(2) Các nghiên cứu về phương thức liên kết vùng
(a) Liên kết nông nghiệp và công nghiệp chế biến
Liên kết nông nghiệp và công nghiệp chế biến trong nghiên cứu liên kết vùng được đề cập đầu tiên trong các nghiên cứu khoa học vùng. Trong những năm 60 của Thế kỷ 20, khi mà các ngành công nghiệp chế biến phát triển mạnh, gắn với các vùng nông nghiệp tập trung ở nước Mỹ, ở các nước Châu Âu, các nghiên cứu liên kết vùng nông nghiệp và công nghiệp chế biến, bao gồm các liên kết ngược và liên kết xuôi giữa các chủ thể kinh tế được tập trung nghiên cứu kỹ cả về định tính và định lượng. Việc phân tích các không gian kinh tế dựa trên các phân tích về ngành cho thấy những mối liên hệ ngược và liên kết xuôi giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp thuộc ngành được bố trí trên một không gian địa lý nhất định.
Hazell & Roell (1983) trong tác phẩm: “Rural Growth Linkages: Household Expenditure Patterns in Malaysia and Nigeria” dựa trên khảo sát kinh tế hộ và bằng các mô hình định lượng nghiên cứu về liên kết nông nghiệp và phi nông nghiệp theo 2 cách tiếp cận: tiếp cận sản xuất và tiếp cận trong tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu của nhóm nghiên cứu là làm rõ tầm quan trọng của mối liên kết giữa nông nghiệp và ngành công nghiệp chế biến. Thực hiện liên kết này sẽ tạo thêm việc làm cả trong nông nghiệp và phi nông nghiệp một cách bền vững. Trong liên kết nông nghiệp và công nghiệp chế biến có nhiều mô hình liên kết khác nhau như: liên kêt giữa các hộ sản xuất, liên kết doanh nghiệp chế biến với nông dân, người hoạt động thương mại với nông dân. Mỗi kiểu liên kết đều có tác động tích cực và tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Các ông cũng nhấn mạnh rằng để tăng trưởng nông nghiệp tốt, thúc đẩy liên kết nông nghiệp và công nghiệp có hiệu quả, tạo thêm công ăn việc làm cho người dân, thì sự phát triển hạ tầng nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa quan trọng.
Còn GS.TS. Douglass (1998) chỉ ra 5 liên kết cần lưu ý trong liên kết nông nghiệp và công nghiệp là: i) hệ thống thương mại, vận tải đô thị và sản xuất nông nghiệp; ii) các dịch vụ vật tư nông nghiệp và cường độ sản xuất nông nghiệp; iii) các thị trường hàng hóa phi nông nghiệp và thu nhập, sức cầu ở nông thôn; iv) công nghiệp chế biến và đa dạng hóa nông nghiệp; v) việc làm phi nông nghiệp và lao động nông thôn.
Cappelo (1988) Isard Walter (1989) đã có cùng quan điểm về xác định các yếu tố quyết định đến phân bố lãnh thổ công nghiệp và nông nghiệp hay phân bố cụm ngành hàng. Các yếu tố tác động khác nhau là: chi phí các loại đầu vào như nguyên liệu thô, vùng nguyên liệu, những dịch vụ khác nhau và các loại vốn, năng lượng... tiếp đến phải tính đến việc tiếp cận và chi phí phân phối đến thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở những nguyên lý liên kết vùng và liên kết chuỗi giá trị, các ông đã nêu lên các nguyên tắc để phân bố lãnh thổ công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu trong liên kết vùng như sau:
Nguyên tắc 1: Dựa trên lợi thế so sánh để phân bố lãnh thổ công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu nông nghiệp để có thể làm cho tổng chi phí sản xuất và phân phối sản phẩm đến thị trường thấp nhất.
Nguyên tắc 2: Là hạn chế việc song hành sử dụng nguyên liệu cho nhiều nơi sẽ làm giảm hiệu suất sử dụng nguồn lợi và làm mất đi các lực liên kết vùng. Do vậy, nguyên tắc tối ưu hóa sử dụng nguồn lợi được nêu là chỉ tiêu quan trọng cần được lưu ý khi phân bố lãnh thổ phát triển.
Nguyên tắc 3: Là hiệu quả quy mô. Các chi phí trên một đơn vị sản phẩm sẽ giảm khi sản lượng gia tăng, việc lựa chọn quy mô hợp lý phải dựa trên sự phân tích chi tiết yêu cầu thị trường trong và ngoài nước và sự liên kết giữa các nhà máy cùng loại sản phẩm.
Những nguyên tắc này cũng có thể được xem như là các nguyên tắc thiết lập liên kết phát triển nội vùng và liên vùng. Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, việc phân bố các cụm ngành theo các nguyên tắc trên sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh vùng và cạnh tranh doanh nghiệp chế biến.
Cơ sở cho liên kết vùng (hay địa phương) là lợi thế so sánh. Các nhà nghiên cứu kinh tế vùng cho rằng, lợi thế so sánh không chỉ bao gồm các yếu tố: điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,…mà còn có các yếu tố công nghệ, phân công lao động. Và điều tạo nên sự khác biệt giữa các vùng là sự thực hiện phân công lao động giữa các vùng, tính chuyên môn hóa và cạnh tranh trên cơ sở lợi thế tuyệt đối (so với vùng khác) và có cả các lợi thế tuyệt đối. Trong điều kiện tự do di chuyển một cách tương đối lao động và vốn trong vùng thì lợi thế tuyệt đối sẽ không nằm ở chi phí nhân công và vốn rẻ mà ở các điều kiện tự nhiên (khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng, tài nguyên, vị trí địa lý,…) và một vài yếu tố khác như sở hữu các tài sản công nghệ, xã hội, thể chế, hạ tầng ưu việt hơn các vùng khác. Chính sự khác biệt trong lợi thế so sánh và phân công lao động tạo nên sự khác biệt sản phẩm về giá thành, chất lượng và quy mô sản xuất mà thúc đẩy sự liên kết địa phương trong phát triển vùng (Martin, 2004).
(b) Liên kết giữa các chủ thể kinh doanh
Trong một số nghiên cứu về liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài với các đối tác trong nước Scott-Kennel & Enderwick, 2005; Glass et al., 2002; Saggi, 2002), các tác giả đã phân biệt hai loại liên kết: liên kết dọc (vertical linkages) và liên kết ngang (horizontal linkages). Trong đó liên kết dọc là mối quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp nước ngoài với các nhà cung cấp địa phương (liên kết ngược) và với người tiêu dùng đối với sản phẩm trung gian hoặc cuối cùng (liên kết xuôi). Liên kết dọc dựa chủ yếu trên các quan hệ giao dịch nhưng cũng bao gồm cả các trợ giúp tự nguyện hay chuyển giao nguồn lực và công nghệ cho các đối tác địa phương (Saggi, 2002). Liên kết ngành có liên quan đến các hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước dưới dạng liên doanh và quan hệ mạng lưới giữa các doanh nghiệp (Giroud & ScottKennel, 2006); hay liên kết ngang thể hiện sự tương tác giữa doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp địa phương trong việc sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ cùng một khâu sản xuất (UNCTAD, 2001). Các tác giả này cũng phân biệt giữa các mối liên kết và hiệu ứng của chúng. Hiệu ứng quan trọng nhất được gọi là hiệu ứng lan tỏa (spillovers), nảy sinh như tác động phụ từ hoạt động của các công ty nước ngoài trong nền kinh tế (thông qua quá trình bắt chước, học tập, mô phỏng của các doanh nghiệp trong nước đối với các kỹ năng quản lý, công nghệ, chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài.
Ở khía cạnh khác, Fujita & Mori (2005) lại cho rằng có hai loại liên kết chủ yếu, tạo ra xung lực trong tương tác giữa các ngành. Loại thứ nhất gọi là liên kết kinh tế (E-linkages), liên quan tới các hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa và dịch vụ; loại thứ hai là liên kết kiến thức (K-linkages), bao gồm các hoạt động của con người trong sáng tạo và chuyển giao kiến thức, từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa kiến thức (knowledge spillover effects).
(c) Liên kết vùng đô thị và nông thôn
Các nghiên cứu liên kết theo hướng phát triển bền vững tập trung phân tích sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa vùng đô thị và nông thôn trong giải quyết các bài toán kinh tế, xã hội và môi trường, UN (2000). Các nghiên cứu đưa ra 6 vấn đề liên kết cần chú ý trong việc lập kế hoạch phát triển bền vững vùng: i) sự gia tăng sử dụng tài nguyên thiên nhiên do nhu cầu của đô thị hoá dẫn tới sự cạn kiệt vốn tự nhiên ở nông thôn; ii) Vai trò của đô thị với tư cách là chất xúc tác thương mại hóa nông sản; iii) Sự chuyển dịch cầu về hàng hóa ở đô thị dẫn tới sự tái chuyên môn hóa ở nông thôn, và từ đó ảnh hưởng tới tính bền vững ở nông thôn; iv) Mối quan hệ giữa đô thị hóa và nguồn cung lao động nông thôn; v) Hệ thống thu mua, vận tải, phân phối và chế biên nông sản kết nối cầu ở thành thị và cung ở nông thôn; vi) Các luồng tài chính giữa đô thị và nông thôn.
Trên quan điểm phát triển bền vững, nhóm tác giả trong cuốn sách: Handbook of Regional Growth and Development Theories do Cappelo (2007) chủ biên, đã phân tích mối quan hệ giữa phát triển bền vững và tăng trưởng kinh tế vùng. Các ông đã cho rằng nếu không tạo ra được các liên kết giữa các chủ thể kinh tế, và giữa các tổ chức trong việc bảo vệ môi trường, chú ý đến biến đổi khí hậu trong phát triển công nghiệp, thương mại, nông nghiệp,...thì rủi ro trong phát triển vùng là khá lớn, tăng trưởng vùng sẽ khó lòng thực thi. Nhằm giảm nhẹ khí nhà kính, xây dựng nền kinh tế các-bon thấp, cần thiết phải thực hiện các nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm môi trường trong các đô thị và các khu công nghiệp quy mô lớn.
Mushi (2003) tiếp cận khái niệm liên kết giữa đô thị và nông thôn trong vùng trên cơ sở phức hợp các mối quan hệ, có 7 liên kết chủ yếu được nêu lên là: i) Liên kết về xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm đường xá, cảng và hệ thống cơ sở giáo dục và y tế; ii) Liên kết kinh tế bao gồm cấu trúc thị trường, các dòng vốn, lao động và nguyên vật liệu, hợp tác trong sản xuất và chuyển giao công nghệ; liên kết dịch chuyển dân số bao gồm các dòng di cư tạm thời và lâu dài; iii) Liên kết xã hội bao gồm tương tác giữa các nhóm xã hội, tôn giáo và văn hóa, và sức khỏe, kỹ năng của dân cư; iv) Liên kết tổ chức bao gồm các chuẩn mực và quy tắc, các tổ chức chính thức và phi chính thức; v) Liên kết hành chính bao gồm các mối quan hệ về cơ cấu hành chính, các quyết định chính trị phi chính thức; vi) Liên kết môi trường bao gồm các mối quan hệ về vốn tự nhiên và chất thải.
(d) Liên kết vùng về mặt xã hội
Xem xét mối quan hệ giữa kinh tế, xã hội và thể chế, Kristiansen (2003) chia liên kết thành 3 nhóm: i) Liên kết trong việc khai thác các vốn xã hội, văn hóa cho sự phát triển, đặc biệt trong việc tạo ra văn hóa kinh doanh có tính phổ biến và đặc thù của các địa phương và trên toàn vùng; ii) Liên kết như là mối liên hệ liên tục giữa các tác nhân kinh tế, bị chi phối bởi các hợp đồng hoặc sự can thiệp của nhà nước vì các mục đích phát triển con người và duy trì sự phát triển xã hội; iii) Liên kết các quan hệ xã hội hay mạng lưới mà có thể được sử dụng để phát triển vốn xã hội, văn hóa và con người hay thúc đẩy giá trị của các quyết định, giao dịch kinh doanh hoặc phát triển kinh tế.
Các nhà nghiên cứu phát triển bền vững vùng như Muiller (Đức, 2001), Kenneth (1999 - Mỹ), Kiesten Jonhson (2006), đã phân tích những đặc trưng sinh thái của các vùng (địa phương) khác nhau và cho thấy rằng các lợi thế so sánh về tự nhiên có ý nghĩa quan trọng trong sự giàu có của địa phương. Song như vậy chưa đủ, mà cần một hệ thống kiến thức ứng xử với tài nguyên, các tiến bộ kỹ thuật, chất lượng nguồn nhân lực và những khung khổ chính sách phát triển mới có thể đảm bảo phát triển lâu dài và bền vững của những ngành sản xuất dựa trên lợi thế so sánh mà tự nhiên đem lại.
Trong thế giới toàn cầu, thế giới phẳng, những lợi thế tự nhiên không còn là sức cạnh tranh lớn giữa các vùng trong những thế kỷ 17 -18 nữa mà là kinh tế tri thức. Phát triển bền vững của địa phương này có liên quan mật thiết với các vùng khác về lao động, nguồn nguyên liệu, hạ tầng,...sinh thái và môi trường, vì vậy liên kết nội vùng và liên vùng trong phát triển là một đòi hỏi khách quan. Vì vậy, các tác giả cũng chỉ ra rằng để bảo vệ các lợi thế sinh thái, tài nguyên khó tái tạo trong bối cảnh hội nhập, cần cải cách tư duy liên kết phát triển và tăng cường năng lực quản trị vùng ở các vùng kém phát triển.
Như vậy, liên kết trong phát triển vùng dựa trên cơ sở lợi thế so sánh giữa các địa phương trong vùng và của từng vùng. Trên cơ sở đó thực hiện phân công lao động giữa các địa phương với khung khổ thể chế, quy hoạch phát triển cấp vùng để tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện các liên kết chuỗi khác nhau để khai thác lợi thế có hiệu quả. Tuy nhiên, để có thể thực hiện các liên kết kinh tế, xã hội tốt cần có một hệ thống hạ tầng phát triển đi cùng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |