HỘi luật gia việt nam ban soạn thảO



tải về 293.22 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích293.22 Kb.
#25536

HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM

BAN SOẠN THẢO

LUẬT TRƯNG CẦU Ý DÂN




CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc



Hà Nội, ngày 27 tháng 3 năm 2015

BẢN THUYẾT MINH CHI TIẾT

DỰ THẢO LUẬT TRƯNG CẦU Ý DÂN

Thực hiện Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2015, Nghị quyết số 780/NQ-UBTVQH13 ngày 25 tháng 6 năm 2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 13 về việc triển khai Nghị quyết số 70/2011/QH13 của Quốc hội khóa XIII, Hội Luật gia Việt Nam được giao chủ trì xây dựng Luật Trưng cầu ý dân để trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9 và thông qua tại kỳ hợp thứ 10, Quốc hội khóa XIII.

Hội Luật gia Việt Nam xin thuyết minh những nội dung cơ bản về dự án Luật như sau:

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT TRƯNG CẦU Ý DÂN

1.1. Phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp, việc xây dựng Luật trưng cầu ý dân được xác định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: có cơ chế cụ thể đ nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, chỉ rõ: “mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp đ người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về Trưng cầu ý dân. Hiến pháp 1946 và các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 đều có quy định về trưng cầu ý dân. Hiến pháp 2013 quy định về trưng cầu ý dân tại Điều 29, khoản 15 Điều 70, khoản 13 Điều 74, khoản 4 Điều 120, đồng thời quy định về quyền dân chủ trực tiếp tại khoản 1 Điều 2 và Điều 6. Điều 29 Hiến pháp xác định rõ: “Nhân dân có quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Việc ban hành Luật trưng cầu ý dân là cần thiết để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.

1.2. Trọng dân, tin dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc là một trong những tư tưởng được thể hiện rõ trong truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm vừa qua, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được phổ biến và thực hiện ngày càng rộng rãi trong cuộc sống. Xây dựng Luật Trưng cầu ý dân góp phần thiết thực vào việc phản ánh và phát huy giá trị tư tưởng và truyền thống đó, tạo khuôn khổ pháp lý cho người dân tham gia chủ động, tích cực, đông đảo và quyết định vào các công việc của Nhà nước và xã hội phù hợp với bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

1.3. Trưng cầu ý dân là một phương thức để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước trong từng thời điểm cụ thể. Thực tiễn đã cho thấy, từ khi thành lập nước đến nay, nhất là từ sau năm 1976, sau khi đất nước thống nhất về mọi mặt, việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật trước khi ban hành đã được triển khai; việc tham vấn chuyên gia và thực hiện phản biện xã hội cũng đã được mở rộng ; việc công khai các dự thảo văn bản luật và chính sách được coi là nguyên tắc ban hành văn bản QPPL và hoạch định chính sách. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, kết quả của các hoạt động lấy ý kiến nhân dân, để nhân dân quyết định trực tiếp đối với những vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh cũng còn rất nhiều hạn chế, một trong những nguyên nhân là cho đến nay nước ta vẫn chưa có thể chế pháp lý rõ ràng về trưng cầu ý dân, mặc dù trưng cầu ý dân luôn là một quy định pháp lý hiến định. Việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân là cần thiết, để người dân trực tiếp thể hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước, đáp ứng nhu cầu khách quan trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

1.4. Trưng cầu ý dân đã được thừa nhận rộng rãi như là một trong những giá trị của dân chủ trực tiếp trong xã hội hiện đại và rất nhiều nước đã ban hành Luật Trưng cầu ý dân để điều chỉnh các mối quan hệ về trưng cầu ý dân. Cho đến nay đã có 167/214 (khoảng 78%) quốc gia và vùng lãnh thổ có luật hoặc các quy định pháp lý về trưng cầu ý dân. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế và chính trị với các nước trong khu vực và trên thế giới, việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân là cần thiết, tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia sâu hơn, có tính quyết định với tư cách chủ thể vào những vấn đề quan trọng của đất nước, xây dựng đất nước công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.

2. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT TRƯNG CẦU Ý DÂN

Để triển khai xây dựng Dự án Luật, Hội Luật gia Việt Nam đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập, ban hành kế hoạch xây dựng dự án Luật Trưng cầu ý dân1; tổ chức 05 cuộc họp Ban soạn thảo và nhiều cuộc họp Tổ biên tập; tổ chức 04 cuộc hội thảo khoa học trong nước và quốc tế, cụ thể: hội thảo khoa học “Luật Trưng cầu ý dân – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, hội thảo khoa học “Những vấn đề cơ bản về Luật Trưng cầu ý dân” tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh; hội thảo quốc tế với chủ đề “Luật Trưng cầu ý dân của một số nước – kinh nghiệm cho Việt Nam”; tổ chức khảo sát ý kiến một số vấn đề về trưng cầu ý dân tại 63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương2; tổ chức khảo sát kinh nghiệm thực tế tại Thái Lan; tổ chức nghiên cứu tổng quan về pháp luật trưng cầu ý dân ở các nước trên thế giới; tổ chức nghiên cứu về các quy định của pháp luật hiện hành về trưng cầu ý dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam; tập hợp các tài liệu nghiên cứu về luật trưng cầu ý dân trong và ngoài nước, kết quả nghiên cứu luật Trưng cầu ý dân giai đoạn 2004-2006; biên dịch luật Trưng cầu ý dân của 11 quốc gia trên thế giới gồm: Canada, Nga, Estonia, Slovakia, Ireland, Latvia, Bangladesh, Myanmar, Philippine, Úc, Thái Lan, Montenegro, Acmenia; các tài liệu tham khảo về trưng cầu ý dân của Nhật Bản, Hàn quốc và Thái Lan; tổ chức nghiên cứu, rà soát các luật có liên quan như Luật Bầu cử, Luật Tổ chức Quốc hội .v.v..



3. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT TRƯNG CẦU Ý DÂN

3.1. Luật trưng cầu ý dân phải thể chế hóa các quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; về phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường đoàn kết và đồng thuận xã hội, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia rộng rãi, trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước thông qua các cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

3.2. Nội dung của Luật Trưng cầu ý dân phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các luật có liên quan, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

3.3. Việc xây dựng Luật Trưng cầu ý dân phải đảm bảo cơ sở thực tiễn, các quy định của Luật Trưng cầu ý dân phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, phản ánh đúng các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam hiện nay và phải tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của Luật.

3.4. Luật Trưng cầu ý dân phải đảm bảo tính kế thừa và phát triển các kết quả của công tác xây dựng pháp luật của nước ta qua các thời kỳ, đồng thời nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới về xây dựng và thực hiện pháp luật về trưng cầu ý dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam

4. BỐ CỤC CỦA DỰ THẢO LUẬT

Dự thảo Luật trưng cầu ý dân gồm 9 chương, 56 Điều.



1. Chương I. Những quy định chung

Chương I gồm 12 Điều (từ Điều 1 đến Điều 12) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc trưng cầu ý dân; người có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân; những vấn đề đề nghị trưng cầu ý dân; phạm vi trưng cầu ý dân; những trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân; giám sát trưng cầu ý dân; hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân; kinh phí tổ chức trưng cầu ý dân và những hành vi bị nghiêm cấm.



2. Chương II. Đề nghị trưng cầu ý dân, quyết định trưng cầu ý dân, tổ chức trưng cầu ý dân

Chương II gồm 7 Điều (từ Điều 13 đến Điều 19) quy định về các chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân; thẩm tra, cho ý kiến về đề nghị trưng cầu ý dân; trình và quyết định trưng cầu ý dân; công bố quyết định trưng cầu ý dân; tổ chức trưng cầu ý dân và ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân.



3. Chương III. Các cơ quan, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân

Chương III gồm 6 Điều (từ Điều 20 đến Điều 25) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức trưng cầu ý dân; việc thành lập các Tổ trưng cầu ý dân và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân trong việc tổ chức trưng cầu ý dân.



4. Chương IV. Danh sách cử tri và khu vực bỏ phiếu trưng cầu ý dân

Chương IV gồm 7 Điều từ (Điều 26 đến Điều 32) quy định về nguyên tắc lập danh sách cử tri; những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri; thẩm quyền lập danh sách cử tri; việc niêm yết danh sách cử tri; khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri; việc cử tri bỏ phiếu nơi khác và quy định về khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân.



5. Chương V. Thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân

Chương V gồm 5 Điều (từ Điều 33 đến Điều 37) quy định về mục đích, nguyên tắc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; nội dung thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; thời gian thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; các hình thức thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân và trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân.



6. Chương VI. Trình tự, thủ tục trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ của cử tri trong trưng cầu ý dân

Chương VI gồm 5 Điều (từ Điều 38 đến Điều 42) quy định về phiếu trưng cầu ý dân; việc thông báo về thời gian và địa điểm bỏ phiếu; thời gian bỏ phiếu trưng cầu ý dân; về việc bỏ phiếu sớm, hoãn ngày bỏ phiếu; nguyên tắc bỏ phiếu trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ của cử tri trong trưng cầu ý dân.



7. Chương VII. Kết quả trưng cầu ý dân

Chương VII gồm 11 Điều (từ Điều 43 đến Điều 53) quy định về kiểm phiếu; phiếu không hợp lệ; khiếu nại tại chỗ khi kiểm phiếu; biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ trưng cầu ý dân; báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và báo cáo tổng hợp kết quả cuộc trưng cầu ý dân của Ủy ban thường vụ Quốc hội; kết quả trưng cầu ý dân; việc công bố kết quả trưng cầu ý dân và việc bỏ phiếu lại.



8. Chương VIII. Xử lý vi phạm về trưng cầu ý dân

Chương VIII gồm 2 điều (từ Điều 54 đến Điều 55) quy định xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm điều cấm theo quy định tại Điều 12 của Luật này và hành vi cản trở hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo.


9. Chương IX. Điều khoản thi hành (Điều 56)

Dự thảo luật xây dựng theo phương án cụ thể hóa tối đa các quy phạm để áp dụng trực tiếp, không ban hành Nghị định hay hình thức văn bản khác để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, do vậy Chương này có một Điều (Điều 56) chỉ quy định về thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật.

II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT

CHƯƠNG I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG


Chương I gồm 12 Điều (từ Điều 1 đến Điều 12) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc trưng cầu ý dân; người có quyền biểu quyết trưng cầu ý dân; những vấn đề đề nghị trưng cầu ý dân; phạm vi trưng cầu ý dân; những trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân; giám sát trưng cầu ý dân; hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân; kinh phí tổ chức trưng cầu ý dân và những hành vi bị nghiêm cấm.

1. Phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

Điều 1 Dự thảo đã quy định toàn bộ những nội dung mà Luật quy định, cụ thể là: “Luật này quy định việc công dân trực tiếp thực hiện quyền bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu ý dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức theo nghị quyết của Quốc hội; các nguyên tắc trưng cầu ý dân; những vấn đ đ nghị trưng cầu ý dân; cử tri trong trưng cầu ý dân; quyền đ nghị trưng cầu ý dân; thẩm quyền quyết định và tổ chức trưng cầu ý dân; kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân; trình tự, thủ tục tổ chức trưng cầu ý dân”.

2. Nguyên tắc trưng cầu ý dân (Điều 4)


Các nguyên tắc trong dự thảo đưa ra đảm bảo xuyên suốt các khâu, các bước trong trưng cầu ý dân. Dự thảo đã nêu ra 3 nguyên tắc, trong đó, nguyên tắc thứ nhất: "Đ cao quyền lực của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, bảo đảm đ nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình vào việc quyết định những vấn đ quan trọng của đất nước". Đề cao quyền lực nhân dân, tức là ý chí của nhân dân là cao nhất, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Song, khi đề cao quyền lực nhân dân vẫn chú ý tăng cường sự đồng thuận xã hội.

Ngoài ra, cũng có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm quyền giám sát của nhân dân trong quá trình tổ chức trưng cầu ý dân”. Ban soạn thảo cho rằng, nguyên tắc thứ nhất đã bao hàm nội dung này, do đó không cần thiết phải tách ra thành một nguyên tắc riêng.


3. Những người có quyền biểu quyết trưng cầu ý dân (Điều 5)


Dự thảo Luật quy định cử tri trong trưng cầu ý dân như cử tri trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Cụ thể là “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình đ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, đ mười tám tuổi trở lên tính đến ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân, có đ năng lực hành vi dân sự, trừ những người được quy định tại khoản 1, 2 Điều 27 của Luật này, có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân».

Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng, Luật cần quy định để công dân Việt Nam đang công tác, lao động, học tập hoặc định cư ở nước ngoài được bỏ phiếu trưng cầu ý dân. Về vấn đề này, Ban soạn thảo cho rằng, công dân Việt Nam đang công tác, lao động, học tập hoặc định cư ở nước ngoài ở phân tán nhiều nơi, để tổ chức được cho các đối tượng nói trên cũng được bỏ phiếu trưng cầu ý dân thì về mặt tổ chức, chúng ta sẽ phải thành lập rất nhiều Tổ trưng cầu ý dân ở mỗi nước, việc bàn giao kết quả kiểm phiếu trưng cầu ý dân cũng rất phức tạp, không khả thi trong điều kiện hiện nay, nhất là việc trưng cầu ý dân phải theo hình thức bỏ phiếu.


4. Những vấn đề đề nghị trưng cầu ý dân (Điều 6)

Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại Khoản 15 Điều 70, quy định Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân và Khoản 4 Điều 120, quy định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.


Có hai loại ý kiến về vấn đề này:

Đa số ý kiến đ nghị: Chỉ nên quy định khái quát về những vấn đề được đề nghị Quốc hội quyết định đưa ra trưng cầu ý dân. Bởi vì, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân là những vấn đề quan trọng của đất nước và việc đưa vấn đề nào ra trưng cầu ý dân thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, nếu quy định quá cụ thể có thể sẽ không bao quát hết được(Phương án 1 dự thảo).

Một số ý kiến khác đ nghị: Cần phải quy định rõ những vấn đề nào được đưa ra trưng cầu ý dân, nhưng quy định theo cách trong những vấn đề đó thì tùy thuộc Quốc hội xem xét có thể đưa vấn đề nào ra trưng cầu ý dân. Theo quan điểm này, cần phải liệt kê những vấn đề cần đưa ra trưng cầu ý dân (Phương án 2 dự thảo).

Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, ngoài việc quy định cụ thể những vấn đề nào đưa ra trưng cầu ý dân, cũng phải quy định cả về những vấn đề không đưa ra trưng cầu ý dân. Ban soạn thảo cho rằng, dự thảo Luật trưng cầu ý dân không cần quy định về những vấn đề không đưa ra trưng cầu ý dân vì đó là vấn đề do Quốc hội quyết định.

Tham khảo một số nước thì có 65 nước không quy định vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân là vấn đề nào, cái đó tùy thuộc vào kiến nghị trưng cầu ý dân của các chủ thể đưa ra kiến nghị, miễn là đáp ứng được những quy định của pháp luật; một số nước chỉ quy định trưng cầu ý dân bắt buộc đối với Hiến pháp; một số nước khác thì quy định cụ thể những vấn đề phải trưng cầu ý dân.

5. Phạm vi trưng cầu ý dân (Điều 7)


Dự thảo quy định: “Các cuộc trưng cầu ý dân được thực hiện trên phạm vi cả nước”. Điều này phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân của Quốc hội. Đồng thời, những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân phải là những vấn đề có ý nghĩa ở tầm quốc gia đưa ra để toàn dân quyết định, còn những vấn đề mang tính địa phương hoặc khu vực thì áp dụng hình thức lấy ý kiến nhân dân trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, có những vấn đề quan trọng của đất nước nhưng phạm vi tác động chỉ ở một khu vực thì Quốc hội vẫn quyết định trưng cầu ý dân nhưng chỉ cần tổ chức trưng cầu ý dân ở khu vực đó, ví dụ như xây dựng nhà máy điện hạt nhân hay một dự án kinh tế xã hội có liên quan đến một hoặc một số tỉnh, thành phố.

Qua khảo sát, nghiên cứu Luật trưng cầu ý dân của nhiều nước trên thế giới cho thấy: ở một số nước việc tổ chức trưng cầu ý dân được tổ chức ở cả cấp địa phương và cấp quốc gia (Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Sỹ…), ở một số nước khác thì chỉ tổ chức ở cấp quốc gia (Latvia) và một số nước lại chỉ cho tổ chức ở cấp địa phương (Hoa Kỳ).

6. Những trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 8)

Dự thảo quy định cụ thể việc không tổ chức trưng cầu ý dân trong những trường hợp sau:



1. Có đề nghị trưng cầu ý dân về cùng một vấn đề mà kết quả trưng cầu ý dân về vấn đề đó được công bố chưa đủ hai mươi bốn tháng;

2. Trong thời gian có chiến tranh hoặc có ban bố tình trạng khẩn cấp; trong thời gian sáu tháng kể từ ngày chiến tranh chấm dứt hoặc việc ban bố tình trạng khẩn cấp đã được bãi bỏ.

Về vấn đề này có hai loại ý kiến khác nhau:



Đa số ý kiến cho rằng nên quy định cụ thể các trường hợp, hoàn cảnh không tổ chức trưng cầu ý dân để tránh trường hợp tổ chức trưng cầu ý dân vào những hoàn cảnh không phù hợp, không đảm bảo việc tổ chức trưng cầu ý dân được thành công.

Một số ý kiến khác cho rằng không cần quy định điều này, bởi lẽ việc trưng cầu ý dân do Quốc hội quyết định, tùy từng thời điểm, hoản cảnh cụ thể Quốc hội sẽ xem xét việc tổ chức hay không tổ chức trưng cầu ý dân.

Ban soạn thảo nhất trí với đa số ý kiến và đã thể hiện tại Điều 8 dự thảo.

7. Giám sát trưng cầu ý dân (Điều 9)

Về vấn đề này có hai loại ý kiến,


Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, dự thảo Luật không cần quy định về việc giám sát trưng cầu ý dân, bởi vì, thẩm quyền, trách nhiệm giám sát của các cơ quan dân cử và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sắp tới còn được điều chỉnh trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Theo đó, các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả pháp luật về trưng cầu ý dân. Vì vậy, đề nghị không quy định vấn đề giám sát trong trưng cầu ý dân để tránh trùng lặp.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, để cuộc trưng cầu ý dân được tiến hành dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật thì việc quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các nhân và công dân trong giám sát việc trưng cầu ý dân là cần thiết. Về thẩm quyền, nội dung, phương thức giám sát của các chủ thể cần quy định tại các luật liên quan về giám sát đang được soạn thảo như Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do đó, dự thảo Luật cần tăng cường các quy định về giám sát trực tiếp của nhân dân-chủ thể thực hiện quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân.

Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến thứ hai và thiết kế quy định về giám sát trưng cầu ý dân tại Điều 9 dự thảo.

8. Về hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân (Điều 10)


Dự thảo xác định hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định (vì trong hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam đã có các quy định về việc lấy ý kiến nhân dân để tham khảo). Quy định này thống nhất với quy định tại khoản 2, Điều 19 Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi 2014).

Kết quả trưng cầu ý dân có hiệu lực kể từ ngày công bố. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang nhân dân và công dân có nghĩa vụ tôn trọng, thực hiện kết quả trưng cầu ý dân.



9. Về những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 12)

Đa số ý kiến cho rằng, để tránh có những hành vi tiêu cực trong trưng cầu ý dân, việc quy định những hành vi bị nghiêm cấm là cần thiết trong luật này, cần thiết kế riêng một điều về các hành vi bị nghiêm cấm ngay trong chương những quy định chung nhằm làm rõ các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 12 dự thảo).

Có ý kiến cho rằng, Luật trưng cầu ý dân nhằm đề cao quyền lực nhân dân, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp, do đó không nên thiết kế riêng một điều về các hành vi bị cấm mà nên quy định từng hành vi bị cấm cụ thể trong các điều luật.

Ban soạn thảo đã thiết kế theo đa số ý kiến.

CHƯƠNG II. ĐỀ NGHỊ TRƯNG CẦU Ý DÂN, QUYẾT ĐỊNH TRƯNG CẦU Ý DÂN, TỔ CHỨC TRƯNG CẦU Ý DÂN


Chương II gồm 7 Điều (từ Điều 13 đến Điều 19) quy định về các chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân; thẩm tra, cho ý kiến về đề nghị trưng cầu ý dân; trình và quyết định trưng cầu ý dân; công bố quyết định trưng cầu ý dân; tổ chức trưng cầu ý dân và ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân.

1. Cơ quan, tổ chức có quyền đề nghị trưng cầu ý dân (Điều 13)

Về chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân, dự thảo Luật trưng cầu ý dân đưa ra hai phương án để xin ý kiến:



Phương án 1: chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân bao gồm Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội như quy định tại khoản 1, Điều 19 Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi 2014).

Phương án 2: ngoài bốn chủ thể trên, phương án 2 bổ sung Thủ tướng Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được đề nghị trưng cầu ý dân, bởi vì:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 98 Hiến pháp 2013, Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật, lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính tính thống nhất của hệ thống hành chính quốc gia;

Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 9, khoản 1 quy định “…Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội…”. Việc quy định Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề nghị trưng cầu ý dân sẽ tạo thêm một kênh thông tin quan trọng để Quốc hội xem xét, quyết định vấn đề trưng cầu ý dân, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò của mình. Đối với Việt Nam, việc quy định Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề nghị trưng cầu ý dân sẽ là một nét độc đáo phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Thứ ba, việc Luật Tổ chức Quốc hội (khoản 1, Điều 19) chỉ quy định 4 chủ thể (như phương án 1) không cản trở Luật trưng cầu ý dân bổ sung thêm chủ thể vì Luật này là luật chuyên ngành trong lĩnh vực trưng cầu ý dân. Tham khảo Luật trưng cầu ý dân của nhiều nước quy định chủ thể có sáng quyền trưng cầu ý dân khá rộng.

Đối với phương án này, cũng có ý kiến cho rằng, để phù hợp với khoản 1 Điều 120 của Hiến pháp, thì cần phải giới hạn Thủ tướng Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không được đề nghị trưng cầu ý dân về Hiến pháp.

Về trình tự, đề nghị trưng cầu ý dân phải gửi đến Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để thẩm tra (theo Điều 14); trình Ủy ban thường vụ Quốc cho ý kiến trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định (Điều 15). Đề nghị trưng cầu ý dân phải đảm bảo nội dung tương tự như kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh (khoản 3, Điều 13). Nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân phải được quá nửa tổng số Đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (khoản 3, Điều 16).



3. Tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 18)

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội và công bố kết quả tổ chức trưng cầu ý dân với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Toàn bộ nội dung của Điều này kế thừa và phát triển từ Điều 59 Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi 2014)



CHƯƠNG III. CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH TRƯNG CẦU Ý DÂN

Theo quy định của Hiến pháp 2013, Điều 74, khoản 13 quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội “Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội”.

Về vấn đề này có ba loại ý kiến khác nhau:

Đa số ý kiến cho rằng, phù hợp với quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, đồng thời để các cơ quan phụ trách trưng cầu ý dân được tổ chức gọn nhẹ, không nên tổ chức bộ máy mới vì việc trưng cầu ý dân là hoạt động không thường xuyên, do đó, việc tổ chức trưng cầu ý dân sẽ do Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình trực tiếp thực hiện và chỉ đạo việc tổ chức trưng cầu ý dân trên toàn quốc, Chính phủ là cơ quan phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội trong tổ chức trưng cầu ý dân, cơ quan giúp việc cho Ủy ban thường vụ Quốc hội thì tùy từng cuộc trưng cầu ý dân cụ thể sẽ do Ủy ban thường vụ Quốc hội phân công hoặc thành lập bộ phận giúp việc; việc tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương sẽ giao cho Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện.

Một số ý kiến cho rằng, Ủy ban thường vụ Quốc hội cần thành lập Ủy ban trưng cầu ý dân trung ương để giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức trưng cầu ý dân và chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Ủy ban trưng cầu ý dân trung ương được thành lập với cơ cấu hợp lý, thời gian thành lập nhanh, các đại diện tham gia hoạt động kiêm nhiệm để thực hiện các nhiệm vụ chuyên biệt và có tính đặc thù riêng của trưng cầu ý dân.

Một số ý kiến khác cho rằng, nên giao cho Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương tổ chức trưng cầu ý dân để tránh thành lập thêm bộ máy.Tuy nhiên, Điều 117, khoản 1 Hiến pháp 2013 quy định “Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấpNhư vậy, Hội đồng bầu cử trung ương không có thẩm quyền tổ chức trưng cầu ý dân, mà việc tổ chức trưng cầu ý dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện. Hơn nữa, trưng cầu ý dân có đặc thù riêng, tính chất của cuộc trưng cầu ý dân khác với bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, thủ tục ngắn gọn hơn một cuộc bầu cử, do vậy không thể giao cho Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương thực hiện.

Ban soạn thảo nhất trí với đa số ý kiến, do đó, Chương III dự thảo Luật gồm 6 Điều (từ Điều 20 đến Điều 25), cụ thể như sau:

Điều 20 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc tổ chức trưng cầu ý dân gồm 11 nội dung.

Điều 21 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức trưng cầu ý dân gồm 05 nội dung.

Điều 22 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức trưng cầu ý dân gồm 09 nội dung.

Điều 23 quy định về việc thành lập Tổ trưng cầu ý dân.

Điều 24 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ trưng cầu ý dân gồm 09 nội dung.

Điều 25 quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang và công dân trong việc tổ chức trưng cầu ý dân.



CHƯƠNG IV. DANH SÁCH CỬ TRI VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU TRƯNG CẦU Ý DÂN

Về vấn đề này có hai loại ý kiến:

Đa số ý kiến cho rằng, cần quy định cụ thể về nguyên tắc lập danh sách cử tri, những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri, thẩm quyền lập danh sách cử tri, việc niêm yết danh sách cử tri, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, việc cử tri bỏ phiếu nơi khác và quy định về khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân mà không quy định dẫn chiếu áp dụng theo các quy định tương ứng của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Bởi vì, mặc dù phần này có một số quy định tương đồng với Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nhưng tính chất của cuộc bầu cử khác với cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử là cử tri bầu ra đại biểu đại diện cho mình, còn trưng cầu ý dân là việc cử tri thể hiện ý trí của mình về một vấn đề cụ thể; việc quy định trực tiếp sẽ giúp cho việc tiếp cận văn bản được dễ dàng hơn; một số thuật ngữ cũng sử dụng khác nhau, ví dụ như: ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dânngày bầu cử, Tổ trưng cầu ý dânTổ bầu cử, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân cấp trên của Tổ trưng cầu ý dân là Ủy ban trưng cầu ý dân cấp xã, còn tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên của Tổ bầu cử là Ban bầu cử.v.v..

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, không thiết kế các điều cụ thể mà chỉ quy định một điều dẫn chiếu áp dụng theo các quy định tương ứng của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân về nguyên tắc lập danh sách cử tri; thẩm quyền lập danh sách cử tri; niêm yết danh sách cử tri; khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri; bỏ phiếu nơi khác và khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân.

Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến đa số và đã thể hiện tại Chương IV dự thảo gồm 7 điều (từ Điều 26 đến Điều 32) quy định về nguyên tắc lập danh sách cử tri, những trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri, thẩm quyền lập danh sách cử tri, việc niêm yết danh sách cử tri, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, việc cử tri bỏ phiếu nơi khác và quy định về khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân.

Nội dung phần này cơ bản đối chiếu, tham khảo các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.



CHƯƠNG V. THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN TRƯNG CẦU Ý DÂN

Chương V gồm 5 Điều (từ Điều 33 đến Điều 37) quy định về mục đích, nguyên tắc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; nội dung thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; thời điểm thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân; các hình thức thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân và trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân.


1. Về mục đích, nguyên tắc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 33)

Dự thảo quy định:

1. Việc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân nhằm cung cấp thông tin đầy đ, đúng đắn về vấn đ được đưa ra trưng cầu ý dân đ cử tri hiểu rõ ý nghĩa, nội dung của vấn đ đưa ra trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia trưng cầu ý dân; động viên, khuyến khích cử tri tham gia tích cực vào việc bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân.


2. Việc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, khoa học, đúng pháp luật, bảo đảm thuận lợi cho cử tri và bảo đảm trận tự, an toàn xã hội.

Việc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân có đặc thù riêng, đó là thông tin, tuyên truyền về vấn đề trưng cầu ý dân, về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia trưng cầu ý dân; động viên cử tri đi bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân, không vận động cử tri bỏ phiếu hay ủng hộ phương án cụ thể. Nội dung này khác với việc thông tin, tuyên truyền, vận động trong bầu cử là người ứng cử được vận động cử tri trực tiếp bỏ phiếu cho mình.


2. Về nội dung thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 34)

Dự thảo đã thiết kế đưa ra những nội dung cần thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân, tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng không cần thiết kế nội dung này mà, dự thảo đã xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội là « chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân» do đó nội dung trưng cầu ý dân nên để Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

3. Về thời gian thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 35)


Dự thảo quy định: Thời gian thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân được bắt đầu từ ngày Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố Nghị quyết của Quốc hội cho đến khi kết thúc việc bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, thời gian thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân được bắt đầu từ ngày niêm yết danh sách cử tri. Bởi vì, sau khi niêm yết danh sách cử tri thì mới có đối tượng (cử tri) cụ thể để thông tin, tuyên truyền (thời gian niêm yết là chậm nhất 30 ngày trước ngày bỏ phiếu).

Đa số ý kiến cho rằng, cần có nhiều thời gian thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân để cử tri có điều kiện tiếp cận đầy đủ thông tin về cuộc trưng cầu ý dân, do vậy, Ban soạn thảo nhất trí với đa số ý kiến và đã thể hiện như trong dự thảo.

4. Về các hình thức thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 36)

Việc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân được tiến hành bằng 4 hình thức cụ thể ghi trong dự thảo.

5. Về trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 37)


Quy định trách nhiệm của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan báo chí; cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.

CHƯƠNG VI. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC TRƯNG CẦU Ý DÂN; QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA CỬ TRI TRONG TRƯNG CẦU Ý DÂN

Chương VI gồm 5 Điều (từ Điều 38 đến Điều 42) quy định về phiếu trưng cầu ý dân; việc thông báo về thời gian và địa điểm bỏ phiếu; thời gian bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân; về việc bỏ phiếu sớm, hoãn ngày bỏ phiếu; nguyên tắc bỏ phiếu trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ của cử tri trong trưng cầu ý dân.

Trong đó quy định, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về nội dung, hình thức, in, phát hành và quản lý phiếu trưng cầu ý dân, các nội dung khác của Chương này có tham khảo và tương đồng với các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.

CHƯƠNG VII. KẾT QUẢ TRƯNG CẦU Ý DÂN

Chương VII gồm 2 mục,

MỤC 1: KIỂM PHIẾU

Mục này gồm 8 điều (từ Điều 43 đến Điều 50) quy định về kiểm phiếu; phiếu không hợp lệ; khiếu nại tại chỗ khi kiểm phiếu; biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ trưng cầu ý dân; báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và báo cáo tổng kết cuộc trưng cầu ý dân của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của Ủy ban nhân dân các cấp chỉ xác định số phiếu tán thành với mỗi phương án được đưa ra trong phiếu trưng cầu ý dân và số phiếu không tán thành với mỗi phương án được đưa ra trong phiếu trưng cầu ý dân, còn kết quả trưng cầu ý dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội tổng hợp kết quả và công bố theo quy định của Mục 2, Chương này.

MỤC 2: CÔNG BỐ KẾT QUẢ TRƯNG CẦU Ý DÂN


Mục này gồm 3 điều (từ Điều 51 đến Điều 53) quy định kết quả trưng cầu ý dân; việc công bố kết quả trưng cầu ý dân và việc bỏ phiếu lại.

1. Về kết quả trưng cầu ý dân (Điều 51)


Dự thảo xây dựng trên cơ sở kết quả cuộc trưng cầu ý dân có giá trị quyết định (theo quy định tại khoản 1, Điều 10 dự thảo), do đó, kết quả cuộc trưng cầu ý dân phải đảm bảo số lượng cử tri nhất định theo công thức “quá bán kép” cụ thể là: “Cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá nửa tổng số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu. Phương án trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được công bố đ thi hành”.

Tuy nhiên, vấn đề này có hai loại ý kiến theo hai phương án:



Phương án 1: Kế thừa quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, dự thảo Luật quy định áp dụng chung cho mọi trường hợp: Cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá nửa số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu. Phương án trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được công bố đ thi hành.

Phương án 2: Hiến pháp là đạo luật đặc biệt quan trọng, do đó, ngoài quy định chung như phương án 1, phương án này đề xuất trong trường hợp trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá hai phần ba tổng số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu và phương án được quá hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành được công bố đ thi hành.

Về vấn đề này, pháp luật các nước quy định không giống nhau, có nước không quy định tỷ lệ cử tri bắt buộc tham gia (Thụy Sĩ); ở Bulgaria, Croatia, Ý, Lithuania, Nga… phải có trên 50% tổng số cử tri của cả nước đi bỏ phiếu; ở Latvia, tỷ lệ này là một nửa số cử tri đã tham gia cuộc bầu cử nghị viện năm gần nhất; ở Azerbaizan, tỷ lệ này rất thấp – chỉ cần 25% tổng số cử tri đã đăng ký tham gia bầu cử.

Về tỷ lệ cử tri tán thành để phương án được lựa chọn các nước cũng không giống nhau: ở Hungary số cử tri bỏ phiếu tán thành phải chiếm ¼ tổng số cử tri; ở Albani và Armenia, tỷ lệ này là 1/3 tổng số cử tri; và ở Đan Mạch, đối với trưng cầu ý dân liên quan đến sửa đổi hiến pháp, thì phải đạt được sự tán thành của 40% tổng số cử tri. Một số nước có quy định tỷ lệ đặc biệt cao khi trưng cầu ý dân về các vấn đề hệ trọng của đất nước. Ví dụ như ở Latvia, đối với việc sửa đổi hiến pháp thì phải được sự tán thành của hơn 50% số cử tri đã đăng ký, ở Lithuania, khi trưng cầu ý dân về các vấn đề liên quan đến chủ quyền đất nước thì số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu phải chiếm ít nhất ¾ tổng số cử tri, còn với các vấn đề khác liên quan đến nhà nước hoặc sửa đổi hiến pháp thì số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu phải chiếm đa số; ở Croatia, khi trưng cầu ý dân về vấn đề liên kết với các quốc gia khác thì phải có đa số cử tri bỏ phiếu "đồng ý".

2. Về công bố kết quả trưng cầu ý dân (Điều 52)


Dự thảo quy định “Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố kết quả trưng cầu ý dân”, bởi lẽ Hiến pháp quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan tổ chức trưng cầu ý dân, do đó cơ quan này sẽ công bố kế quả trưng cầu ý dân. Điều 59 Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi 2014) cũng đã quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố kết quả trưng cầu ý dân.

Một số ý kiến cho rằng, có thể giao cho Chủ tịch nước công bố (như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).

Ban soạn thảo đề nghị phương án Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan tổ chức trưng cầu ý dân, do đó cơ quan này sẽ công bố kế quả trưng cầu ý dân.

Về thời gian công bố kết quả trưng cầu ý dân, Dự thảo Luật quy định trong thời gian chậm nhất 15 ngày kể từ ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân, kết quả trưng cầu ý dân cần được công bố.

3. Bỏ phiếu lại (Điều 53)

Dự thảo quy định: “Ủy ban trưng cầu ý dân trung ương đ nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ kết quả b phiếukhu vực bỏ phiếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và quyết định ngày bỏ phiếu lại ở khu vực bỏ phiếu đó”.

Trong trường hợp không thành lập Ủy ban trưng cầu ý dân trung ương thì “Ủy ban trưng cầu ý dân cấp tỉnh đ nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ kết quả b phiếukhu vực bỏ phiếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và quyết định ngày bỏ phiếu lại ở khu vực bỏ phiếu đó”.

Việc khu vực bỏ phiếu có số lượng cử tri đi bỏ phiếu thấp (dưới 50%) không là căn cứ để bỏ phiếu lại (điểm này khác với Luật Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân)



CHƯƠNG VIII. XỬ LÝ VI PHẠM VỀ TRƯNG CẦU Ý DÂN

Chương VIII gồm 2 điều (từ Điều 54 đến Điều 55) quy định xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm điều cấm theo quy định tại Điều 12 của Luật này và hành vi cản trở hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo.

Cũng có ý kiến cho rằng cần thiết kế Chương này thêm nội dung giải quyết khiếu nại, tố cáo về trưng cầu ý dân. Qua khảo sát pháp luật về trưng cầu ý dân một số nước, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (của nước ta) thì các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo đều quy định trực tiếp vào từng vấn đề cụ thể và từng giai đoạn cụ thể. Dự thảo Luật trưng cầu ý dân có hai điều (Điều 30 và Điều 45) quy định trực tiếp việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri và khiếu nại tại chỗ khi kiểm phiếu.

CHƯƠNG IX. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Dự thảo luật xây dựng theo phương án cụ thể hóa tối đã các quy phạm để áp dụng trực tiếp, không ban hành Nghị định hay hình thức văn bản khác để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, do vậy Chương này chỉ quy định về thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật.


Trên đây là bản thuyết minh chi tiết dự thảo Luật trưng cầu ý dân./.

Nơi nhận:

- Quốc hội;

- Ủy ban thường vụ Quốc hội;

- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;

- Văn phòng Quốc hội;

- Lưu: VT, Ban NC.



CHỦ TỊCH

(đã ký)

Nguyễn Văn Quyền



1 Thành phần gồm đại diện của: Hội Luật gia Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát quân sự Trung ương, Ban dân vận Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam,

2 Đối tượng bao gồm: Hội luật gia các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương và một số người dân.


Каталог: userfiles -> files -> NAM%202015 -> TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%209%20QH13
files -> 29 Thủ tục công nhận tuyến du lịch cộng đồng
files -> UỶ ban quốc phòng và an ninh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%209%20QH13 -> HỘi luật gia việt nam số: 114/TTr-hlgvn

tải về 293.22 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương