HỌc viện công nghệ BƯu chính viễn thông quản trị sản xuấT



tải về 5.96 Mb.
trang8/18
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích5.96 Mb.
#1884
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   18

- Quy trình thiết kế sản phẩm và công nghệ

NỘI DUNG

4.1 KHÁI NIỆM THIẾT KẾ SẢN PHẨM VÀ CÔNG NGHỆ

Dựa trên những thông tin thu được từ dự báo, doanh nghiệp tiến hành công tác lựa chọn, thiết kế sản phẩm nhằm đảm bảo đúng những gì mà thị trường yêu cầu và phù hợp với khả năng sản xuất của doanh nghiệp.

Thiết kế quy trình công nghệ là việc xác định những yếu tố đầu vào cần thiết như máy móc,


thiết bị, trình tự các bước công việc và những yêu cầu kỹ thuật để có khả năng tạo ra những đặc

65


Chương 4: Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ
điểm sản phẩm đã thiết kế. Khâu này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cho các hoạt động cung ứng, chuẩn bị sản xuất của doanh nghiệp.

4.2 NỘI DUNG THIẾT KẾ SẢN PHẨM VÀ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ

4.2.1 Thiết kế sản phẩm

Một trong những nguyên tắc cơ bản của thiết kế sản phẩm là phải thiết kế sản phẩm sao cho người sử dụng có thể nhận biết được sản phẩm, hiểu được sản phẩm và biết sử dụng sản phẩm mà không cần có hướng dẫn, chỉ bảo gì thêm (hoặc chỉ dẫn không đáng kể). Theo nhiều tác giả, quá trình xem xét, lựa chọn và phát triển một ý tưởng thiết kế sản phẩm thành một dự án thiết kế sản phẩm cụ thể thường dựa vào 4 tiêu thức sau:

- Khả năng tiềm tàng của sản phẩm. Câu hỏi cần trả lời trước khi quyết định là sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng đến đâu. Nếu khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng không tốt hơn trước đây hoặc không tạo ra được ưu thế cạnh tranh thì ý tưởng dù có hay cũng không phát triển ngay thành một dự án phát triển sản phẩm mới.

- Tốc độ phát triển sản phẩm: Cần phải xác định xem cần bao nhiêu thời gian để sản phẩm có thể được đưa ra thị trường. Khoảng thời gian này thường bao gồm cả thời gian nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, chế thử sản phẩm, rút kinh nghiệm đưa ra sản xuất đại trà và đưa sản phẩm ra tiêu thụ trên thị trường. ở đây không chỉ là vấn đề thời gian dài hay ngắn, mà vấn đề ở chỗ sản phẩm có thể được đưa ra sớm hay muộn hơn so với đối thủ cạnh tranh và khi đưa ra thị trường, doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận siêu ngạch là bao nhiêu, có đáp ứng được yêu cầu thu hồi vốn hay không. Nếu các kết quả phân tích cho phép có câu trả lời tích cực thì phương án có thể được chấp thuận.

- Chi phí cho sản phẩm: Đây là chi phí cho toàn bộ các hoạt động từ khi nghiên cứu triển khai, tiến hành sản xuất cho tới khi đưa đến tay người tiêu dùng. Yêu cầu chung cho việc xem xét và cân nhắc là phải đảm bảo mức chi phí sao cho trong toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm chi phí cho mỗi đơn vị sản phẩm là thấp nhất.

- Chi phí cho chương trình phát triển sản phẩm: Chi phí này thường được coi là chi


phí thường xuyên dành cho công tác nghiên cứu. Việc cân nhắc tiêu thức này thường đòi hỏi
phải so sánh xem tổng chi phí có vượt mức dự kiến trong ngân sách dành cho nghiên cứu
hay không. Ngoài ra, chi phí này cần được so sánh với lợi nhuận lý thuyết thu được từ việc
sản xuất kinh doanh sản phẩm được thiết kế. Về nguyên tắc, chi phí này được cao hơn lợi
ích mà nó tạo ra.

4.2.2 Thiết kế công nghệ

Công nghệ là tập hợp các yếu tố phần cứng (máy móc, thiết bị) với tư cách là những yếu tố hữu hình và phần mềm (phương pháp, bí quyết, kỹ năng, quy trình,...) với tư cách là những yếu tố hữu hình. Hiện nay, cùng với nguồn nhân lực, công nghệ được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Năng lực công nghệ ngày càng trở thành yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của mọi doanh nghiệp trên thị trường.

Khi quyết định lựa chọn công nghệ, người ta thường xem xét 4 yếu tố cạnh tranh chủ yếu sau:

- Chi phí cung cấp sản phẩm cho thị trường;

66


Chương 4: Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ
- Tốc độ cung cấp sản phẩm cho thị trường;

- Chất lượng sản phẩm do công nghệ tạo ra;

- Tính linh hoạt của công nghệ.

Việc thiết kế công nghệ bao gồm cải tiến các công nghệ hiện có và thiết kế các công nghệ mới. Trong đó thiết kế các công nghệ mới thường phức tạp, chỉ được thực hiện trong các công ty, tập đoàn có năng lực nghiên cứu mạnh, bao trùm nhiều lĩnh vực.

Trong việc thiết kế công nghệ mới, những vấn đề thường được đặt ra và đòi hỏi được giải quyết là:

- Công nghệ cần thiết kế mới có khả năng được khai thác và sử dụng trong thời gian bao nhiêu lâu, đó là khoảng thời gian tính từ khi đưa vào khai thác cho tới khi cần phải cải tiến và thay thế bằng công nghệ mới.

- Các công nghệ cần được thiết kế là sự cải tiến các công nghệ và sản phẩm đang được khai thác, sử dụng, kinh doanh hay là những công nghệ, sản phẩm chưa được biết tới.

- Việc thiết kế các công nghệ và sản phẩm được thực hiện trên cơ sở những điều kiện hiện có hay cần tạo ra những điều kiện bổ sung và doanh nghiệp/cơ sở nghiên cứu, thiết kế có thể tạo ra được những điều kiện đó không.

- Công nghệ, sản phẩm cần được thiết kế có thể được khai thác như thế nào, hiệu quả dự kiến thu được ra sao.

- Sản phẩm và công nghệ cần được thiết kế có mối liên hệ như thế nào tới các công nghệ và sản phẩm đang được khai thác, sử dụng tại cơ sở.

- Khi đã được nghiên cứu, thiết kế hoàn chỉnh, sản phẩm và công nnghệ mới có thể được khai thác, kinh doanh bằng hình thức nào, theo con đường nào (đặc biệt là tự kinh doanh hay chuyển giao cho đơn vị khác).

- Kinh phí dự kiến có vượt ngân sách nghiên cứu hay không.

4.3 TỔ CHỨC CÔNG TÁC THIẾT KẾ SẢN PHẨM VÀ CÔNG NGHỆ

Tổ chức thiết kế sản phẩm và công nghệ là một giai đoạn quan trọng trong quá trình


tạo ra và đưa ra những sản phẩm, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh cũng như đưa nó
vào khai thác có tính chất thương mại. Nó bao gồm toàn bộ những hoạt động tổ chức, phối
hợp nhằm xác định những mục tiêu, tạo ra những điều kiện và mối quan hệ cần thiết để có
thể có được sản phẩm và công nghệ mới. Những hoạt động này bao gồm cả những hoạt động
nghiên cứu, thiết kế thường xuyên và cả những nghiên cứu cụ thể nhằm thiết kế và đưa vào
sử dụng những công nghệ và sản phẩm cụ thể (có tính một lần, triển khai theo kiểu dự án cụ
thể).

Về mặt nội dung, công tác tổ chức thiết kế sản phẩm và công nghệ bao gồm 3 nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, tổ chức hệ thống các bộ phận tham gia các hoạt động nghiên cứu, thiết kế
sản phẩm và công nghệ mới. Việc này không đơn thuần chỉ là việc thiết lập một hệ thống
các bộ phận, tổ chức có chức năng nghiên cứu, thiết kế các sản phẩm và công nghệ mới, mà

67


Chương 4: Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ
còn bao gồm cả việc phân công trách nhiệm tổ chức sự chuyên môn hoá và hiệp tác hoá giữa các cơ sở, các bộ phận này, cơ chế hoạt động cũng như sự liên kết, hiệp tác với các cơ sở khác ngoài doanh nghiệp. Trong việc tổ chức hệ thống này, cần đặc biệt chú ý tới sự phối hợp có tính liên ngành của các bộ phận chuyên ngành., nhằm mục đích một mặt đảm bảo có sự tham gia của cán bộ thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau để ngay từ đầu có thể loại bỏ tính không tưởng, tính phi thực tế của sản phẩm và công nghệ mới, chứ không đợi khi nghiên cứu xong, đưa ra thẩm định mới có thể kết luận được. Mặt khác, thông qua đây, có thể tiết kiệm chi phí nghiên cứu, tiết kiệm thời gian tìm các giải pháp có tính đồng bộ từ các ý kiến, quan điểm cả các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau.

Trong việc tổ chức hệ thống các bộ phận làm chức năng nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ, không chỉ cần chú ý tới sự hợp tác liên ngành, mà cần chú ý tới việc làm sao cho các nguồn lực không bị phân tán, mất lợi thế về mặt thời gian trong cạnh tranh, nhất là để xảy ra tình trạng ý tưởng về sản phẩm, công nghệ đã hình thành từ sớm nhưng được đưa ra thị trường chậm hơn công ty, đơn vị khác.

Thứ hai, tổ chức các hoạt động nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới. Đây
là loại hoạt động nhằm duy trì các hoạt động thường ngày của các doanh nghiệp trong lĩnh
vực nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới. Chúng trước hết nhằm vào các bộ
phận chuyên trách làm nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ (các phòng
nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu...). Các hoạt động nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công
nghệ mới thường được thực hiện trên cơ sở kế hoạch hoạt động của các bộ phận này và bản
kế hoạch đó lại thường dựa trên một số căn cứ chủ yếu như hướng hoạt động của chúng
(theo hoạch định ban đầu dưới dạng các chiến lược, mục tiêu dài hạn...) và nhiệm vụ do
công ty đề ra. Trong việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu, bên cạnh việc xác định được
những mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn của công tác nghiên cứu, thiết kế sản phẩm/công
nghệ, sự phân công cụ thể cho các bộ phận liên quan, còn cần tìm kiếm, thực hiện các biện
pháp nhằm lôi cuốn đông đảo người lao động và các cán bộ thuộc các cấp khác nhau trong
hệ thống quản lý và sản xuất kinh doanh tham gia việc tìm kiếm các ý tưởng và các giải
pháp kỹ thuật phục vụ cho việc đưa những sản phẩm và công nghệ mới vào sản xuất kinh
doanh. Để làm việc này người ta có thể áp dụng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, thậm
chí kết hợp chúng một cách linh hoạt.

Thứ ba, tổ chức lực lượng cán bộ nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới.


Trong bất kỳ một doanh nghiệp nào, dù chỉ là sản xuất kinh doanh thuần tuý (không tổ chức
bộ phận nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ riêng), thì vẫn cần những sản phẩm và
công nghệ mới, cũng có những cán bộ có khả năng nghiên cứu theo hướng này. Nhiều nhà
kinh doanh ở Việt Nam thậm chí còn cho rằng phải là “người trong cuộc” mới có thể am
hiểu sâu sắc, phải là người của doanh nghiệp mới có lợi ích thiết thân với việc đưa sản phẩm
và công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Do vậy. một thời kỳ dài, người ta chú ý chủ yếu
tới việc phát triển năng lực tự nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới trong doanh
nghiệp của mình là chính, ít tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài. Kinh nghiệm của các công
ty đổi mới sản phẩm và công nghệ một cách nhanh chóng là thiết lập mối quan hệ chặt chẽ
và thường xuyên với các tổ chức nghiên cứu bên ngoài, có những chương trình hợp tác dài
hơi, có sự phối hợp, phân công và được tổ chức dưới những hình thức linh hoạt. Nhiều

68


Chương 4: Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ
doanh nghiệp áp dụng hình thức cung cấp điều kiện (kể cả tài trợ) cho các hoạt động nghiên cứu và sử dụng kết quả nghiên cứu của họ.

Những hình thức tổ chức nghiên cứu, thiết kế sản phẩm - công nghệ thường được áp


dụng là:

- Tổ chức quan hệ giữa các bên tham gia với tư cách là những bên mua - bán thông


thường mà hàng hoá được giao dịch là sản phẩm và công nghệ mới, tồn tại dưới dạng các
bản mô tả, bản vẽ... Quan hệ giữa 2 bên không đơn thuần chỉ là mua - bán mà còn có sự hợp
tác trong quá trình triển khai, đưa ý đồ, bản vẽ thành hiện thực. Trong nhiều trường hợp,
bên mua (đơn vị sản xuất kinh doanh) cũng cung cấp những điều kiện mình có như nhà
xưởng, thiết bị đo lường - thí nghiệm, thiết bị chuyên dùng... để các cơ sở nghiên cứu sử
dụng khi nghiên cứu theo đề tài của họ (đề tài theo đơn đặt hàng và chỉ được cung cấp cho
bên đặt hàng sử dụng, không chuyển giao cho bất kỳ đối tượng nào khác).

- Tổ chức quan hệ liên kết giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh (đơn vị trực tiếp sử dụng kết quả nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ, với tư cách là bên mua hoặc bên góp vốn và các điều kiện khác nhằm khai thác lợi ích của sản phẩm, công nghệ mới) với các cơ sở nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới.

- Tổ chức các cơ sở nghiên cứu như những bộ phận độc lập trong một tổ chức sản xuất
kinh doanh có quy mô lớn. Nhiệm vụ của bộ phận này được tập trung hoá vào khâu nghiên
cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới. Nó có thể hoạt động như một bộ phận độc lập của
toàn bộ công ty, tập đoàn, được cung cấp những điều kiện cần thiết để nghiên cứu, thiết kế
sản phẩm và công nghệ mới. Đây là mô hình tổ chức các phòng nghiên cứu các trung tâm
hoặc viện nghiên cứu trong các tập đoàn, công ty lớn trong nước và đa quốc gia.

Các hoạt động nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ thường bao gồm hai loại tương đối tách biệt: Các hoạt động nghiên cứu cơ bản và các hoạt động nghiên cứu thiết kế chế thử và thử nghiệm cụ thể các sản phẩm và công nghệ mới cụ thể. Trong hoạt động này, nghiên cứu cơ bản là tiền đề, nền tảng cho các nghiên cứu, thiết kế cụ thể. Theo đó, sau giai đoạn nghiên cứu cơ bản, phát hiện được ý tưởng có tính khả thi về sản phẩm và công nghệ mới, người ta chuyển sang nghiên cứu, thiết kế cụ thể để cho ra đời một hoặc một số sản phẩm, công nghệ mới trên cơ sở có ý tưởng trên.

Về tổ chức nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới cũng có thể thực hiện
theo kiểu dự án. Trường hợp này thường được thực hiện khi đã có ý tưởng tương đối rõ ràng
về sản phẩm và công nghệ mới dự kiến đưa vào sản xuất, kinh doanh, thậm chí đã có những
nghiên cứu, đánh giá về tính khả thi của các ý tưởng này. Dự án nghiên cứu, thiết kế sản
phẩm ở đây sẽ là kế hoạch triển khai cụ thể ý tưởng nói trên. Theo đó người ta sẽ tổ chức
theo quy trình sau đây:

69


Chương 4: Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ

Ý tưởng về

sản phẩm,

công nghệ mới

Phân tích

thị trường


Kết thúc dự án

Mục tiêu

thiết kế


Sản xuất

đại trà

Tổ chức lực Xây dựng kế

lượng (Nhóm hoạch triển khai

công tác)


Triển khai thực hiện

Sản xuất Thí

thử nghiệm


Điều chỉnh

Hình 4.1: Quy trình nghiên cứu, thiết kế sản phẩm

Thông thường, trong thực tế, luôn có sự kết hợp giữa 2 loại trên: Trên cơ sở những kết
quả nghiên cứu dài hạn hoặc những thông tin thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau,
người ta xây dựng những dự án/đề án cụ thể về việc nghiên cứu, thiết kế những sản phẩm
hoặc công nghệ cụ thể. Người đề xuất ý tưởng hoặc kế hoạch về những dự án, đề án này có
thể là cán bộ, công nhân viên của các bộ phận sản xuất, các cán bộ, nhân viên của các bộ
phận nghiên cứu, quản lý kỹ thuật - công nghệ của doanh nghiệp, bộ phận kinh

doanh/nghiên cứu thị trường/tiêu thụ sản phẩm... Ngoài ra, các cán bộ, nhân viên thuộc các bộ phận khác của doanh nghiệp cũng có thể đề xuất những kiến nghị về đổi mới sản phẩm và công nghệ của doanh nghiệp.

4.4 QUY TRÌNH THIẾT KẾ SẢN PHẨM VÀ CÔNG NGHỆ

Một vấn đề thường được đặt ra và tranh luận là xác định rõ giới hạn của quy trình thiết kế sản phẩm và công nghệ. Thông thường, hai quan điểm cơ bản được đề cập là:

Thứ nhất, quá trình thiết kế sản phẩm được bắt đầu từ khi có quyết định về việc thiết
kế sản phẩm và kết thúc khi có được bản vẽ và các tài liệu có liên quan về sản phẩm mới.
Theo đó, quá trình thiết kế sản phẩm và công nghệ mới chỉ bao gồm một khoảng thời gian
hoàn toàn xác định (thường là ngắn) trong quá trình chuẩn bị sản xuất chỉ là sự chuẩn bị cho
việc đưa sản phẩm và công nghệ mới vào sản xuất. Nhiều tác giả chỉ coi đây là sự thiết kế
sản phẩm và công nghệ theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, cách hiểu này thường tồn tại trong các
cấp triển khai, thừa hành bởi nó đề cập tới những nội dung hoàn toàn xác định về mặt hành
động, không gian và thời gian, là cơ sở xác thực để tổ chức thực hiện, triển khai cụ thể. Chỉ
với cách hiểu cụ thể như thế này các ý đồ về sản phẩm và công nghệ mới mới có thể được
triển khai, biến thành hiện thực.

Thứ hai, Quá trình thiết kế sản phẩm bắt đầu từ khi hình thành ý tưởng về đổi mới sản


phẩm và chủ trương đưa sản phẩm mới ra thị trường, kết thúc khi sản phẩm mới được sản
xuất chính thức. Theo quan điểm này, quá trình thiết kế sản phẩm và công nghệ là một quá

70

Chương 4: Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ
trình lâu dài, chỉ kết thúc khi “sản phẩm cuối cùng” đã được hoàn thành, tức là sản phẩm mới đã được đưa vào sản xuất, công nghệ mới đã được đưa vào khai thác, sử dụng. Thiết kế sản phảm và công nghệ mới theo nghĩa này được hiểu rộng hơn, toàn diện hơn và ở cấp chiến lược, dài hạn.

Những khác nhau trong ý kiến về giới hạn quy trình thiết kế sản phẩm xuất phát từ những quan niệm khác nhau về nội dung (trước hết là sự phân chia các bước, các giai đoạn và chính bản thân quy trình thiết kế sản phẩm mới).

Theo quan điểm thứ nhất, thiết kế sản phẩm mới là công việc có tính chất định kỳ, gián đoạn, được triển khai từ trên xuống.

Quan điểm thứ hai, xuất phát từ chỗ coi thiết kế sản phẩm mới và đưa chúng ra thị


trường là những hoạt động thường xuyên, được thực hiện một cách liên tục, không gián
đoạn và được thực hiện từ dưới lên là chính, đồng thời có kết hợp với các quyết định từ trên
xuống và sự phối hợp, hiệp tác của các bộ phận chức năng (theo chiều ngang). Hiện nay cả
hai quan niệm này đều đang được sử dụng trong những công ty thuộc các quốc gia khác
nhau, thậm chí ngay cả trong các công ty của cùng một nước. Sự khác biệt này làm cho
nhiều khi các số liệu về chi phí nghiên cứu và thiết kế sản phẩm/công nghệ mới giữa các
công ty khó có thể so sánh được với nhau, hoặc là cho sự so sánh này trở nên không chính
xác.

Quy trình thiết kế sản phẩm (từ khi hình thành ý tưởng sản phẩm tới khi đưa sản phẩm


vào sản xuất) thường là một chu trình lặp lại nhiều vòng và có thể được mô tả trong hình

4.2.


Ý đồ, ý


tưởng về

sản phẩm

Thiết kế

chi tiết Sản xuất

sản phẩm thử

Cải tiến đa


dạng hoá

Sản xuất


hàng loạt
Hình 4.2: Quy trình thiết kế sản phẩm
Trong giai đoạn đầu - hình thành ý tưởng, ý đồ về sản phẩm/công nghệ - mục tiêu chủ
yếu là tìm kiếm các ý tưởng về sản phẩm và công nghệ có thể sử dụng và khai thác trong
tương lai. Nó có thể bắt đầu ngay từ khi một sản phẩm/công nghệ mới khác bắt đầu được
71

Chương 4: Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ


đưa ra thị trường, nhưng cũng có thể chỉ xuất hiện khi các sản phẩm đang được sử dụng đã tỏ rõ những ưu điểm và nhược điểm của chúng. Những ý tưởng mới này có thể được thu thập qua công tác nghiên cứu của bản thân doanh nghiệp, qua các thông tin chuyên ngành, qua các quan sát của cán bộ, nhân viên công ty, qua các hoạt động nghiên cứu của các bộ phận có liên quan của doanh nghiệp và qua các nguồn thông tin khác. Nhiều khi, các doanh nghiệp tổ chức các cuộc thi để tìm tòi các ý tưởng thích hợp cho mình.

Trong giai đoạn thiết kế chi tiết sản phẩm và công nghệ, các ý tưởng về ssản phẩm và


công nghệ mới sẽ được lần lượt cụ thể hoá bằng các thiết kế cụ thể (về kiểu dáng, kết cấu,
tính năng tác dụng, vật liệu, kỹ thuật sản xuất, khả năng sử dụng...) và kiểm định trên tất cả
các mặt này. Những hoạt động đó có thể được thực hiện một cách riêng rẽ hoặc theo đề án
(một cách tổng hợp). Nó không chỉ bao gồm việc cụ thể hoá các ý đồ bằng các bản vẽ kỹ
thuật, các bản hướng dẫn kỹ thuật và công nghệ, mà còn có cả những kết luận, đánh giá về
các phương án được đưa ra. Những đánh giá này đều được tập hợp, lưu trữ để sử dụng lại
sau này (chẳng hạn khi nghiên cứu để đổi mới, cải tiến ngay chính những sản phẩm công
nghệ này). Như vậy, sản phẩm của giai đoạn này là một hệ thống những bản vẽ, những bản
thiết kế với những mức độ cụ thể và nội dung khác nhau liên quan tới toàn bộ quá trình sản
xuất, lưu thông và khai thác, sử dụng các sản phẩm/công nghệ đó. Trong nhiều trường hợp,
việc thiết kế chỉ được coi là hoàn thành khi có mô hình mô phỏng sản phẩm/công nghệ mới.
Nếu như việc hình thành ý tưởng, ý đồ với sản phẩm và công nghệ đòi hỏi có sự tham gia
của đông đảo mọi người thì những hoạt động thiết kế trong giai đoạn này lại thường được
tập trung vào một số bộ phận có liên quan (phòng kỹ thuật, trung tâm nghiên cứu, phòng thí
nghiệm,...) chỉ sau khi đã có các bản thiết kế và mô hình sản phẩm/công nghệ mới người ta
mới tổ chức đánh giá chúng và tập hợp ý kiến của những người có liên quan. Nhiều tác giả
phân chia các hoạt động thiết kế thành các loại hình thiết kế khác nhau: Thiết kế tính năng,
tác dụng của sản phẩm/công nghệ... Mỗi hình thức như thế phải đáp ứng những mục tiêu
riêng biệt. Sự phân chia này có tính tương đối những là cần thiết cho việc tổ chức sự phối
hợp trong thiết kế, đặc biệt là khi sản phẩm/công nghệ phức tạp, có quy mô lớn. Sự trợ giúp
của các phương tiện kỹ thuật làm cho quá trình thiết kế sản phẩm và công nghệ trở nên
thuận lợi hơn, nhưng không làm mất đi tính phức tạp của nó.

Sản xuất thử là giai đoạn bắt buộc phải có trong hầu hết các hoạt động nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và công nghệ mới. Mục đích của việc này không chỉ là kiểm tra, đánh giá lại khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc khả năng sử dụng, vận hành công nghệ, nhằm kiểm tra, đánh giá hiệu quả của việc sản xuất, sử dụng đó mà nó giúp các nhà thiết kế phát hiện những bất hợp lý trong kết cấu của sản phẩm/công nghệ. Đối với những sản phẩm/công nghệ có liên quan tới sức khoẻ con người và sự an toàn lao động, sự kiểm nghiệm càng chặt chẽ thì vai trò của quá trình sản xuất thử càng quan trọng, việc thực hiện chúng có quy mô càng lớn và phức tạp. Hầu hết các nước đều có những quy định cụ thể (về mặt kỹ thuật -


Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> Công nghệ rfid giới thiệu chung
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> MỤc lục danh mục các chữ viết tắt 3 Danh mục bảng biểu hình vẽ 4
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> LỜi nóI ĐẦu phần I tổng quan về HỆ thống thông tin quang sợI
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> Báo cáo đánh giá tác động môi trường Dự án: Nhà máy sản xuất hạt nhựa 3h vina của công ty tnhh 3h vina
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> ĐỀ 24 thi ngày 22/9
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> ĐƯỜng lối ngoại giao củA ĐẢng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dâN (1945-1954)
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> Đồ án xử lý nước cấp Thiết kế hệ thống xử lý nước cho 2500 dân
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> HiÖn nay gç rõng tù nhiªn ngµy cµng khan hiÕm mµ nhu cÇu sö dông gç ngµy cµng cao
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> Câu 1: Những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Công sản Việt Nam
UploadDocument server07 id1 24230 nh42986 67215 -> Lời nói đầu

tải về 5.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương