Hình Mô hình hệ sinh thái xã hội lấy con người là trung tâm 31 Hình Vùng trong bậc thang không gian lãnh thổ 40 Bảng Thiệt hại nông nghiệp trong giai đoạn 2010-2014 58 Hình 2



tải về 5.97 Mb.
trang5/28
Chuyển đổi dữ liệu15.10.2017
Kích5.97 Mb.
#33694
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28

Phân vùng địa lý tự nhiên

Phân vùng địa lý tự nhiên là nhằm phát hiện hệ thống các khu vực tự nhiên đồng nhất về phát sinh, có đặc thù riêng không lặp lại trong không gian8 hay là sự vạch ra và họa đồ các thể tổng hợp địa lý tự nhiên tồn tại một cách khách quan, nghiên cứu thành phần vật chất, cấu trúc hệ thống, các quá trình hình thành và động lực của chúng, gồm 2 nhân tố phát sinh chủ yếu: (i) Nhân tố địa đới chi phối bởi sự phân bố năng lượng Mặt Trời không đều trên bề mặt Trái Đất, tạo ra các vòng đai nóng, ôn hòa, lạnh và các đới rừng, xavan, hoang mạc… (ii) Nhân tố phi địa đới chi phối bởi năng lượng kiến tạo trong lòng đất, hình thành các châu lục, các xứ núi, cao nguyên, đồng bằng và các miền địa chất - địa hình phân hóa chi tiết trong các xứ. Tại các khu vực nhỏ hơn có sự thống nhất của cả hai nhân tố, tạo nên các tổng thể lãnh thổ có sự đồng nhất cao.

Ở Việt Nam, số lượng các công trình nghiên cứu về phân vùng địa lý tự nhiên khá lớn, các tác giả tiêu biểu: Lê Bá Thảo, 1998, 2004; Vũ Tự Lập, 1975, 2002; Trần Ðình Gián và nnk, 1990… Các công trình này nghiên cứu đặc điểm đặc trưng của các thể tổng hợp tự nhiên và làm rõ các quy luật phân hóa không gian, các đặc điểm phát sinh, phát triển của từng đối tượng và có ý nghĩa quan trọng cho các chiến lược phát triển quốc gia.

Trong các công trình có thể kể đến, đó là công trình của Vũ Tự Lập (1975, 2002), tác giả đã phân vùng địa lý tự nhiên Việt Nam thành 6 cấp phân vị:

- Vòng đai địa lý: Việt Nam nằm gọn trong Vòng đai địa lý Nội chí tuyến

- Ðới địa lý: Việt Nam có hai đới địa lý là Ðới rừng gió mùa chí tuyến (hay đới rừng gió mùa nhiệt đới) và Ðới rừng gió mùa á xích đạo.

- Ô địa lý: Việt Nam nằm trong Ðịa ô Gió mùa châu Á và được xác định trong Á địa ô Gió mùa Ðông Nam Á.

- Xứ địa lý: Việt Nam nằm ở nơi tiếp xúc với hai xứ địa lý tự nhiên là Xứ Hoa Nam-Bắc Việt Nam và Xứ Ðông Dương.

- Miền địa lý: Việt Nam có ba miền địa lý là Miền Bắc và Ðông Bắc Bắc Bộ; Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ và Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

- Khu địa lý: Việt Nam có các khu địa lý tự nhiên như sau: Khu Việt Bắc, Khu Ðông Bắc, Khu Ðồng bằng Bắc Bộ. Ba khu này nằm trong Miền địa lý tự nhiên Miền Bắc và Ðông Bắc Bắc Bộ: Khu Tây Bắc, Khu Bắc Trường Sơn, Khu đồng bằng Thanh-Nghệ-Tĩnh, Khu đồng bằng Bình-Trị-Thiên.

Bốn vùng này nằm trong miền địa lý tự nhiên Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ: Khu Nam Trường Sơn, Khu đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, Khu đồng bằng Nam Bộ, Khu Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long). Bốn khu này nằm trong miền địa lý Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ (theo Ðặng Duy Lợi và nnk, 2009).

Gần đây nhất, Lê Ðức An (2009) đã tổng kết tất cả các kết quả nghiên cứu và đề xuất hệ thống phân vùng sinh thái cảnh quan Việt Nam cho cả hai phần: lãnh thổ trên đất liền và trên biển. Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam (và vùng biển lân cận) thuộc 2 xứ được chia thành 4 miền, 15 khu và 47 vùng địa lý tự nhiên.



Phân vùng cảnh quan

Phân vùng cảnh quan - một dạng hệ thống hóa đặc biệt các đơn vị cảnh quan theo nguyên tắc phát sinh và đồng nhất tương đối thông qua việc gộp nhóm các cảnh quan cá thể vào trong một đơn vị lớn hơn với những tiêu chí và đặc điểm đặc trưng riêng, trong đó tính toàn vẹn lãnh thổ được xem là chỉ tiêu chính, còn mức độ tương đồng về chất của các đơn vị cá thể cảnh quan được xem là chỉ tiêu thứ yếu.



Cũng như phân vùng địa lý tự nhiên, phân vùng cảnh quan được sớm áp dụng vào các công trình nghiên cứu cụ thể ở Việt Nam với mục tiêu tìm ra các giải pháp khai thác, sử dụng hợp lý và tái tạo tài nguyên thiên nhiên của lãnh thổ ở các cấp khác nhau. Chẳng hạn: ở quy mô lãnh thổ cấp quốc gia, Phạm Hoàng Hải (2000) đã chia Việt Nam thành 4 cấp phân vị, bao gồm 1 đới - đới cảnh quan nhiệt ẩm, gió mùa; 2 phụ đới - phụ đới cảnh quan Bắc với các cảnh quan chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc của chế độ gió mùa mùa đông và phụ đới cảnh quan Nam, nhìn chung không chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ của gió mùa mùa đông bắc lạnh; 8 miền cảnh quan và 58 vùng cảnh quan.

Nguyễn Cao Huần và nnk (2010) nghiên cứu lãnh thổ Việt Nam và Lào bằng các công cụ Viễn thám và GIS, đã chia vùng lãnh thổ nghiên cứu thành 2 á đới, 6 miền và 25 á miền cảnh quan.



Trên đây là các công trình phân vùng tổng hợp, ngoài ra còn có phân vùng từng thành phần tự nhiên, như phân vùng địa mạo, phân vùng khí hậu, phân vùng thủy văn, phân vùng sinh thái… Các phân vùng chuyên ngành này là cơ sở và bổ sung cho nhau để tạo ra sự nhận thức đầy đủ và chính xác về môi trường tự nhiên.

Phân vùng sinh thái

Phân vùng sinh thái là việc phân tích các điều kiện tự nhiên, không gian môi trường, xác định các quy luật sinh thái đặc thù của hệ sinh thái của từng vùng, tiểu vùng từ đó phân chia ra thành các vùng có hệ sinh thái khác nhau. Dựa vào phân vùng sinh thái mà con người có thể hiểu được sự khác nhau giữa từng vùng để có kế hoạch, phương pháp phát triển kinh tế phù hợp mà vẫn giữ gìn sự tồn tại của hệ sinh thái đó nói riêng, cũng như sinh quyển của Trái Đất nói chung.

Năm 2001,WWF đã hoàn thành hệ thống phân loại phân vùng sinh thái toàn cầu. Hệ thống này bao gồm các đơn vị vùng tương đối lớn có những đặc điểm riêng về mặt địa lý, điều kiện khí hậu và có các quần thể tự nhiên đặc trưng. Vùng sinh thái phản ánh sự phân bố tự nhiên của loài và quần thể sinh vật trước khi có sự tác động của con người. Hệ thống bản đồ phân vùng sinh thái toàn cầu có rất nhiều ứng dụng trong các nghiên cứu về sinh thái và đa dạng sinh học: Cung cấp cơ sở về địa lý sinh học cho các chiến lược bảo tồn ở quy mô lớn; Cung cấp bản đồ làm cơ sở cho việc hoạch định các dự án bảo tồn ở mức toàn cầu và mức vùng; Cung cấp cơ sở khoa học về điều kiện tự nhiên của các vùng sinh thái bao gồm khí hậu, đất đai, thảm thực vật, động vật, tình trạng hiện tại và các mối nguy hại tác động tới hệ sinh thái tự nhiên.

Phân vùng sinh thái có vai trò hết sức quan trọng trong việc phân định địa lý tự nhiên, không gian môi trường, xác định các quy luật sinh thái đặc thù của từng vùng, tiểu vùng.

Những nghiên cứu về phân vùng sinh thái lãnh thổ Việt Nam có rất ít. Mai Đình Yên chia Việt Nam thành 10 vùng sinh thái (vùng núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng Nam Bộ, TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, ven biển và đảo) với 38 tiểu vùng sinh thái (Mai Đình Yên, 1994).

Phân vùng khí hậu

Tương tự các phân môn khác, phân vùng khí hậu ở Việt Nam đã được thực hiện từ rất sớm nhằm mục tiêu cơ bản là sử dụng hợp lý và phát huy những thuận lợi của tài nguyên khí hậu phục vụ cho phát triển kinh tế, đồng thời là cơ sở để giải quyết các xung đột về sử dụng tài nguyên khí hậu và phòng chống giảm thiểu thiên tai theo các nguyên tắc: khách quan, đồng nhất tương đối, phát sinh và cùng chung lãnh thổ. Trên cơ sở các chỉ tiêu về nền nhiệt ẩm, tai biến khí hậu… các tác giả đã phân chia khí hậu nước ta thành các vùng khác nhau tùy thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu. Một số công trình phân vùng khí hậu tiêu biểu, như:

Công trình nghiên cứu của Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc về khí hậu Việt Nam9, các tác giả đã phân chia lãnh thổ Việt Nam thành 2 miền khí hậu ứng với hai loại hình khí hậu nhiệt đới gió mùa. Miền khí hậu phía bắc có một mùa đông lạnh và một mùa hạ nóng, nhiều mưa với 5 khu vực và 9 vùng khí hậu, đó là: (i) Khu vực Đông Bắc, gồm 3 vùng khí hậu - vùng phía bắc, gồm Cao Bằng và một phần Bắc Thái; vùng phía nam, gồm Lạng Sơn và một phần Hà Bắc; vùng duyên hải Tiên Yên - Móng Cái; (ii) Khu vực trung tâm gồm đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi phía Bắc phân thành 2 vùng khí hậu: vùng núi phía bắc - giới hạn từ sườn phía đông của Hoàng Liên Sơn đến sườn phía tây của dãy Phía Bắc và vùng đồng bằng, chịu ảnh hưởng nhiều của biển; (iii) Khu vực khí hậu Tây Bắc, giới hạn ở sườn tây của Hoàng Liên Sơn; (iv) Khu vực Bắc Trung Bộ, gồm Thanh Hóa - Nghệ An với 2 vùng khí hậu, đó là: vùng khí hậu phía bắc (Thanh Hóa) và vùng khí hậu phía nam (Nghệ An); (v) Khu vực Hà Tĩnh - Quảng Trị. Miền khí hậu phía nam có một mùa khô và một mùa mưa đối lập, được chia thành 3 vùng khí hậu khác nhau: (i) vùng duyên hải Nam Trung Bộ; (ii) Vùng đồng bằng Nam Bộ; (iii) Vùng Tây Nguyên. Ranh giới của hai miền khí hậu ở khoảng vĩ độ 16-18oB.

Nguyễn Đức Ngữ và Phạm Trọng Hiệu10 cho rằng, sự phân vùng khí hậu dựa trên hai nhóm phân hóa khí hậu chủ yếu: (i) Phân hóa về tài nguyên nhiệt, chủ yếu là sự hạ thấp các trị số đặc trưng cho tài nguyên nhiệt mùa đông của miền Bắc bắt nguồn từ sự khác biệt quan trọng về cơ chế hoàn lưu, trước hết là tác động của hoàn lưu mùa đông đối với các vĩ độ phía Bắc; (ii) Phân hóa về tài nguyên ẩm, chủ yếu là sự khác biệt sâu sắc về mùa mưa, mùa ẩm giữa các khu vực duyên hải Trung Bộ với Bắc Bộ và Nam Bộ do ảnh hưởng của dãy Trường Sơn, sự lệch pha về mùa mưa giữa phía Tây Bắc Bộ với phía Đông Bắc Bộ do tác động của dãy Hoàng Liên Sơn, giữa vùng núi, trung du Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và giữa Tây Nguyên với Nam Bộ... do các điều kiện địa lý, trước hết là địa hình.

Việt Nam được chia thành 2 miền khí hậu và 7 vùng khí hậu: (1) Miền khí hậu Bắc (B) gồm 4 vùng khí hậu: Tây Bắc (BI), Đông Bắc (BII), Đồng bằng Bắc Bộ (BIII) và Bắc Trung Bộ (BIV); (2) Miền khí hậu Nam (N) gồm 3 vùng khí hậu: Nam Trung Bộ (NI), Tây Nguyên (NII) và Nam Bộ (NIII).

Tác giả Đặng Duy Lợi và Tôn Sơn trong nghiên cứu phân vùng khí hậu Nam Bộ cho rằng, Nam Bộ có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với đặc trưng là nền nhiệt độ cao và chế độ mưa ẩm phong phú. Nếu như chế độ nhiệt ở Nam Bộ khá ổn định và đồng nhất trên toàn vùng thì trong chế độ mưa, ẩm lại có sự phân hóa theo mùa và theo không gian rõ rệt. Kết quả của sự phân hóa này, phân chia khí hậu vùng Nam Bộ thành 2 á vùng với 6 tiểu vùng khí hậu. Cụ thể: Á vùng khí hậu Đông Nam Bộ gồm 3 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu Bình Phước, tiểu vùng khí hậu Bình Dương và tiểu vùng khí hậu Bà Rịa – Vũng Tàu; Á vùng khí hậu đồng bằng sông Cửu Long gồm 3 tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu Tiền Giang, tiểu vùng khí hậu Hậu Giang và tiểu vùng khí hậu Cà Mau. Ngoài ra, ở Nam Bộ còn có 2 tiểu vùng khí hậu phụ trên các đảo là tiểu vùng khí hậu Côn Đảo và tiểu vùng khí hậu Phú Quốc11.

Các công trình nghiên cứu phân vùng tự nhiên được xem là cơ sở quan trọng và là nền tảng khoa học cho các phân vùng kinh tế xã hội - cơ sở để nhà nước có kế hoạch tổ chức, lãnh đạo và quản lý kinh tế theo ngành kết hợp với theo vùng lãnh thổ, cũng như để phân bố lực lượng sản xuất một cách hợp lý nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất và chi phí sản xuất thấp nhất trong khai thác và sử dụng mọi tài nguyên của đất nước. Có thể kể đến một số loại phân vùng kinh tế tiêu biểu:

Phân vùng sinh thái nông nghiệp

Phân vùng sinh thái nông nghiệp là sự phân chia lãnh thổ thành các vùng sản xuất nông nghiệp khác nhau, dựa trên cơ sở các điều kiện sinh thái đất - nước - khí hậu khác nhau. Việt Nam đã hoàn thành việc phân vùng sinh thái nông nghiệp toàn lãnh thổ thành 7 vùng sinh thái nông nghiệp, bao gồm: Trung du và miền núi Bắc Bộ; đồng bằng sông Hồng; duyên hải Bắc Trung bộ; duyên hải Nam Trung bộ; Tây Nguyên; Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, Trung tâm Nghiên cứu sinh thái và Môi trường rừng đã tiến hành phân vùng sinh thái lâm nghiệp cho toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, có 8 vùng sinh thái lâm nghiệp.

Các kết quả nghiên cứu là cơ sở cho công tác quy hoạch, phát triển nông nghiệp ở các quy mô khác nhau. Phân vùng sinh thái nông nghiệp gắn kết rất chặt chẽ với phân vùng sinh thái lâm nghiệp và đôi khi đã được sử dụng cho quy hoạch phát triển lâm nghiệp. 8 vùng sinh thái lâm nghiệp chỉ khác 7 vùng sinh thái nông nghiệp là có thêm vùng Tây Bắc (Bắc Bộ).

Phân vùng kinh tế - xã hội

Theo quy định hiện hành, Vùng KT-XH là “một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các hoạt động KT-XH tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước. Đây là loại vùng phục vụ việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển KT-XH theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển KT-XH trên mỗi vùng của đất nước12.

Theo cách phân vùng kinh tế-xã hội (Nghị định 92/2006/NĐ-CP ngày 7/9/2006), nước ta bao gồm 6 vùng:

(1) Vùng Trung du- Miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên và Hoà Bình.

(2) Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố: Hà Nội( gồm cả Hà Tây), Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh.

(3) Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung gồm 14 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận.

(4) Vùng Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng (đôi khi Lâm Đồng được tính về vùng Đông Nam bộ).

(5) Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh.

(6) Vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh, thành phố: Thành phố Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.

Bên cạnh đó, năm 2014 trong công trình nghiên cứu của Cao Ngọc Lân đã bổ sung một tiêu chí vào quy định nêu trên, đó là “liền kề”. Theo tác giả, vùng KT-XH là một bộ phận đặc thù kinh tế lãnh thổ quốc gia gồm một số tỉnh, thành phố liền kề trực thuộc Trung ương có các hoạt động KT-XH tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước.

Từ những phân tích trên, đề tài nghiên cứu tiếp cận phân vùng kinh tế xã hội theo Nghị định 92/2006/NĐ-CP ngày 7/9/2006 và bổ sung tính “liền kề” của tác giả Cao Ngọc Lân, bởi:

- Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm của sự phát triển xã hội;

- Các số liệu thống kê tương đối đầy đủ;

- Tác động của BĐKH rõ rệt nhất và gây thiệt hại lớn nhất cũng là đối với các lĩnh vực của kinh tế - xã hội;

- Các giải pháp ứng phó với BĐKH, trước hết cũng là các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội;

- Sự liên kết vùng trước hết cũng là sự liên kết trong phát triển kinh tế - xã hội.

- Các vùng kinh tế - xã hội cũng được phân chia dựa trên nền tảng của sự phân hóa tự nhiên.

1.1.2. Liên kết vùng



1.1.2.1. Khái niệm về liên kết vùng

Theo nghĩa đơn giản liên kết chính là “phối hợp”, có nghĩa là tổ chức hoạt động cho hai hoặc nhiều cơ quan, tổ chức. Xét từ khía cạnh quản lý nhà nước, đó là một phương thức, một hình thức, một quy trình kết hợp hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức này thực hiện được đầy đủ, hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt được các lợi ích chung. Liên kết (phối hợp) tồn tại trong suốt quá trình quản lý, từ hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, đến việc tổ chức thực thi cơ chế, chính sách, pháp luật, ở đâu có quản lý thì ở đó có nhu cầu liên kết. Mục tiêu cuối cùng của liên kết là tạo ra sự thống nhất, đồng thuận, bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong quản lý.

Mỗi một vùng đều có một số đặc điểm chung, nổi trội so với các vùng khác. Trong quá trình phát triển, các nguồn lực về lao động, vốn, tài nguyên, khoa học kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý... của các địa phương cũng như của các vùng là có hạn. Vì vậy để phát triển, các địa phương không chỉ dựa vào các nguồn lực nội tại mà còn phải dựa vào các nguồn lực bên ngoài. Do đó, "phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực" hay nói cách khác, liên kết vùng là một phương châm trong chính sách phát triển góp phần phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực của các địa phương. Có thể nói trong bối cảnh toàn cầu hóa, liên kết là một trong những nhân tố quan trọng tạo sự thành công đối với phát triển vùng.



Liên kết vùng (regional linkage) được tạo ra bởi sự khác biệt địa phương giữa các vùng về các nguồn lực tự nhiên, chính sách, con người và các hoạt động phát triển... từ đó dẫn tới nhu cầu hình thành mối liên hệ giữa các vùng trở thành điều kiện quan trọng để hình thành kinh tế địa phương và là động lực cho những thay đổi về kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội.

Liên kết vùng được hiểu theo hai khía cạnh: (i) liên kết về không gian (theo dòng giao thông, dòng chảy vật chất, dòng thông tin…); và (ii) liên kết giữa các lĩnh vực (chẳng hạn sản xuất nông nghiệp và dịch vụ, xây dựng và môi trường,...).

Trên thế giới, liên kết vùng giúp hình thành đối thoại về chính sách nhằm đảm bảo sự kết hợp tốt giữa chính sách kinh tế vĩ mô với các đặc trưng của địa phương13. Tại Việt Nam, khái niệm này được sử dụng phổ biến trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển địa phương và Trung ương.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, quan hệ hợp tác ngày càng phát triển đã dẫn đến liên kết giữa các chủ thể (địa phương, vùng, quốc gia) khác nhau được mở rộng và đa dạng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.

Cơ sở để thực hiện liên kết vùng (hay địa phương) là lợi thế so sánh của từng vùng cụ thể. Lợi thế so sánh không chỉ ở trong các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên mà còn có các điều kiện công nghệ… tạo nên sự khác biệt giữa các vùng và do đó có thể thực hiện phân công lao động giữa các vùng, tạo nên tính chuyên môn hóa và cạnh tranh trên cơ sở lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh tuyệt đối của vùng. Trong điều kiện tự do di chuyển một cách tương đối lao động và vốn trong vùng thì lợi thế tuyệt đối sẽ không nằm ở chi phí nhân công và vốn rẻ mà ở các điều kiện tự nhiên (khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng, tài nguyên, vị trí địa lý…) và một số yếu tố khác như thể chế, cơ sở hạ tầng ưu việt hơn các vùng khác. Chính sự khác biệt trong lợi thế so sánh và phân công lao động tạo nên sự khác biệt giữa các địa phương và thúc đẩy sự liên kết địa phương trong phát triển vùng.

Từ những phân tích ở trên, liên kết vùng có thể được hiểu là sự thiết lập các mối quan hệ hợp tác giữa các địa phương, các vùng với không gian, thời gian nhất định. Với các mối quan hệ liên kết giữa các chủ thể nhất định và theo những thoả thuận đã được ký kết để sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực phát triển nhằm hướng tới sự phân bổ lợi ích hợp lý và cùng chia sẻ rủi ro, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao và phát triển bền vững.



Trong các hoạt động liên kết vùng, liên kết kinh tế được thể hiện rõ nhất. Liên kết kinh tế là “hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các chủ thể kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của các nhà nước. Chính mối quan hệ liên kết đã đưa đến cho các chủ thể kinh tế những cơ hội để nhận được những lợi ích lớn hơn, an toàn hơn.”14

Mục tiêu của liên kết kinh tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên kết; hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, hay giá cả cho từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ quyền lợi cũng như lợi ích của các bên.

Liên kết kinh tế trong giai đoạn hiện nay được diễn ra trên một phạm vi rộng lớn, ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Vì vậy, bên cạnh phát triển nội lực bên trong để tăng hiệu quả của sự phối hợp, thì việc đẩy mạnh liên kết những chủ thể kinh tế trong xã hội là một điều tất yếu.

Sự hợp tác giữa các địa phương trong việc xây dựng các quy hoạch cũng như hình thành các cơ chế, chính sách phát triển thống nhất thúc đẩy sự phát triển của toàn vùng, của từng địa phương là một trong những ví dụ điển hình về Liên kết kinh tế. Do đó, để đảm bảo sự thành công trong liên kết kinh tế, cần phải có một môi trường chính sách minh bạch, bình đẳng và đồng thuận giữa các bên tham gia liên kết trên cơ sở lợi thế so sánh và sự “tác động qua lại lẫn nhau” mang tính chất ổn định, lâu dài.

1.1.2.2. Các quan điểm tiếp cận về liên kết vùng

Hệ thống lý thuyết về liên kết vùng bắt đầu phát triển mạnh mẽ trên thế giới vào những năm 60 của thế kỷ XX. Một số lý thuyết quan trọng chủ đạo trong xây dựng chính sách vùng và liên kết vùng được sử dụng như:



(1) Lý thuyết về lợi thế so sánh

Lý thuyết lợi thế so sánh đã được David Ricardo (1817) cho rằng mỗi nước nên chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh (tương đối có hiệu quả hơn) và nhập khẩu sản phẩm mà nước đó không có lợi thế so sánh (tương đối không hiệu quả hơn). Lý thuyết lợi thế so sánh đã góp phần tạo ra những căn cứ về chuyên môn hóa và liên kết thương mại giữa các vùng nhằm phát huy những lợi thế so sánh mà vùng có được.



Dưới góc độ liên kết vùng, lợi thế so sánh có thể hiểu là bao gồm lợi thế so sánh tự nhiên và tự tạo. Lợi thế so sánh tự nhiên có từ các nguồn lực sẵn có như đất đai, tài nguyên, khoáng sản, lao động và nguồn vốn. Các cơ hội thị trường mở ra cũng có khả năng tạo ra những lợi thế mới. Lợi thế so sánh tự tạo được hình thành từ chính sách của chính phủ và của địa phương. Qua so sánh cơ hội và thuận lợi giữa các thế mạnh của từng vùng để lựa chọn được các mô hình liên kết trên cơ sở xây dựng cơ chế, chính sách liên kết vùng nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng vùng.

Những triết lý trong lý thuyết về lợi thế so sánh có vai trò rất tích cực trong việc áp dụng vào lý thuyết liên kết vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu.



(2) Lý thuyết lợi thế cạnh tranh

Năm 1990, Michael Porter đã phát triển và đưa ra lý thuyết về lợi thế cạnh tranh nhằm giải quyết một số nhược điểm của lợi thế so sánh. Lợi thế cạnh tranh là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan. Trong nền kinh tế toàn cầu hiện đại, sức cạnh tranh không còn bị giới hạn trong những quốc gia được thừa hưởng những điều kiện thuận lợi (tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, lãi suất…), mà các quốc gia lựa chọn sự thịnh vượng bằng cách xây dựng chính sách, luật pháp và thể chế dựa trên năng suất, nâng cao năng lực của người dân và đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng chuyên môn hóa cho phép nâng cao hiệu quả cạnh tranh.



Trên cơ sở các lý luận về lợi thế cạnh tranh, M. Porter đã tiếp cận chính sách phát triển vùng với mục tiêu nhằm tăng năng lực cạnh tranh của Vùng. Sự liên kết giữa các chủ thể nhằm tạo nên những lợi thế nhờ quy mô, giảm chi phí, nắm bắt thông tin chính xác, nâng cao kiến thức, kỹ năng, công nghệ thông qua lan tỏa kiến thức và tổ chức không gian hiệu quả. Nghiên cứu lý thuyết cạnh tranh cũng cho thấy không một vùng/quốc gia nào có thể cạnh tranh trong mọi lĩnh vực. Quá trình liên kết sẽ chuyển các hoạt động kém tranh cạnh sang các vùng/ nước có cạnh tranh hơn là hoàn toàn phù hợp đối với sự thịnh vượng của các vùng/quốc gia.

Tiếp cận Lý thuyết lợi thế cạnh tranh, chúng ta có thể xác định những lợi thế cạnh tranh của vùng và từ đó có thể phát hiện ra những tiềm năng chưa được khai thác, những yếu tố cản trở tác động của lợi thế cạnh tranh và đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm liên kết, phối hợp để nâng cao và duy trì lợi thế cạnh tranh vùng.



(3) Lý thuyết Địa kinh tế mới của Paul Krugman

Paul Krugman, giáo sư kinh tế người Mỹ Đại học Princeton đã nhấn mạnh trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, liên kết phát triển là một xu thế tất yếu khách quan. Trong phát triển vùng sẽ có những vùng là hạt nhân phát triển, “cực tăng trưởng”, những vùng này sẽ có tác dụng lan toả và có vai trò dẫn dắt các vùng kém hơn phát triển. Khi xây dựng chính sách phát triển vùng cần phân tích các điểm mạnh, điểm yếu của nội vùng và những yếu tố bên ngoài vùng như cơ hội và nguy cơ.

Địa kinh tế mới khẳng định: hầu hết các hoạt động kinh tế đều tập trung về phương diện địa lý. Sự tập trung hoạt động của kinh tế vùng có thể tạo thêm các khu vực kinh tế ngoại sinh thuần tuý thông qua các cơ chế lan toả thông tin. Địa kinh tế mới được người Trung Quốc ứng dụng rất phổ biến trong việc xây dựng các vùng, các đặc khu kinh tế của họ.

(4) Lý thuyết Cluster

Có thể hiểu một cách đơn giản Cụm liên kết (cluster- theo nghĩa trong lĩnh vực kinh tế) hay còn gọi là cụm ngành, là sự tập trung trên một khu vực địa lý các doanh nghiệp, các cơ sở phụ trợ, các cơ sở dịch vụ và các tổ chức mang tính hỗ trợ trong những ngành nhất định, chúng vừa cạnh tranh lẫn nhau, vừa hợp tác với nhau. Do tổng hợp tất cả các thành viên trong nhóm sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn là từng công ty hoặc từng đơn vị riêng lẻ thực hiện, cụm liên kết sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp. Điểm quan trọng nhất của cụm liên kết là giúp tăng năng suất và thúc đẩy sáng kiến. Khi một ngành vượt quá quy mô một vùng hay cần các ngành bổ sung rộng lớn hơn thì cần phải liên kết mang tính chất liên vùng, liên ngành nhằm bổ sung cho nhau để tăng năng lực cạnh tranh.

Việc tiếp cận Lý thuyết Cluster là nhằm nghiên cứu để tận dụng tối đa các trung tâm phát triển nội vùng và cận vùng; hoạch định và ban hành các chính sách hợp lý nhằm khai thác triệt để tính liên kết vùng để khắc phục tình trạng manh mún, rời rạc, nhỏ lẻ trong phát triển của từng địa phương vừa gây lãng phí nguồn lực và hiệu quả kinh tế không cao, đồng thời để tăng sức cạnh tranh của vùng, ngành với các khu vực, ngành khác. Mặt khác, nghiên cứu về Cluster nhằm cung cấp một cơ sở nền tảng để các nhà hoạch định hiểu được bản chất và hoạt động của các cluster trong nền kinh tế địa phương cũng như hoạt động kinh tế trong khu vực, tìm hướng đi kết hợp giữa các “cluster xanh” nhằm góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững. Từ đó vận dụng tiến trình phân tích cluster cho việc nhận diện các cluster cạnh tranh, xây dựng các liên kết và chính sách hỗ trợ cluster cạnh tranh nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, khu vực.

Trong quá trình phát triển, các nguồn lực về lao động, vốn, tài nguyên, khoa học kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý, … của các địa phương cũng như của các vùng là có hạn. Vì vậy, để phát triển các địa phương không chỉ dựa vào nguồn nội lực mà còn phải dựa vào nguồn lực bên ngoài. Do đó, liên kết vùng là một “triết lý” mang tính chủ thuyết trong chính sách phát triển góp phần phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực của các địa phương.



1.1.2.3. Các hình thức liên kết vùng

Liên kết vùng bao gồm liên kết ngoại vùng và liên kết nội vùng. Theo đó, liên kết vùng có thể phân chia:

(1) Liên kết ở cấp độ vĩ mô: Liên kết khu vực và quốc tế; liên kết giữa trung ương và vùng lãnh thổ; Liên kết hệ thống chính quyền cấp tỉnh, huyện trong vùng; Liên kết giữa các sở, ban ngành trong vùng;

(2) Liên kết ở cấp độ vi mô: Liên kết giữa các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh..); Liên kết giữa các nhóm cộng đồng, dân cư; …



1.1.2.4. Các nội dung liên kết vùng

Các lĩnh vực trong liên kết vùng có thể được xác định như sau: (1) Liên kết về mặt chính sách và quản trị; (2) Liên kết về xây dựng quy hoạch, kế hoạch; (3) Liên kết về xây dựng hạ tầng; (4) Liên kết doanh nghiệp; (5) Liên kết công nghiệp - nông nghiệp; (6) Liên kết khu vực nông thôn - đô thị; (7) Liên kết về nguồn nhân lực; (8) Liên kết để bảo vệ tài nguyên và môi trường; (9) Liên kết cùng phân bổ lợi ích và chia sẻ rủi ro; (10) Liên kết về nguồn lực tài chính; (11) Liên kết về phát triển du lịch…



1.1.2.5. Vai trò của liên kết vùng

Liên kết vùng là nhu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay, vì:

- Các vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội không còn là vấn đề của từng địa phương. Vấn đề của một địa phương, một vùng có tác động xấu tới quá trình phát triển kinh tế- xã hội không chỉ trong phạm vi địa phương/vùng đó mà còn có tác động lên các địa phương khác/vùng khác.

- Liên kết vùng giúp các địa phương giảm tải được các chi phí và tiêu hao nguồn lực, giúp các địa phương tập trung nguồn lực để thực hiện các công trình, dự án lớn mà từng địa phương riêng lẻ không thực hiện được.

- Chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm giữa các địa phương và các ngành. Trên thực tế đã từng xảy ra trường hợp, các doanh nghiệp, địa phương chối bỏ trách nhiệm trong việc gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế, đời sống của cộng đồng dân cư.

- Liên kết vùng còn giúp cho việc quản lý một cách toàn diện, hệ thống. Hiện nay, các văn bản pháp luật của từng ngành còn thiếu sự liên kết, vì vậy, trách nhiệm của các ngành, các địa phương còn chưa rõ ràng, thiếu minh bạch.

1.2. Cơ sở lý luận về ứng phó với biến đổi khí hậu

1.2.1. Khái quát về biến đổi khí hậu



1.2.1.1. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu

Theo Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, tháng 7 năm 2008, định nghĩa: “BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ, hàng trăm năm hoặc dài hơn. BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất”.

Biến đổi khí hậu có những biểu hiện/dấu hiệu chính như sau:

- Nhiệt độ trung bình, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng lên;

- Lượng mưa thay đổi;

- Mực nước biển dâng lên do sự tan băng ở các Cực và các đỉnh núi cao;

- Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng nóng, giá rét, bão, lũ lụt, hạn hán...) xảy ra với tần suất, độ bất thường và cường độ tăng lên.

Theo số liệu quan trắc của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy biến đổi của các yếu tố khí hậu ở Việt Nam có những điểm đáng lưu ý sau:



  • Xu thế biến đổi của nhiệt độ:

- Nhiệt độ trung bình năm tăng lên khoảng 0,5-0,7OC (kể từ năm 1958 đến năm 2007). Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam.

- Thập kỷ 1991-2000 là thập kỷ nóng nhất.

- Số ngày nắng nóng tăng lên trong các thập kỷ gần đây ở vùng Tây Bắc, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ.

- Số ngày rét đậm, rét hại giảm đi trong thập kỷ 1991-2000.



  • Xu thế biến đổi của lượng mưa:

- Lượng mưa biến đổi không nhất quán giữa các nơi: ở Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, lượng mưa trung bình năm của các thập kỷ sau 1970 có xu thế giảm so với trước đó. Ở các tỉnh Nam Trung Bộ, lượng mưa có xu thế tăng, nhất là thập kỷ 1991 - 2000.

- Số ngày mưa phùn giảm rõ rệt trong 2 thập kỷ gần đây. Số ngày mưa phùn ở miền Bắc giảm một nửa, từ trung bình 30 ngày mỗi năm trong thập kỷ 1961 - 1970 xuống còn 15 ngày mỗi năm trong thập kỷ 1991 - 2000;

- Số ngày và số đợt mưa lớn và mưa lớn trái mùa tăng lên ở nhiều nơi, rõ nhất ở Hà Nội.

- Dự tính đến cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm ở các vùng đều tăng, 7-10% ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, 2-5% ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980-1999. Đáng chú ý là lượng mưa trong mùa mưa tăng rất nhiều. Trái lại, lượng mưa mùa khô giảm, trong đó giảm nhiều nhất ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ (15 - 20%).



  • Xu thế biến đổi của mực nước biển trung bình

- Mực nước biển trung bình có xu thế tăng 2,5 - 3,0 cm/1 thập kỷ trong khoảng 50 năm qua. Giai đoạn 1993 - 2008, mực nước biển trung bình ở Việt Nam tăng khoảng 3 mm/năm. Trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển tại Trạm hải văn Hòn Dấu dâng lên khoảng 20 cm.

  Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do sự đóng góp của các thành phần chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: giãn nở nhiệt độ của đại dương, các sông băng trên núi và các nguồn chứa nước trên đất liền.



  • Bão

Vào những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn. Trước đây, cứ 100 cơn bão hay áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Việt Nam thì chỉ có 0,75% vào ĐBSCL, trong 30 năm gần đây, con số đó đã lên tới 2,85%15.

1.2.1.2. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu

a. Nguyên nhân biến đổi khí hậu trong thời kỳ địa chất

Khí hậu trái đất đã trải qua nhiều lần biến đổi. Khoảng 45 triệu năm về trước, một thiên thạch khổng lồ va vào trái đất làm bề mặt trái đất bị bao phủ một lượng khói bụi dày đặc, và trái đất bị chìm trong bóng tối một thời gian dài do không có ánh sáng mặt trời. Trái đất bị lạnh đi và loài khủng long bị tiêu diệt. Khoảng 2 triệu năm trước công nguyên, trái đất cũng trải qua nhiều lần băng hà lạnh lẽo và gian băng ấm áp, với chu kỳ mỗi lần khoảng 100 nghìn năm. Chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa kỳ băng hà và gian băng khoảng 5 - 70C, riêng ở vùng cực khoảng 10 - 150C. Thời kỳ gian băng khoảng 125 nghìn đến 130 nghìn năm trước công nguyên, nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất cao hơn thời kỳ tiền công nghiệp (1750) khoảng 20C và mực nước biển trung bình cao hơn trong thế kỷ 20 từ 4 đến 6 m. Thời kỳ băng hà cuối cùng kết thúc cách đây khoảng 10 -15 nghìn năm. Sau thời kỳ này, trái đất ấm dần lên, các sinh vật mới dần dần phát triển. Sa mạc Sahara trong khoảng 12 nghìn đến 4 nghìn năm trước công nguyên có cây cỏ và chim muông. Khoảng 5 - 6 nghìn năm trước công nguyên, nhiệt độ trái đất cao hơn hiện nay.

Biến đổi khí hậu xảy ra trong thời kỳ địa chất đều do các nguyên nhân tự nhiên, trong đó chủ yếu là sự chuyển động của trái đất, các vụ phun trào của núi lửa và hoạt động của mặt trời.

b. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu trong thời kỳ hiện đại

Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu hiện nay, tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là do hoạt động của con người. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính, làm tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của Trái Đất.

Nguyên nhân hàm lượng khí nhà kính tăng lên là do việc sử dụng nguyên liệu hóa thạch trong các lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ năng lượng của thế giới tăng hơn 30 lần từ năm 1750. Bên cạnh đó, sự suy giảm rừng nhiệt đới, việc sản xuất và sử dụng hóa chất, hoạt động sản xuất nông nghiệp và các hoạt động khác như đốt, chôn lấp rác thải,... cũng làm cho hàm lượng khí nhà kính tăng lên.

Trên thực tế, sự tăng lên của nhiệt độ trung bình toàn cầu quan trắc được trong thời gian qua đã bị triệt tiêu một phần, nói cách khác, sự tăng lên của riêng hàm lượng khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển làm trái đất nóng lên nhiều hơn so với những gì đã quan trắc được và điều đó càng khẳng định sự biến đổi khí hậu hiện nay là do các hoạt động của con người mà không thể được giải thích là do các quá trình tự nhiên.



c. Nguyên nhân của nước biển dâng

Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC), “sự nóng lên của hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc ghi nhận sự tăng lên của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước biển trung bình toàn cầu, sự tan chảy nhanh của lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu”.

Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do có sự đóng góp của các thành phần chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: Giãn nở nhiệt của các đại dương, các sông băng trên núi, băng Greenland, băng Nam cực và các nguồn chứa nước trên đất liền.

Như vậy, biến đổi khí hậu do hai nguyên nhân: nguyên nhân tự nhiên và nguyên nhân do con người (nhân tác). BĐKH xảy ra trong quá khứ là do các nguyên nhân tự nhiên nhưng BĐKH hiện nay, chủ yếu là do con người gây ra.

1.2.2. Tác động của biến đổi khí hậu



1.2.2.1. Tác động của BĐKH đến hệ thống kinh tế - xã hội

(a) Ảnh hưởng đến nông nghiệp nông thôn

Ở Việt Nam, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, chiếm khoảng 52,6 % lực lượng lao động và 22 % GDP của cả nước (2012)16. Hoạt động sản xuất của ngành đang chuyển nhanh từ tự cung, tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hóa. Cho nên phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên như: đất đai, nước, khí hậu và thủy văn, nhiệt độ, độ ẩm... Biến đổi khí hậu trong thời gian qua đã tác động xấu đến ngành nông nghiệp Việt Nam.



* Tác động đến an ninh lương thực quốc gia

Việc gìn giữ đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với đất trồng lúa là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong tình hình thế giới đang khủng khoảng thiếu lương thực có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt. Tuy nhiên, dự báo đến năm 2020 dân số nước ta sẽ đạt khoảng 120 triệu người cùng với tốc độ đô thị hóa cao, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan, nước biển dâng thì mục tiêu này đang bị đe dọa.

Qua số liệu thống kê cho thấy trong giai đoạn 2010-2014, thiên tai và biến đổi khí hậu đã làm cho 937.898 ha lúa bị ngập úng, năm thiệt hại nặng nhất là năm 2012 với 248.768 ha. Ngoài ra, diện tích hoa màu bị ngập úng, cây công nghiệp bị mất trắng và rất nhiều gia súc, gia cầm bị chết (Bảng 1.1).

Bảng 1.1. Thiệt hại nông nghiệp trong giai đoạn 2010-2014



STT

Hạng mục

Đơn vị

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

1

Tổng diện tích lúa bị úng, ngập

Ha

157.696

248.768

223.188

129.347

178.899




-Thiệt hại nặng

Ha

2.507

54.367

-

-

-




Diện tích mất trắng

Ha

9.706

17.349

32.865




20.172

2

Tổng diện tích hoa mầu bị ngập

Ha

150.520

101.620

185.195

216.322

51.165




- Thiệt hại nặng

Ha

121

1.208

-

-

-




- Diện tích mất trắng

Ha

6

4.832

80.634

-

-

3

Mạ bị ngập

Kg

1.216

3.135.402

-

-

-




-Diện tích mất trắng

Ha

13

1.151

-

133

22

4

Lương thực ướt, mất

Tấn

48.558

55.958

-

-

-

5

Giống ướt, mất

Tấn

4.014

61.214

28

-

-

6

DT cây công nghiệp bị mất trắng

Ha

319

2.030

19.461

46.543

-

7

DT cây công nghiệp hư hại

Ha

1.634

65.516

7.541

35.942

35.206

8

Diện tích mía bị hư hại

Ha

8.990

3.195

-

-

-

9

DT Rừng trồng bị hư hại

Ha

729

74

387

-

-

10

Cây đổ

Cây

506.328

62.580

-

-

-

11

DT cây ăn quả hư hại

Ha

2.409

72.579

4.742

12.794

-




Trong đó đã bị chết

Ha

3

6.770

4.742

-

-

12

Trâu bò chết

Con

4.567

3.054

250

18.035

512

13

Lợn chết

Con

32.555

4.992

13.791

28.244

3.591

14

Gia cầm chết

Con

767.782

156.343

477.842

1.166.901

48.636

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2014 và tính toán của tác giả

* Tác động đến nuôi trồng thu sản

Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, diện tích vùng đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km2, đây là các điều kiện tiềm năng để phát triển khai thác thủy, hải sản. Có thể nói, trong số những lợi ích mà biển mang lại, thì nguồn lợi thuỷ, hải sản chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Trong thời gian qua BĐKH đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế ở các vùng ven biển Việt Nam, trong đó có ngành nuôi trồng thuỷ sản. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới ngành thủy sản thể hiện ở những mặt sau:

Thứ nhất, sự tăng nhiệt độ đã ảnh hưởng xấu đến nuôi trồng thuỷ sản: Nhiệt đđóng vai trò quan trng trong quá trình sinh trưng và phát triển ca sinh vt nói chung các loài nuôi trng thy sản nói riêng. Mặt khác, thay đi nhiệt đ còn điều kiện phát sinh ca nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho các loài nuôi. Nhiệt đ tăng cao làm cho sc khe ca các loài nuôi b xu đi, là điều kiện thun li cho s phát triển ca các loài vi sinh vật gây hại.

Thứ hai, bão, lũ lụt và áp thấp nhiệt đới hình thành trên biển đông gây thiệt hại nặng nề cho hoạt động đánh bắt thuỷ sản:

Bên cạnh đó, thiên tai do mưa, bão gây ra thiệt hại đối với người và tài sản không nhỏ đặc biệt đối với ngành thủy sản.



* Tác động đến cơ sở hạ tầng nông thôn

- Hệ thống đê biển: mực nước biển dâng lên làm hệ thống đê biển không thể chống chọi được nước biển dâng do bão như thiết kế dẫn đến nguy cơ vỡ đê trong các trận bão lớn. Ngoài ra, do mực nước biển dâng cao, chế độ lực của sóng và dòng chảy ven bờ sẽ có những thay đổi gây xói lở bờ và hệ thống đê biển, vấn đề quản lý bảo vệ đê biển sẽ phải đối mặt với những tình huống hết sức phức tạp.

- Hệ thống đê sông, đê bao và bờ bao: mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra biển giảm, kéo theo mực nước các con sông trong nội địa dâng lên, kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn do hậu quả của các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ làm cho đỉnh lũ tăng lên, uy hiếp sự an toàn của các tuyến đê sông ở các tỉnh phía bắc, đê bao và bờ bao tại các tỉnh phía Nam.

- Các công trình tiêu nước vùng ven biển: các hệ thống tiêu nước vùng ven biển hiện nay hầu hết đều là các hệ thống tiêu tự chảy. Khi mực nước biển dâng lên việc tiêu tự chảy sẽ hết sức khó khăn, đặc biệt là vào các thời gian triều cường, gây ngập úng tại nhiều khu vực.

- Các công trình tưới và cấp nước: Mực nước biển dâng làm cho mặn xâm nhập sâu vào nội đồng, các tầng nước dưới đất vùng ven biển cũng có nguy cơ bị nhiễm mặn gây khó khăn cho công tác lấy nước phục vụ sản xuất.

- An toàn hồ đập: cùng với sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, dòng chảy lũ đến các công trình sẽ gia tăng đột biến, nhiều khi vượt quá thông số thiết kế làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an toàn công trình.



(b) Tác động đến hệ thống giao thông, thủy lợi

Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông, cấp điện, cấp thoát nước, thu gom xử lý chất thải rắn và hệ thống nhà ở, công trình đô thị. Các hệ thống này hiện tại không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của các đô thị Việt Nam. Cơ sở hạ tầng được thiết kế theo các điều kiện môi trường bình thường (không tính đến tác động của BĐKH và nước biển dâng) sẽ không đủ an toàn và khả năng đáp ứng yêu cầu sử dụng trong tương lai ở Việt Nam (Trần Thị Lan Anh, 2012).

Các hiện tượng thời tiết cực đoan như gió lốc, sét, mưa lớn gây hư hỏng hệ thống truyền tải điện, chiếu sáng đô thị và trạm điện, gây mất điện và tăng chi phí sản xuất và sửa chữa thiết bị. Nhiệt độ tăng, khô hạn, nắng nóng dẫn đến tăng nhu cầu sử dụng điện, gây quá tải, hư hỏng thiết bị cấp điện, giảm hiệu suất phát điện của nhà máy nhiệt điện và gây thiếu nước cho các hệ thống làm mát của nhà máy điện. BĐKH làm thay đổi chế độ và lượng mưa, chu kỳ thuỷ văn và dòng chảy sông, làm thay đổi sản lượng phát điện của các nhà máy thủy điện. Hạn hán cũng làm cho nhiều hồ chứa thủy điện lưu trữ lượng nước thấp hơn so với thiết kế của chúng làm ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất điện. Nắng nóng làm tăng nhu cầu sử dụng nước, năng lượng tạo thêm sức ép tới cơ sở hạ tầng liên quan.

Hệ thống giao thông nước ta rất dễ bị tổn thương với tác động của BĐKH. Trong 5 năm, từ 2001 đến 2005, thiên tai và biến đổi khí hậu làm ngành giao thông tổn thất 2.571 tỷ đồng. Nhiều tuyến giao thông huyết mạch của Việt Nam thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng của mùa lũ như quốc lộ 1A, 14, 19, đường Hồ Chí Minh và hàng loạt tuyến quốc lộ khu vực Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên. Hệ thống đường bộ ở các khu vực miền núi Tây Bắc thường xuyên bị phá hủy bởi trượt lở khi mưa lớn (Đỗ Minh Đức - Doãn Minh Tâm, 2009). Các công trình giao thông đường bộ, đường sắt ở ĐBSH và ĐBSCL, duyên hải miền Trung thường bị ngập, hư hỏng bởi lũ và triều cường.

Hệ thống nhà ở và công trình công cộng (công sở, trường học, bệnh viện) trong các đô thị cũng chịu tác động mạnh của BĐKH theo vị trí địa lý vùng miền. Một nghịch lý là khu vực bị tác động nhiều nhất của các cực đoan khí hậu và nước biển dâng là ĐBSCL lại là vùng có tỷ lệ nhà kiên cố thấp nhất. Những khu vực có nhiều nhà thiếu kiên cố và diện tích nhỏ, các công trình công cộng, bệnh viện, trường học thiếu kiên cố sẽ làm giảm khả năng thích ứng với BĐKH, dễ bị phá hủy khi đối mặt với mưa bão, lốc tố và bão kết hợp với nước biển dâng. Những công trình chịu ảnh hưởng của nước mặn vùng ven biển có nguy cơ suy giảm nhanh về chất lượng. Khi các công trình công cộng và nhà ở bị phá hủy kéo theo thiệt hại nghiêm trọng về người, tài sản và tăng chi phí sửa chữa, xây dựng lại công trình.

(c) Tác động đến du lịch

Việt Nam hiện nằm trong nhóm 5 điểm đến hàng đầu khu vực ASEAN và 100 điểm đến hấp dẫn của du lịch thế giới. Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và du lịch nhân văn phong phú và hấp dẫn, có thể phát triển các loại hình du lịch như du lịch danh lam thắng cảnh, du lịch sinh thái, du lịch lịch sử, du lịch mạo hiểm, du lịch môi trường, du lịch cộng đồng, du lịch bền vững, du lịch xanh và thậm chí là du lịch thiên tai.

Du lịch là ngành kinh tế dễ bị tổn thương với môi trường, hầu hết các điểm du lịch của Việt Nam đều bị tổn thương bởi tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan và nước biển dâng. Bên cạnh một số tác động tích cực như kéo dài thời gian mùa du lịch do giảm số ngày rét đậm, rét hại thì hầu hết các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan đều có ảnh hưởng xấu đến hoạt động du lịch - dịch vụ. Các điểm du lịch và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch có khả năng bị ngập, bị xói lở, suy thoái, bồi lấp thậm chí bị phá hủy do mưa bão, lốc tố và nước biển dâng. Nhiệt độ tăng có thể tăng nguy cơ cháy, gây hư hỏng, xuống cấp công trình, tăng các chi phí cho hệ thống làm mát, chi phí cho thực phẩm, nước sinh hoạt và chi phí bảo hiểm vì nguy cơ tai nạn tiềm ẩn của khách. Mưa kéo dài làm công trình dễ bị nấm mốc, làm giảm giá trị di tích.

Mưa bão kết hợp triều cường và nước biển dâng xâm thực sâu vào đất liền có thể làm hư hỏng, giảm diện tích thậm chí biến mất các bãi tắm ven biển hoặc bào mòn, phá hủy kết cấu của công trình di tích ven biển cũng hư hệ thống hạ tầng du lịch. Các bãi biển ở Đồ Sơn bị xói lở thu hẹp chiều rộng 0,36 - 0,45 m/năm và dự kiến mất 15 - 40 diện tích bề ngang trong 50 năm tới (Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hải Phòng, 2012). BĐKH cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động lữ hành, đến các chương trình du lịch, tăng thời gian, tăng chi phí khi phải thay đổi lịch trình hoặc phải hủy chương trình do thiên tai bất thường. Đặc biệt, khi các phương tiện giao thông như: tàu hỏa, máy bay không hoạt động được làm du khách bị kẹt tại các điểm xảy ra thiên tai gây nhiều bất lợi cho hoạt động du lịch. Hệ thống du lịch tàu biển cũng bị ảnh hưởng lớn khi thiên tai do không cập bến được theo đúng lịch trình, cảng biển hư hại không đáp ứng đủ điều kiện hoạt động.

Ngành du lịch đóng góp rất lớn cho nền kinh tế quốc gia và thu hút lực lượng lao động lớn nên các điểm du lịch bị hủy hoại do thiên tai cũng làm giảm thu nhập, thậm chí người lao động mất việc làm. Các cực đoan khí hậu cũng có thể làm cư dân địa phương gặp khó khăn trong cư trú và sinh kế buộc phải di dân kéo theo sự biến dạng, pha trộn, thậm chí mai một các đặc trưng văn hóa phi vật thể tại các điểm du lịch. Khi điểm du lịch bị ngập, bị biến dạng, bị suy thoái đa dạng sinh học hoặc bị ô nhiễm môi trường sẽ làm giảm tính hấp dẫn, ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn của du khách, giảm sức thu hút khách du lịch và gây khó khăn cho phát triển du lịch.

Tác động của BĐKH đối với ngành du lịch Việt Nam càng trở nên nghiêm trọng hơn khi hầu hết hệ thống đô thị ven biển định hướng phát triển ngành du lịch - dịch vụ là ngành kinh tế mũi nhọn chủ yếu cũng đang bị tổn thương bởi cực đoan khí hậu.17



1.2.2.2. Tác động về xã hội của biến đổi khí hậu

(a) Tác động đến nhóm xã hội dễ bị tổn thương

* Người nghèo: Người nghèo đang phải đối mặt với sự gia tăng liên tục của những nguy cơ và  tổn thương gắn liền với khí hậu, như: Đói nghèo và phát triển con người thấp; Chênh lệch trong phát triển con người; Thiếu cơ sở hạ tầng bảo vệ khí hậu; Tiếp cận hạn chế đến bảo hiểm. Những nguy cơ này được thể hiện cụ thể như:

- Sinh kế của người nghèo: Ngoài việc ảnh hưởng nặng nề tới vấn đề cư trú của người dân thì BĐKH đã gây một ảnh hưởng không nhỏ tới lao động sản xuất của người dân ở khu vực nông thôn- nơi có tỷ lệ người nghèo lớn nhất trong cả nước. Những tác động của biến đổi khí hậu lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, gia tăng đói nghèo do giảm cơ hội tạo thu nhập cho người nghèo ở khu vực này. Những tác động xấu của BĐKH còn làm giảm khả năng tiếp cận của người nghèo tới: nguồn nước, các dịch vụ xã hội (đặc biệt là dịch vụ chăm sóc sức khỏe), nhà cửa và cơ sở hạ tầng. Hạn chế nhất là việc tiếp cận nguồn vốn, áp dụng khoa học kỹ thuật. Một bộ phận không nhỏ người nghèo ở nước ta là đồng bào dân tộc thiểu số. Họ cư trú ở những địa hình phức tạp, cơ sở hạ tầng thấp kém, điều kiện đi lại và tiếp cận với các dịch vụ xã hội vô cùng hạn chế.

* Phụ nữ: Ở Việt Nam, phụ nữ đã và đang phải chịu những tác động tiêu cực do BĐKH. Nước biển dâng, những thay đổi về lượng mưa, hạn hán, ngập lụt… vô hình chung đã tạo ra sự khó khăn, vất vả và sự không công bằng tới đời sống của người phụ nữ. Những hậu quả mà BĐKH có thể gây ra cho phụ nữ thể hiện trong một số mặt sau:

- Chăm sóc và bảo vệ gia đình: phụ nữ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc nội trợ, sử dụng nước sinh hoạt, giáo dục con cái trước những ảnh hưởng xấu của thời tiết vì họ là người phải đảm đương và tham gia tích cực hơn trong công việc chăm nom nhà cửa; chăm sóc và bảo vệ các thành viên trong gia đình. Chính điều này đã làm hạn chế khả năng thích nghi của họ và gia tăng mức độ tổn thương của bản thân người phụ nữ và gia đình họ trước BĐKH.

- Lao động và việc làm: biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng những công việc mà người phụ nữ phải đảm nhận (sản xuất nông nghiệp, buôn bán…) do chồng phải di cư đi làm ăn xa nhà và gánh nặng của công việc gia đình sẽ dồn hết lên vai người phụ nữ. Cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên làm người phụ nữ dễ bị tổn thương hơn.



- Bình đẳng giới: phụ nữ chưa được bình đẳng trong việc ra quyết định và tiếp cận các hệ thống tài chính một cách chính thống; sở hữu đất đai; tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, cũng như giáo dục và tiếp cận thông tin… Tất cả những hạn chế này đặt trong tình hình BĐKH sẽ ảnh hưởng lớn tới lao động sản xuất, công việc gia đình và sẽ không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc của nhân loại mà còn làm giảm cơ hội được giải phóng phụ nữ và sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, khoảng cách giữa nam giới và nữ giới sẽ ngày càng lớn hơn.

Các nghiên cứu đã chứng minh rằng nhiều thiên tai xảy ra do biến đổi khí hậu đã dẫn đến tình trạng di cư tăng lên ở Việt Nam. Những phụ nữ di cư thường kiếm được việc làm ít hơn nam giới nhưng nếu họ ở lại thì các thành viên khác trong gia đình di cư có thể sẽ bị ảnh hưởng đặc biệt do họ phải gánh vác trách nhiệm của nam giới. Điều đáng nói di cư ngoại tỉnh tạm thời và lao động phi nông nghiệp tại địa phương như là các chiến lược để đối phó với thiên tai liên quan đến khí hậu ngày càng có khả năng gia tăng và trong nhiều trường hợp đây là các chiến lược của các thành viên nam giới trong hộ gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, di cư có tác động xã hội cho cả nhóm dân cư ở lại và trong bản thân những người di cư. Việc này có thể mang tính tích cực khi phụ nữ có khả năng thách thức những vai trò truyền thống và tăng vị thế của họ trong cộng đồng, nhưng lại thường có tính tiêu cực khi khối lượng công việc của phụ nữ gia tăng. Thực tế là, các thành viên nam giới trong gia đình làm việc xa nhà khi thiên tai tàn phá và phụ nữ buộc phải gánh vác hầu hết các hoạt động quản lý rủi ro thiên tai.

Ngoài công việc tham gia sản xuất, phụ nữ thường phải đảm nhiệm việc nội trợ, giáo dục con cái và lo thực phẩm cho gia đình. Thường những công việc này không tạo ra thu nhập nhưng chiếm một lượng thời gian và sức lực rất lớn của người phụ nữ. Tuy nhiên, không phải tất cả đều đánh giá đúng mức được sự đóng góp của người phụ nữ trong lao động sản xuất cũng như trong quản lý gia đình.

Hạn hán và lượng mưa thất thường buộc người phụ nữ phải làm việc vất vả hơn để đảm bảo thức ăn, nước uống và nhiên liệu cho cả gia đình. Chu trình nghèo khổ và bất bình đẳng này làm suy giảm nguồn vốn xã hội cần thiết để chống đỡ một cách hiệu quả với BĐKH. Sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ và thiếu coi trọng vấn đề bất bình đẳng giới đã cản trở sự phát triển, sức khoẻ, bình đẳng và hạnh phúc của nhân loại, đồng thời làm suy yếu khả năng phục hồi trước những biến đối của khí hậu và môi trường.

* Trẻ em: Những nạn nhân đầu tiên của biến đổi khí hậu, không ai khác, chính là trẻ em. Đối tượng này dễ bị tổn thương do nhu cầu về nước sạch, sức khỏe, trách nhiệm gia đình, kỹ năng sống và học vấn. Bất kể trực tiếp hay gián tiếp, trẻ em ở các độ tuổi và ở trong môi trường và hoàn cảnh sống khác nhau đều có nguy cơ chịu ảnh hưởng của BĐKH. Những thay đổi khí hậu đã và sẽ tiếp tục có những ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của trẻ em cũng như tới tất cả các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ liên quan tới trẻ em, bao gồm: sức khoẻ, sự tồn tại, giáo dục và bình đẳng giới. Những ảnh hưởng đó bao gồm:

- Giáo dục: mất tài sản (nhà cửa và trường học) và sự ảnh hưởng tới sinh kế của gia đình sẽ làm giảm các cơ hội được giáo dục đào tạo của trẻ em. Sau mỗi đợt thiên tai, lũ lụt trẻ em ở những khu vực bị ảnh hưởng đều phải mất một khoảng thời gian tạm ngừng công việc học hành tại trường lớp hoặc có thể mất hẳn cơ hội đến trường (do trường học bị hỏng hoặc biến mất sau thiên tai và phải chờ đợi để phục hồi hoặc xây mới, gia đình mất hoặc giảm khả năng kinh tế để cho con em đến trường). Không chỉ thế, trẻ em sẽ sớm phải tham gia lao động để giúp đỡ gia đình khắc phục những thiệt hại do thiên tai, bão lũ gây ra.

- Lao động: Trước tình trạng mất đất nông nghiệp và khó canh tác do biến đổi khí hậu ở nông thôn khiến cho trẻ em ở những khu vực này sẽ lâm vào tình trạng thiếu việc làm và phải tìm những cơ hội việc làm ở những thành phố lớn. Tuy nhiên, áp lực cuộc sống đô thị và sự khan hiếm việc làm, đặc biệt là với đối tượng lao động giản đơn sẽ đẩy các em vào những cuộc mưu sinh vô cùng khó khăn và tình trạng tham gia vào những công việc bất hợp pháp, tệ nạn xã hội là khó tránh khỏi, đặc biệt là ở các thành phố lớn - nơi lao động ngoại tỉnh tập trung đông nhất như: Hà Nội, Hải Phòng, Tp. Hồ Chí Minh…

(b) Tác động của biến đổi khí hậu đến sức khoẻ

Bão, sóng nhiệt, lũ lụt, hỏa hoạn và những thay đổi điều kiện sinh thái khác sẽ dẫn tới các thảm họa chết người, ốm đau, thương tích, suy dinh dưỡng và các dịch bệnh mới, nhất là các bệnh do vecto truyền có tỷ lệ tử vong cao18.

Theo đó, ở Việt Nam, những ảnh hưởng của BĐKH đến tình hình sức khỏe của người dân bao gồm:

- BĐKH làm gia tăng tần suất và quy mô các bệnh nhiệt đới trên người như: sốt rét, ký sinh trùng, tả, lỵ. Như vậy, sẽ làm nặng nề thêm chi phí chăm sóc sức khoẻ cho toàn xã hội, một vấn đề mà ngày nay Việt Nam còn chưa được giải quyết thoả đáng.

- BĐKH làm dẫn đến khả năng bùng phát các dịch bệnh truyền qua các vectơ như: sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản và một số bệnh virut khác vốn được coi là thịnh hành ở các vùng nóng ấm. Nhiệt độ tăng dẫn đến tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loài gây bệnh, vật truyền bệnh và vật chủ mang bệnh. Khi điều kiện khí hậu thay đổi dẫn đến sự thay đổi vùng phân bố của các hợp quần này - làm xuất hiện bệnh ở những vùng mới, gây hậu quả nghiêm trọng hơn.

- Ô nhiễm môi trường sau các trận lụt cũng là một tác nhân quan trọng làm gia tăng một số dịch bệnh như tiêu chảy, kiết lỵ, tả, thương hàn, giun chỉ, dịch hạch, sốt mò,… nguồn nước bị ô nhiễm nặng từ các nguồn gây ô nhiễm bị ngập: hệ thống nước thải, chất thải rắn, phân từ các nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi gia súc, xác động, thực vật chết thối rữa tràn và chảy theo lưu vực, và hậu quả là môi trường bị thay đổi và ô nhiễm nặng, là nguyên nhân bùng phát các dịch bệnh, nhất là các bệnh đường ruột và các bệnh lây theo nguồn nước khác bao gồm cả các bệnh của động vật, bệnh có ổ dịch tự nhiên, bệnh từ nơi khác đến.

- BĐKH tăng một số nguy cơ đối với người bệnh, thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. Nhiệt độ tăng, độ ẩm tăng cao làm gia tăng sức ép về nhiệt đối với cơ thể con người, nhất là người già và trẻ em, làm tăng bệnh tật, đặc biệt là các bệnh nhiệt đới, bệnh truyền nhiễm và các bệnh về đường hô hấp (bệnh hen suyễn, bệnh phổi, bệnh cúm…) thông qua sự phát triển của các loài vi khuẩn, các côn trùng và vật chủ mang bệnh, chế độ dinh dưỡng và vệ sinh môi trường suy giảm.

- BĐKH đã làm xuất hiện nhiều bệnh mới lạ và đang “toàn cầu hóa” nhiều loại bệnh trước đây chỉ khu trú trong một khu vực địa lý nhỏ. Thế giới hiện nay đã ghi nhận 30 căn bệnh mới xuất hiện trong 3 thập kỷ qua, sự bùng nổ bệnh mới chưa từng thấy kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp đưa con người sống tập trung tại các đô thị.

1.2.2.3. Tác động của BĐKH đến tài nguyên và môi trường

(a) Tác động đến tài nguyên và môi trường nước

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nguồn tài nguyên nước. Nguồn nước mặt khan hiếm trong mùa khô gây hạn hán và quá dư thừa trong mùa mưa gây lũ lụt. Nguồn nước ngầm bị suy giảm dẫn đến cạn kiệt do khai thác quá mức và thiếu nguồn bổ sung. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới lưu lượng dòng chảy qua các mùa. Ngoài ra, nước biển dâng cao còn làm thay đổi chất lượng nước, nguồn nước ngọt bị ảnh hưởng nước mặn sẽ chuyển thành nước lợ. Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là những vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Trong đó, nghiêm trọng nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, nước biển dâng cao hơn sẽ làm cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt trở thành vùng nước lợ, hàng triệu người sẽ có nguy cơ bị mất chỗ ở, từ đó làm gia tăng sức ép lên sự phát triển của các vùng lân cận, làm thay đổi chế độ thủy văn dòng chảy và gây áp lực đến 90% diện tích ngập nước. Xâm nhập mặn sâu vào nội địa, nhất là khi có hạn hán sẽ ảnh hưởng đến khả năng cấp nước ngọt, giảm chất lượng nước mặt và nước ngầm, ảnh hưởng đến việc cung cấp nước cho sinh hoạt và nông nghiệp. Xâm nhập mặn tăng lên sẽ ảnh hưởng đến các hệ sinh thái, làm mất môi trường sống của nhiều loài thủy sinh nước ngọt.

Vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường trong nông nghiệp và nông thôn đang chịu ảnh hưởng nhiều của BĐKH. Bên cạnh đó, khai thác nước sạch ngày càng khó khăn và chi phí nhiều hơn nhất là trong điều kiện ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng.

(b) Tác động đến tài nguyên và môi trường đất

- Sự mất đất nông nghiệp do nước biển dâng: Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 - 0,6 m sẽ có từ 100.000 - 200.000 ha đất bị ngập và làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ làm ngập khoảng từ 0,3 - 0,5 triệu ha đất tại đồng bằng sông Hồng và những năm lũ lớn khoảng 90% diện tích của đồng bằng sông Cửu Long bị ngập từ 4 - 5 tháng, vào mùa khô khoảng trên 70% diện tích bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn hơn 4‰. Ước tính Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trên tổng số hơn 4 triệu ha hiện nay.

- Hoang mạc hóa: BĐKH với xu thế nóng lên toàn cầu đã tác động đến thời tiết, khí hậu nước ta. Hạn hán là một trong những hiện tượng thiên tai xảy ra thường xuyên hàng năm ở nước ta, bắt nguồn từ sự thiếu hụt lượng mưa kéo dài liên tục và lượng bốc hơi lớn trong điều kiện nhiệt độ cao và độ ẩm thấp dẫn đến lượng dự trữ nước trong đất bị giảm sút nghiêm trọng, lượng nước từ nhiều sông, suối, ao hồ bị cạn kiệt. Cùng với tác động của hiện tượng El Nino đã làm cho hạn hán ngày càng khắc nghiệt, kết hợp với việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên (nhất là đất đai) không hợp lý làm cho đất bị thoái hoá và dẫn đến hoang mạc hoá.

- Gia tăng hiện tượng xói mòn, rửa trôi đất: BĐKH gây rối loạn chế độ mưa nắng, nguy cơ nắng nóng nhiều hơn, lượng mưa thay đổi, do vậy lượng dinh dưỡng trong đất sẽ mất nhiều hơn trong những đợt mưa kéo dài, hiện tượng xói mòn sẽ nhiều hơn do gió mạnh hơn, tình trạng cháy sẽ xảy ra phổ biến hơn tại các vùng đất khô cằn. Thời tiết nắng nóng và đất đai bị khô cằn sẽ làm giảm năng suất trồng trọt. Việt Nam có tổng diện tích đất tự nhiên 33,121 triệu ha, với khoảng 25 triệu ha đất dốc, chiếm hầu hết lãnh thổ miền núi và trung du, đặc biệt là Tây Bắc (92,8%) nên nguy cơ thoái hóa đất do xói mòn rửa trôi là rất lớn.

(c) Tác động đến tài nguyên rừng và đa dạng sinh học

Việt Nam có đa dạng sinh học (ĐDSH) cao, với hệ sinh thái (HST) phong phú. Tuy nhiên trong thời gian qua, do những nguyên nhân khác nhau, ĐDSH, các HST, đặc biệt là các HST rừng - HST có ĐDSH cao nhất bị suy thoái trầm trọng.

- Nước biển dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặn ven biển tác động xấu đến hệ sinh thái rừng tràm và rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở ĐBSCL.

- Nhiệt độ lượng bốc hơi tăng cùng với hạn hán kéo dài s làm thay đổi s phân bố và khả năng sinh trưởng của các loài thực vật động vật rừng. Nhiều loài cây nhiệt đới ưa sáng s di lên các độ cao hơn các loài cây á nhiệt đới sẽ mất dần. Số lượng quần thể các loài động thực vật rừng quý hiếm sẽ ngày càng suy kiệt nguy tuyệt chủng tăng. Nhiệt độ tăng và hạn hán kéo dài s làm tăng nguy cháy rừng, nhất là các rừng trên đất than bùn, vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí nhà kính, làm gia tăng BĐKH tạo điều kiện cho một số loài sâu bệnh hại rừng phát triển.

Trong vài thập kỷ qua, trung bình mỗi năm Việt Nam mất đi hàng chục nghìn ha rừng, trong đó mất rừng do cháy rừng khoảng 16.000ha/năm. Trong giai đoạn 2009-2013 có đến 8583 ha rừng bị cháy, trong đó có 2229 ha rừng tự nhiên.

1.2.3. Ứng phó với biến đổi khí hậu



1.2.3.1. Khái niệm ứng phó với BĐKH

Ứng phó với BĐKH (Response to climate change): là các hoạt động của con người nhằm thích ứng với BĐKH và giảm phát thải khí nhà kính (giảm nhẹ BĐKH).



Thích ứng với BĐKH (Adaptation to climate change): là sự điều chỉnh trong hệ thống tự nhiên hoặc nhân tạo để ứng phó với các tác nhân khí hậu hiện tại và tương lai, như làm giảm những thiệt hại hoặc tận dụng các cơ hội có lợi của BĐKH, đồng thời tạo cho con người hoặc cộng đồng có sự chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện tinh thần, vật chất, kỹ năng và tập quán, thói quen sinh sống, ổn định sinh kế để họ có thể "sống chung" với sự thay đổi do các yếu tố khí hậu gây nên. Nói một cách khác mục đích của thích ứng với BĐKH là giảm sự tổn thương, tăng cường năng lực đối phó, quản lý và giảm rủi ro do tác động của khí hậu tới cuộc sống cũng như sinh kế của người dân.

Giảm nhẹ BĐKH (Mitigation of climate change): là sự can thiệp của con người làm giảm nguồn và cải thiện bể chứa các khí nhà kính. Giảm nhẹ là việc giảm tốc độ của biến đổi khí hậu thông qua việc quản lý các tác nhân của nó (phát thải khí nhà kính từ quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, từ nông nghiệp, từ thay đổi sử dụng đất, từ sản xuất xi măng, v.v…).

Việc giảm nhẹ BĐKH cần được tập trung vào các hoạt động “đồng có lợi”, vừa giảm nhẹ được phát thải khí nhà kính vừa mang lợi ích kinh tế-xã hội. Giảm nhẹ BĐKH thể hiện sự tích cực của Việt Nam trong thực hiện trách nhiệm chung bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất. Giảm nhẹ BĐKH cũng là điều kiện để tiếp nhận hỗ trợ quốc tế về tài chính và chuyển giao công nghệ tiên tiến, đây cũng là cơ hội để đổi mới công nghệ trong nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và tính cạnh tranh trên trường quốc tế. Các hoạt động giảm nhẹ BĐKH cũng có nhiều khả năng hỗ trợ cho việc thích ứng với BĐKH, ví dụ: việc trồng rừng có tác dụng làm giảm hấp thu khí nhà kính và cũng có tác dụng rất tốt trong phòng chống thiên tai.

Каталог: lib -> ckfinder -> files
files -> THỐng kê CÁC ĐƠn vị do sở khoa học và CÔng nghệ CÁc tỉNH, thành phố kiểm tra năM 2014
files -> THỐng kê CÁC ĐƠn vị do sở khoa học và CÔng nghệ CÁc tỉNH, thành phố thanh tra năM 2014
files -> THỦ TƯỚng chính phủ Số: 1489
files -> Ủy ban nhân dân tỉnh bắc giang
files -> VĂn phòng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> BỘ lao đỘng thưƠng binh và XÃ HỘi cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> THỦ TƯỚng chính phủ Số: 08/2011
files -> THỦ TƯỚng chính phủ Số: 705
files -> Hướng dẫn lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xử lý, lưu giữ chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng tại kho lưu giữ chất thải phóng xạ quốc gia hoặc cơ sở làm dịch vụ xử lý, lưu giữ chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng

tải về 5.97 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương