phá và phản ánh thế giới một cách hình ảnh như trong văn học nghệ thuật, nhà báo sử dụng ẩn dụ như một phương tiện đối lập với khuôn mẫu, một phương tiện nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của độc giả nhưng lại gây được ấn tượng lớn.


  1. Nói dựa, trích dẫn

Ở đây, tác giả chỉ ra nguồn gốc, xuất xứ của những cách diễn đạt gợi cảm nào đó mà anh ta vay mượn nhằm thông báo cho độc giả biết rằng: anh ta chỉ đồng tình với những kiểu nói ấy chứ không phải chịu trách nhiệm về chất lượng của sự gợi cảm trong chúng. Và chính cái thủ pháp nói dựa, trích dẫn như vậy đã làm cho giọng điệu câu văn bớt đi cái sắc thái chủ quan, trở nên mềm mại, nhẹ nhàng, và thông tin hàm chứa trong nó cũng có độ xác thực cao hơn. Ví dụ:

" Giai tầng như tôi, mua cái xe làm phương tiện bươn chải ( nói như ông Gorki, về vai trò của văn học dân gian ) là để " cho lao động được nhẹ nhàng hơn " thì... " ( Lao động, 4/ 3 /1998 );

" Nói theo cách của nhà thơ Evgheni Evtushenko, không nên hạ thấp phụ nữ xuống bằng ... đàn ông! " ( Văn hoá, 8 / 3 /1998 );

" Dân chúng gọi hồ là biển, lâu ngày thành quen nên gọi là Biển Hồ " ( Nhà báo và Công luận, số 13 /1998 );

" Người đàn bà ấy tuy còn chút nhan sắc, nhưng nói theo ngôn ngữ của giới trẻ, cũng thuộc loại quá " đát " rồi " (Tuổi trẻ Thủ đô, 12 / 3 / 2000 )...

" Tôi đi tìm mua cho con gái một chiếc đàn Organ Yamaha " made in Japan " chính hiệu, tại một Duty Free Shop ( cửa hàng miễn thuế ) trên phố " điện tử " ( theo cách gọi của những người Việt ở đây " ( Lao động, 24 / 6 1998 )...


Khi sử dụng bất kỳ thủ pháp nào nhằm tăng cường tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí ( mà những cái kể trên chỉ là một số tiêu biểu ), người viết phải lưu ý tới một loạt các yêu cầu như: đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng ( không phải với thể loại báo chí nào cũng có thể vận dụng chúng; và với các thể loại có thể vận dụng thì mức độ vận dụng cũng khác nhau )...nhưng có lẽ yêu cầu đang được đặt ra bức thiết hơn cả là phải thể hiện sự độc lập, sáng tạo. Chính sự tìm tòi, sáng tạo sẽ sản sinh ra sự mới mẻ vốn là cội nguồn của sự hấp dẫn.Thực tế cho thấy, nếu người viết chỉ biết lặp lại người khác một cách máy móc thì các hình thức biểu cảm mà anh ta đưa ra không chỉ mất đi dấu ấn cá nhân mà còn mất đi cả tính hiệu quả. Chức năng biểu cảm của chúng bị vô hiệu hoá và chúng dần dần trở thành khuôn mẫu. Trong thực tế chúng ta đã gặp không ít trường hợp như vậy. Chẳng hạn, từ câu hát " Em ơi ,Hà Nội phố " người ta đã " tái bản " thành tiêu đề của một loạt các bài báo khác nhau: nào là " Em ơi, Hà Nội ... mũ ", nào là " Em ơi, Hà Nội ... shop ", rồi thì " Em ơi , Hà ... lội nước ", v . v.; rồi từ tiêu đề truyện ngắn " Có một đêm như thế " của Nguyễn Thị Minh Thư người ta đã cải biên thành " Có một tập thể như thế ", " Có một lò võ như thế ", " Có một kiểu đào tạo cán bộ như thế "...Đối với các trường hợp kiểu này, chỉ có vay mượn lần đầu tiên là được người đọc hưởng ứng, vì nó độc đáo và mới lạ. Còn sự lặp lại lần thứ hai, lần thứ ba...rất dễ gây cảm giác nhàm chán.




Chú thích

1. Nguyễn Thị Thanh Hương, Một vài suy nghĩ về " tiếng Hà Nội " ngày nay trong báo chí viết cho thanh thiếu niên, trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: " Tiếng Hà Nội trong mối quan hệ với tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ", H., 2002.

2. Xem bài " Việc sử dụng chất liệu văn học trong tác phẩm báo chí ".

3. Xem bài " Việc sử dụng thành ngữ - tục ngữ trong tác phẩm báo chí ".

4. Viện Ngôn ngữ học, Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, H., 1980.

( Bài đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống , số 7 / 1998 )






Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương